Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội cưỡng đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam
lượt xem 13
download
Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về những vấn đề pháp lý cơ bản của tội cưỡng đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam như: Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với người phạm tội; đồng thời đi sâu phân tích thực tiễn xét xử tội cưỡng đoạt tài sản trong thời gian từ năm 2008 - 2013. Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra một số vướng mắc, tồn tại trong công tác xử lý, từ đó đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS Việt Nam về xử lý loại tội phạm này.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội cưỡng đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HƯỜNG TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HƯỜNG TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Văn Độ Hà nội - 2014 2
- Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n NguyÔn ThÞ H-êng 3
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI 8 SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội cưỡng đoạt tài 8 sản trong luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Tài sản và quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề tài sản 8 1.1.2. Khái niệm hành vi cưỡng đoạt tài sản 9 1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định tội cưỡng đoạt tài sản trong luật 14 hình sự Việt Nam 1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình 14 sự Việt Nam về tội cưỡng đoạt tài sản 1.2.1. Giai đoạn từ khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành 16 công đến trước pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật Hình sự năm 1985 1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 đến 19 trước pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật Hình sự năm 1999 1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 đến nay 21 1.3 Nghiên cứu so sánh các quy định về tội cưỡng đoạt tài sản trong 28 luật hình sự Việt Nam với pháp luật hình sự của một số nước 1.3.1. Bộ luật Hình sự Nhật Bản 28 1.3.2. Bộ luật Hình sự của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 29 1.3.3. Bộ luật Hình sự Liên bang Nga 30 4
- Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN 34 TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH 2.1. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội cưỡng đoạt tài sản 34 2.1.1. Khách thể của tội cưỡng đoạt tài sản 34 2.1.2. Mặt khách quan của tội cưỡng đoạt tài sản 36 2.1.3. Chủ thể của tội cưỡng đoạt tài sản 38 2.1.4. Mặt chủ quan của tội cưỡng đoạt tài sản 39 2.2. Các trường hợp phạm tội cưỡng đoạt tài sản cụ thể 40 2.2.1. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 135 Bộ 40 luật Hình sự 2.2.2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 135 41 Bộ luật Hình sự 2.2.3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 135 46 Bộ luật Hình sự 2.2.4. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 135 47 Bộ luật Hình sự 2.2.5. Hình phạt bổ sung áp dụng đối với người phạm tội cưỡng 48 đoạt tài sản 2.3. Phân biệt tội cưỡng đoạt tài sản với một số tội phạm khác 48 trong luật hình sự Việt Nam 2.3.1. Phân biệt tội cưỡng đoạt tài sản với tội cướp tài sản tại Điều 48 133 Bộ luật Hình sự 2.3.2. Phân biệt tội Cưỡng đoạt tài sản với tội Bắt cóc nhằm chiếm 54 đoạt tài sản tại Điều 134 Bộ luật Hình sự 2.3.3. Phân biệt tội cưỡng đoạt tài sản với tội cướp giật tài sản tại 57 Điều 136 Bộ luật Hình sự 2.3.4. Phân biệt tội cưỡng đoạt tài sản với tội công nhiên chiếm 59 đoạt tài sản tại Điều 137 Bộ luật Hình sự 5
- Chương 3: THỰC TIỄN XÉT XỬ, MỘT SỐ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC 63 HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN 3.1. Thực tiễn xét xử tội cưỡng đoạt tài sản ở nước ta 63 3.1.1. Đánh giá, phân tích tình hình xét xử tội cưỡng đoạt tài sản 63 trong thời gian từ năm 2008 đến năm 2013 3.1.2. Thực tiễn xét xử các vụ án cưỡng đoạt tài sản 68 3.1.3. Một số tồn tại, bất cập trong thực tiễn xét xử và những 72 nguyên nhân cơ bản 3.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản 76 3.2.1. Sự cần thiết và ý nghĩa của việc hoàn thiện các quy định của 76 Bộ luật Hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản 3.2.2. Những giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật 78 Hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản 3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của 83 Bộ luật Hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản 3.3.1. Tăng cường công tác hướng dẫn, giải thích các quy định của 83 Bộ luật Hình sự hiện hành trong tương quan với các văn bản pháp luật khác về tội cưỡng đoạt tài sản 3.3.2. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân 85 3.3.3. Phối hợp các cơ quan, tổ chức với các cơ quan bảo vệ pháp 86 luật và Tòa án để phòng ngừa, ngăn chặn và xét xử nghiêm minh tội cưỡng đoạt tài sản 3.3.4. Tăng cường quan hệ phối hợp của các cơ quan tiến hành tố 88 tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan 3.3.5. Tăng cường, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với 91 công tác tư pháp KẾT LUẬN 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95 6
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự CTTP : Cấu thành tội phạm TNHS : Trách nhiệm hình sự 7
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 3.1 Tổng số vụ án, số bị cáo bị xét xử về tội cưỡng đoạt tài 64 sản phải giải quyết trên toàn quốc từ năm 2008 - 2013 3.2 Phân tích tình hình xét xử sơ thẩm tội cưỡng đoạt tài sản 64 ở nước ta trong thời gian từ năm 2008 - 2013 3.3 Phân tích chế tài đối với các bị cáo theo quyết định của 65 Tòa án về tội cưỡng đoạt tài sản 3.4 Đặc điểm về nhân thân của các bị cáo bị xét xử về tội 67 cưỡng đoạt tài sản 3.5 Tỷ lệ số vụ án, số bị cáo bị xét xử về tội cưỡng đoạt tài 68 sản với tổng số vụ án, số bị cáo bị xét xử về các tội xâm phạm sở hữu 8
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Đất nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới một cách toàn diện từ Đại hội toàn quốc lần thứ VI cho tới nay và đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng. Nền kinh tế chuyển từ chế độ quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao. Tình hình chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ vững và ngày càng được tăng cường; quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới, đời sống nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, bên cạnh những thành tựu đã đạt được do tác động của nhiều nguyên nhân, đã phát sinh nhiều vấn đề tiêu cực, đe dọa sự ổn định xã hội, ảnh hưởng đến sự nghiệp đổi mới của toàn dân. Qua thực tiễn xét xử các vụ án hình sự cho thấy tình hình tội phạm nói chung, các tội xâm phạm sở hữu nói riêng có nhiều diễn biến phức tạp, gây ra hậu quả và tác hại lớn cho xã hội. Trong các tội phạm xâm phạm sở hữu, hành vi cưỡng đoạt tài sản được coi là một trong những hành vi gây hậu quả hết sức nghiêm trọng, là vấn đề gây nhức nhối với toàn xã hội, tội phạm này vừa phổ biến, đa dạng về hình thức, đối tượng phạm tội lại vừa gây tâm lý hoang mang trong đại đa số bộ phận dân chúng, gây ảnh hưởng rất lớn tới trật tự an toàn xã hội. Cưỡng đoạt tài sản là tội phạm xâm hại nghiêm trọng tới cả quan hệ sở hữu và nhân thân, hành vi phạm tội thường được thực hiện một cách nguy hiểm, côn đồ, công khai với người bị hại, thể hiện ý thức coi thường pháp luật, kỷ cường xã hội. Loại tội phạm này không chỉ tăng về số lượng mà cả diễn biến phức tạp về về đối tượng phạm tội. Phương thức, thủ đoạn phạm tội cũng ngày 9
- càng tinh vi, xảo quyệt hơn, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội ngày càng lớn. Tình trạng đó đã và đang gây ra không ít những khó khăn, thách thức đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong công tác điều tra, truy tố, xét xử cũng như trong chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh và phòng chống tội phạm, bảo đảm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội để góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Mặc dù đã được các cơ quan có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục về pháp luật, các Tòa án đã áp dụng các hình phạt nghiêm khắc đối với những người có hành vi phạm tội để đấu tranh, nhưng do chưa có hướng dẫn cụ thể của các cơ quan có thẩm quyền, nên chưa được giải quyết một cách triệt để. Thực tiễn xét xử cho thấy văn bản pháp luật để các Tòa án áp dụng trong việc xét xử đối với loại tội này chưa đầy đủ, rõ ràng. Tình trạng đó đã và đang gây ra nhiều khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong công tác điều tra truy tố, xét xử cũng như trong chủ động phòng và đấu tranh chống tội phạm, gây ảnh hưởng đến việc phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm; gây tổn hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, do các quy định của luật hình sự Việt Nam về tội cưỡng đoạt tài sản còn chưa minh bạch, chưa bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ, nhất là thiếu quy phạm định nghĩa và một số quy định liên quan đến các yếu tố định tội và định khung hình phạt nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, thậm chí không thống nhất trong nhận thức về dấu hiệu pháp lý, đường lối xử lý và thực tiễn định tội danh đối với tội phạm này. Do vậy, trong một số vụ án cụ thể đã có tình trạng giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố 10
- tụng có nhận thức khác nhau về việc định tội và định khung hình phạt khi tiến hành xử lý hình sự đối với hành vi cưỡng đoạt tài sản. Cá biệt, có trường hợp còn nhầm lẫn trong việc xác định tội danh, áp dụng không đúng pháp luật, thậm chí không làm sáng tỏ được ranh giới giữa tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác hoặc không phân biệt được sự khác nhau giữa tội cưỡng đoạt tài sản với một số tội phạm có tính chất chiếm đoạt khác trong Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999 như: tội cướp tài sản (Điều 133), tội cướp giật tài sản (Điều 136); tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 137)… Để tiếp tục nghiên cứu một cách đầy đủ và làm sâu sắc hơn các vấn đề lý luận về cấu thành tội phạm (CTTP) này cũng như thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử đối với tội cưỡng đoạt tài sản làm căn cứ để đề xuất, kiến nghị tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự; nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm này, việc tác giả nghiên cứu đề tài: "Tội cưỡng đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ Luật học là cần thiết. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Dưới góc độ khoa học pháp lý, việc nghiên cứu về tội cưỡng đoạt tài sản đã được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu khoa học của các cơ sở đào tạo luật học như Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật- Đại học quốc gia Hà Nội, Viện Nhà nước và Pháp luật thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam và một số cơ sở đào tạo khác. Trong đó phải kể đến một số giáo trình, sách chuyên khảo: GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Chương XX - Các tội xâm phạm sở hữu trong Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân (2010); GS.TSKH Lê Cảm (chủ biên) - Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội (2001, tái bản năm 2003 và 2007); GS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên)- Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội (2001); 11
- Bên cạnh đó, các vấn đề về lý luận và thực tiễn xét xử còn được nghiên cứu trong một số công trình nghiên cứu khoa học của Ths. Đinh Văn Quế - Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999 - Phần các tội phạm, Tập II: Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh, 2006; TS. Trần Minh Hưởng - Tìm hiểu Bộ luật Hình sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Bình luận và chú giải - Chương IV: Các tội xâm phạm quyền sở hữu, Nxb Lao động, Hà Nội, 2002; PGS.TS Phùng Thế Vắc (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999 (Phần các tội phạm) - Chương IV: Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; TS. Cao Thị Oanh, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) - Chương IV: Các tội phạm sở hữu, Nxb Giáo dục, 2010; ThS. Đinh Thế Hưng và ThS. Trần Văn Biên, Bình luận Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung năm 2009 - Chương XIV: Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Lao động, 2010; Ngoài ra, còn phải kể đến một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Luật học chuyên ngành Tư pháp hình sự nghiên cứu về các tội xâm phạm sở hữu như Đỗ Kim Tuyến, Đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản trên địa bàn Hà Nội, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001; Lê Thị Khanh, Đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa", Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội, 2002 và một số bài viết, nghiên cứu khác có liên quan như: TS. Nguyễn Ngọc Chí, Đối tượng của các tội phạm xâm phạm sở hữu, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/1998; TS. Trương Quang Vinh, Các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật Hình sự Việt Nam 1999, Tạp chí luật học, số 4/2000... Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo, bài viết liên quan đến tội cưỡng đoạt tài sản thường tập trung đi sâu tới vấn đề lý luận về dấu hiệu định tội của tội cưỡng đoạt tài sản hoặc nhìn nhận vấn đề dưới góc độ tội phạm học, đấu tranh phòng ngừa tội cưỡng đoạt tài sản hoặc đấu tranh phòng ngừa tội xâm phạm tài sản trên một địa bản nhất định. Tuy nhiên, 12
- dưới góc độ khoa học pháp lý, đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử đối với tội cưỡng đoạt tài sản ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học. Vì vậy, việc nghiên cứu hoàn thiện các quy định của BLHS về tội cưỡng đoạt tài sản, cũng như đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về tội phạm này vẫn là vấn đề bổ ích và cần thiết trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, các dấu hiệu pháp lý, đường lối xử lý và thực tiễn xét xử đối với tội cưỡng đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam, qua đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của BLHS năm 1999 về tội phạm này. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ luật học, phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào các dấu hiệu pháp lý đặc trưng và những vấn đề liên quan đến việc định tội danh, thực tiễn xét xử đối với tội cưỡng đoạt tài sản trong những năm gần đây với tư cách là tội phạm trong chương các tội xâm phạm sở hữu mà chưa có điều kiện nghiên cứu, phân tích. 4. Mục đích nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về những vấn đề pháp lý cơ bản của tội cưỡng đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam như: Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với người phạm tội; đồng thời đi sâu phân tích thực tiễn xét xử tội cưỡng đoạt tài sản trong thời gian từ năm 2008 - 2013. Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra một số vướng mắc, tồn tại trong công tác xử lý, từ đó đề xuất một số kiến nghị, giải 13
- pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS Việt Nam về xử lý loại tội phạm này. 5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta về đấu tranh phòng và chống tội phạm. 5.2. Các phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học; phương pháp so sánh, đối chiếu; phân tích quy phạm pháp luật, khảo sát thực tiễn; nghiên cứu, điều tra án điển hình…để phân tích và luận chứng các vấn đề khoa học cần nghiên cứu trong luận văn này. 6. Những đóng góp mới của luận văn 6.1. Về mặt lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về hành vi cưỡng đoạt tài sản trong khoa học luật hình sự Việt Nam; phân tích thông qua nghiên cứu các số liệu thực tiễn xét xử sơ thẩm trên địa bàn toàn quốc từ năm 2008 - 2013 và các bản án hình sự cụ thể của một số Tòa án để đánh giá. Qua đó chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành; các sai sót trong quá trình áp dụng các quy định đó, cũng như các nguyên nhân để tìm ra giải pháp khắc phục, đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS về tội cưỡng đoạt tài sản ở khía cạnh lập pháp hình sự và việc áp dụng trong thực tiễn. 6.2. Về mặt thực tiễn Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập. Những đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp những luận chứng khoa 14
- học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng BLHS Việt Nam liên quan đến tội cưỡng đoạt tài sản, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống những tội này hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về tội cưỡng đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Các quy định về tội cưỡng đoạt tài sản trong Bộ luật Hình sự hiện hành. Chương 3: Thực tiễn xét xử, một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành về tội cưỡng đoạt tài sản. 15
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1.1. Tài sản và quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề tài sản Theo quy định tại Bộ luật dân sự năm 2005 thì tài sản được hiểu bao gồm "vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản" [30, Điều 163], trong đó quyền tài sản là các "quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ" [30, Điều 181]. Tuy nhiên, dưới góc độ luật hình sự, đối với các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, trong đó có tội cưỡng đoạt tài sản thì không phải lúc nào tài sản theo quan niệm của Bộ luật dân sự cũng được coi là đối tượng của tội phạm này; bởi vì, không phải tài sản nào người phạm tội cũng có thể chiếm đoạt được từ chủ tài sản. Tài sản là đối tượng tác động của các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói chung cũng như tội cưỡng đoạt tài sản nói riêng, phải thỏa mãn những đặc điểm sau đây: Thứ nhất, tài sản phải được thể hiện dưới dạng vật chất, có giá trị và giá trị sử dụng, tài sản này là thước đo giá trị lao động của con người được kết tinh, đồng thời phải thỏa mãn được các nhu cầu về vật chất hoặc tinh thần của con người hay nói cách khác, giá trị tài sản được tạo ra từ sức lao động của con người. Thứ hai, tài sản phải có chủ sở hữu cụ thể với các quy định có tính chất pháp lý thể hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản. Hành vi phạm tội khi xâm phạm sở hữu phải tác động tới những tài sản đã được xác lập quyền sở hữu bằng những quy định pháp lý đối với một chủ sở hữu nhất 16
- định (có thể là tổ chức, pháp nhân hoặc cá nhân) nên chỉ tài sản nào có chủ sở hữu cụ thể mới là đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu, còn tài sản vô chủ không phải là đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu. Thứ ba, tài sản phải có khả năng chuyển hóa được giữa các chủ sở hữu với nhau. Nếu không có khả năng này thì tài sản không thuộc đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội cưỡng đoạt tài sản nói riêng. Ví dụ: Tác giả của tác phẩm âm nhạc, văn học nghệ thuật là chủ của các tác phẩm đó nhưng không thể chuyển đổi được, nên khi có hành vi xâm hại đến quyền tác giả thì không cấu thành tội xâm phạm sở hữu mà cấu thành tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan theo Điều 170a BLHS. Thứ tư, tài sản là đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu là tài sản thông thường, có thể mua bán trao đổi được một cách hợp pháp những tài sản có tính chất đặc biệt hoặc Nhà nước cấm tư nhân mua bán trao đổi sẽ là đối tượng của các tội phạm khác quy định trong BLHS. Ví dụ: hành chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự thì không cấu thành tội xâm phạm sở hữu mà cấu thành tội chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự theo Điều 230 BLHS. 1.1.2. Khái niệm hành vi cưỡng đoạt tài sản Để có thể hiểu rõ hơn về hành vi cưỡng đoạt tài sản, cũng cần nghiên cứu, phân tích và làm rõ một số khái niệm có liên quan như khái niệm "tài sản"; khái niệm "chiếm đoạt"; khái niệm "đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác"; khái niệm "uy hiếp tinh thần"; trên cơ sở đó, đưa ra những đặc trưng thuộc về nội hàm khái niệm tội cưỡng đoạt tài sản. "Tài sản", theo nghĩa Hán Việt là khái niệm dùng để "chỉ chung tiền bạc, của cải" 17, tr. 622; hoặc "tiền của, của cải nói chung" 9, tr. 734, 19, tr. 602; và là "của cải vật chất dùng để sản xuất hoặc tiêu dùng" 49, tr. 1483. "Chiếm đoạt", theo nghĩa Hán Việt, chiếm là "lấy làm của mình"; "chiếm đoạt" là "dùng sức mạnh, thế lực mà lấy làm của mình" 9, tr. 142, 17, tr. 140; 17
- chiếm là: "giữ lấy làm của mình", đoạt là cướp lấy, chiếm đoạt là "cướp lấy bằng võ lực hay quyền thế" 9, tr. 142, 19, tr. 108; chiếm đoạt còn được hiểu là "chiếm của người khác bằng cách dựa vào quyền hành, sức mạnh vũ lực" 49, tr. 1483. Dưới góc độ pháp luật hình sự "chiếm đoạt tài sản" là hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành tài sản của mình 40, tr. 366 hoặc "hành vi cố ý chuyển biến một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành tài sản của mình hoặc của một nhóm người hoặc cho người khác mà mình quan tâm" 1, tr. 230. Ở đây, khái niệm "quản lý" có thể hiểu là "trông coi, giữ gìn và theo dõi việc gì" 49, tr. 1363, "chủ tài sản" được hiểu bao gồm chủ sở hữu tài sản hoặc người được giao quản lý tài sản đó (thông qua giao dịch dân sự hoặc theo quy định của pháp luật được giao nhiệm vụ quản lý tài sản). Hành vi chiếm đoạt tài sản có đặc điểm sau đây: Thứ nhất, xét về mặt khách quan, hành vi chiếm đoạt là hành vi làm cho chủ tài sản (người là chủ sở hữu tài sản hoặc người có quyền quản lý tài sản) mất hẳn khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trái pháp luật tài sản đó. Như vậy, chiếm đoạt xét về mặt thực tế là quá trình vừa làm cho chủ tài sản mất tài sản vừa tạo cho người chiếm đoạt có tài sản đó, quá trình này xét về mặt pháp lý không làm cho chủ sở hữu mất quyền sở hữu của mình mà chỉ làm mất khả năng thực tế thực hiện các quyền cụ thể của quyền sở hữu. Hành vi chiếm đoạt được thể hiện dưới những dạng hành vi cụ thể khác nhau tùy thuộc vào mối quan hệ cụ thể giữa người chiếm đoạt với tài sản chiếm đoạt cũng như vào hình thức chiếm đoạt cụ thể. Thứ hai, tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt đòi hỏi phải có đặc điểm là còn nằm trong sự chiếm hữu, sự quản lý, kiểm soát của chủ tài sản. Nếu tài sản đã thoát ly khỏi sự chiếm hữu, sự quản lý, kiểm soát của 18
- chủ tài sản (bị thất lạc) thì không còn là đối tượng của hành vi chiếm đoạt. Chỉ khi tài sản còn đang do chủ tài sản chiếm hữu thì mới có thể nói đến hành vi chiếm đoạt, mới nói đến hành vi làm mất khả năng chiếm hữu của chủ tài sản. Thứ ba, xét về mặt chủ quan, chiếm đoạt là hành vi được người phạm tội thực hiện có chủ đích nên lỗi của người có hành vi chiếm đoạt là lỗi cố ý trực tiếp. Người thực hiện hành vi chiếm đoạt biết tài sản chiếm đoạt là tài sản đang có người quản lý nhưng vẫn mong muốn biến tài sản đó thành tài sản của mình. Những trường hợp lầm tưởng là tài sản của mình hoặc tài sản không có người quản lý đều không phải là trường hợp có hành vi chiếm đoạt. Như vậy, hành vi chiếm đoạt tài sản được coi là bắt đầu khi người phạm tội bắt đầu thực hiện việc làm mất khả năng chiếm hữu của chủ tài sản, để tạo khả năng đó cho mình. Khi người phạm tội đã làm chủ được tài sản chiếm đoạt thì lúc đó hành vi chiếm đoạt được coi là đã hoàn thành, người phạm tội coi là đã chiếm đoạt được tài sản. Dấu hiệu chiếm đoạt có thể là mục đích chiếm đoạt, là hành vi chiếm đoạt hoặc là chiếm đoạt được. "Cưỡng đoạt", theo từ điển Tiếng Việt thì "cưỡng" là "bắt ép người khác làm điều người ta không muốn làm"; "cưỡng đoạt" là "chiếm đoạt bằng lối cưỡng bức"; "cưỡng bức" là "dùng vũ lực hoặc thủ đoạn dồn người khác vào thế bắt buộc phải làm, dù không muốn cũng không được" 9, tr.142, [17, tr 140. Đe dọa sẽ dùng vũ lực là hành vi (bằng lời nói hoặc hành động) làm cho người bị đe dọa lo sợ nếu không giao tài sản cho người phạm tội thì sẽ bị dùng sức mạnh thể chất tấn công. Thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần là những thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng ngoài việc đe dọa sẽ dùng vũ lực và thủ đoạn này sẽ uy hiếp tinh thần của người có tài sản hoặc của người có trách nhiệm về tài sản, như dọa sẽ nói cho vợ hoặc chồng của người bị hại về việc vợ hoặc chồng họ ngoại tình, dọa sẽ tố cáo việc phạm tội hoặc vi phạm đạo đức của người có tài sản hoặc người có trách nhiệm về tài sản... 19
- Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, tuy có nhiều cách thể hiện khác nhau, song về cơ bản các quan điểm đều thống nhất về xác định nội hàm của hành vi cưỡng đoạt tài sản. Trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm, Nhà xuất bản Cần Thơ xuất bản năm 2008, TS. Phạm Văn Beo cho rằng:"Cưỡng đoạt tài sản là hành vi đe dọa dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản" [1, tr. 159]. Trong giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học luật Hà Nội do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2002 thì tội Cưỡng đoạt tài sản được định nghĩa như sau:"Tội cưỡng đoạt tài sản là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản" [40, tr. 378]. Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng: Cưỡng đoạt tài sản là tìm mọi cách làm cho người có tài sản hoặc người có trách nhiệm về tài sản sợ hãi phải giao tài sản cho người phạm tội. Như vậy, hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác mà người phạm tội thực hiện là nhằm chiếm đoạt tài sản. Nếu hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhưng không nhằm chiếm đoạt tài sản thì không phải là tội cưỡng đoạt tài sản, mà tùy từng trường hợp cụ thể mà người có hành vi phạm các tội như: Bức tử quy định tại Điều 100 Bộ luật Hình sự; Cưỡng dâm hoặc cưỡng dâm trẻ em quy định tại các Điều 113, 114 Bộ luật Hình sự; cưỡng ép hôn nhân quy định tại Điều 146 Bộ luật Hình sự [27, tr. 121]. Quan điểm khác lại cho rằng: "Cưỡng đoạt tài sản là việc người phạm tội với mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn đe dọa sẽ 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 99 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 65 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn