intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:92

44
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở đánh giá thực tiễn pháp luật và việc áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu từ năm 2009-2013, đề tài nghiên cứu nhằm mục đích: làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản, góp phần hoàn thiện Bộ luật hình sự đồng thời tìm ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thi hành các quy định của pháp luật về trách nhiệm hình sự đối với các tội này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐINH THỊ THƢƠNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐINH THỊ THƢƠNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT H ÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Khắc Hải HÀ NỘI - 2014 2
  3. Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n §inh ThÞ Th-¬ng 3
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH 8 SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc nghiên cứu trách 8 nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản 1.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở 8 hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản 1.1.2. Các đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm 12 phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản 1.1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu trách nhiệm hình sự đối với các 15 tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản 1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của Luật hình sự 17 Việt Nam về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản 1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cho đến 17 trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 1.2.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến 21 trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 1.2.3. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay 24 1.3. Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không 26 có tính chất chiếm đoạt trong luật hình sự một số nước 4
  5. 1.3.1. Luật hình sự của Liên bang Nga 26 1.3.2. Luật hình sự của Nhật Bản 27 1.3.3. Luật hình sự của Trung Quốc 29 1.3.4. Luật hình sự của Thái Lan 31 1.3.5. Luật hình sự của Malaysia 32 Chương 2: TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM 34 PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ 2.1. Cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm 34 phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản 2.1.1. Khách thể của các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất 34 chiếm đoạt tài sản 2.1.2. Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu không có tính 35 chất chiếm đoạt tài sản 2.1.3. Chủ thể của các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất 37 chiếm đoạt tài sản 2.1.4. Mặt chủ quan của các tội xâm phạm sở hữu không có tính 38 chất chiếm đoạt 2.2. Các hình thức trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm 39 sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản và một số trường hợp đặc biệt 2.2.1. Các hình thức trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm 29 sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản 2.2.2. Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu 42 không có tính chất chiếm đoạt tài sản trong một số trường hợp đặc biệt 2.3. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về 48 trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản 5
  6. Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NHỮNG QUY ĐỊNH 58 CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG 3.1. Sự cần thiết và cơ sở để hoàn thiện pháp luật hình sự, áp 58 dụng pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản 3.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với 65 các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản 3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của 73 Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản KẾT LUẬN 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 82 6
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Bảng thống kê tổng số vụ, số bị cáo phải xét xử và tổng 49 số vụ, số bị cáo về các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt phải giải quyết trong cả nước từ năm 2009-2013 2.2 Bảng thống kê cơ cấu về các tội xâm phạm sở hữu không 50 có tính chất chiếm đoạt tài sản phải xét xử trong cả nước từ năm 2009 đến năm 2013 2.3 Số vụ, số bị cáo phải xét xử về về các tội xâm phạm sở 51 hữu có tính chất chiếm đoạt tương quan với số vụ, số bị cáo phải xét xử về các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt tài sản trong cả nước từ năm 2009 đến năm 2013 2.4 Đặc điểm về nhân thân của các bị cáo bị xét xử về các tội 52 xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt tài sản từ năm 2009 đến năm 2013 2.5 Phân tích chế tài theo quyết định của Tòa án đối với các 54 tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản từ năm 2009 đến năm 2013 7
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã cho thấy vấn đề lợi ích vật chất luôn là tâm điểm của mọi xung đột trong xã hội. Do đó, việc đảm bảo quyền sở hữu về tài sản luôn được các Nhà nước quan tâm. Ngay sau Cách mạng tháng Tám 1945 Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp cùng các đạo luật để ghi nhận và bảo vệ quyền tài sản của các chủ sở hữu; trong đó, luật hình sự thể hiện chức năng bảo vệ quyền sở hữu thông qua việc quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm quyền sở hữu bị coi là tội phạm và quy định các mức hình phạt tương ứng. Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định các tội xâm phạm quyền sở hữu tại Chương XIV từ Điều 133 đến Điều 145. Tùy theo tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm cho xã hội và giá trị tài sản xâm phạm mà mỗi hành vi có hình phạt tương ứng. Căn cứ vào tính chất của mục đích phạm tội, có thể chia 13 tội danh thuộc chương sở hữu thành hai nhóm là các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản và các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản. Sau gần 30 năm đổi mới nền kinh tế theo cơ chế thị trường, các trường hợp phạm tội xâm phạm sở hữu diễn biến ngày càng phức tạp về cả số lượng lẫn chất lượng, gây thiệt hại lớn cho chủ sở hữu tài sản. Các quy định của pháp luật hình sự giữ một vai trò rất quan trọng, góp phần bảo vệ tối đa quyền, lợi ích vật chất của các chủ thể là chủ sở hữu hợp pháp của tài sản; chống lại các hành vi xâm phạm sở hữu dù đó là hành vi có mang tính chất chiếm đoạt hay không. Qua thực tiễn xét xử các vụ án hình sự đã cho thấy, Tòa án cũng như các cơ quan tiến hành tố tụng khác còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc trong việc xác định trách nhiệm hình sự đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản. Mặc dù Bộ luật hình sự 8
  9. hiện hành của nước ta quy định các hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm và hình phạt đối với chủ thể thực hiện hành vi phạm tội đã phần nào giải quyết được vấn đề trừng trị tội phạm. Tuy nhiên, trong một số chừng mực nhất định còn tồn tại nhiều tranh cãi và vướng mắc xung quanh vấn đề trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản cả trên khía cạnh lập pháp và áp dụng pháp luật cũng như việc xác định các nguyên nhân, điều kiện của loại tội này để từ đó có những biện pháp phòng, chống có hiệu quả là cần thiết. Để làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của những vấn đề đó, chúng tôi chọn "Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu của luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đến nay, ở các góc độ khác nhau, đã có một số công trình nghiên cứu được công bố, đồng thời được thể hiện ở một số luận văn, luận án, sách chuyên khảo, tham khảo, bình luận và giáo trình như: TS. Nguyễn Ngọc Chí, Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu (Luận án Tiến sĩ); ThS. Nguyễn Mai Bộ, Các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (sách chuyên khảo), Nhà xuất bản chính trị Quốc gia; TS. Nguyễn Ngọc Chí, Vấn đề định tội danh trong các tội xâm phạm sở hữu (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11, 6, 2, 8 - 1997; GS.TSKH Lê Văn Cảm (2004), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Tập thể tác giả do TSKH.PGS Lê Văn Cảm (chủ biên) (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; TS. Nguyễn Đức Mai (chủ biên) GS.TS. Nguyễn Ngọc Anh - TS. Trần Văn Luyện - TS. Trần Quang Tiệp - ThS. Nguyễn Mai Bộ - ThS. Nguyễn Văn 9
  10. Huấn, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (phần các tội phạm); ThS.Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Tập II: Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2006; PGS.TS. Lê Thị Sơn, Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự, Tạp chí Luật học, số 5/1997; Nguyễn Ngọc Chí, Đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu, Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 2/1998; Trương Quang Vinh, Các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 4/2000; Nguyễn Thanh Hải, Cần sửa đổi, bổ sung một số điều luật qui định về tội xâm phạm sở hữu tại chương XIV Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Kiểm sát, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số 1/2003; Nguyễn Ngọc Anh, Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao, Số 1/2009; Trần Vi Dân, Nghiên cứu hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu, Tạp chí Thanh tra, Thanh tra Chính phủ, số 3/2013; Tưởng Bằng Lượng, Những điểm mới của chương "Các tội xâm phạm sở hữu" trong Bộ luật hình sự 1999, Tạp chí Khoa học pháp lý, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, số 2/2000; Nguyễn Văn Trượng, Những vấn đề cần hoàn thiện đối với các tội xâm phạm sở hữu,Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, số 3/2008; Trang Thu, Về hình phạt đối với một số tội xâm phạm sở hữu của công dân, Tạp chí Toà án nhân dân, Toà án nhân dân tối cao, số 11/1998; Đỗ Ngọc Lợi, Xác định hành vi chiếm đoạt của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, Tạp chí Kiểm sát, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, số 4/2013; Trần Thị Phường, Định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Bình Định giai đoạn 2006 - 2011 (Luận văn thạc sĩ luật học), Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011, vv… Trong số các công trình nghiên cứu này, mặc dù đã có luận án tiến sĩ luật học "Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu" của tác giả Nguyễn Ngọc Chí nghiên cứu một cách khái quát 10
  11. nhất vấn đề trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu nói chung song công trình này được thực hiện cách đây đã lâu, khi tình hình xã hội nước ta còn chưa có nhiều chuyển biến và Bộ luật hình sự năm 1999 vẫn chưa được sửa đổi, bổ sung. Mặt khác, vấn đề trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản vẫn chưa được đề cập một cách cụ thể và sâu sắc trong luận án tiến sĩ này. Qua nghiên cứu cho thấy đa số các công trình chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cứu hẹp về một hay một vài tội xâm phạm sở hữu. Ngoài ra, việc nghiên cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản chỉ được đề cập gián tiếp qua một số tài liệu luật học hay qua một số bài viết đơn lẻ trên các tạp chí. Chưa có công trình nghiên cứu nào phân tích sâu về mặt lý luận, thực tiễn, đặc biệt là nghiên cứu thành hệ thống và đánh giá thực tiễn xét xử của Tòa án nước ta về việc áp dụng các quy định về trách nhiệm hình sự đối với các tội này. Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam" là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Việc nghiên cứu "Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam" vừa có ý nghĩa thiết thực cho việc xử lý và phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản, vừa làm sáng tỏ những cơ sở lý luận và thực tiễn về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản. Trên cơ sở đánh giá thực tiễn pháp luật và việc áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu từ năm 2009-2013, đề tài nghiên cứu nhằm mục đích: làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính 11
  12. chất chiếm đoạt tài sản, góp phần hoàn thiện Bộ luật hình sự đồng thời tìm ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thi hành các quy định của pháp luật về trách nhiệm hình sự đối với các tội này. Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài làm rõ một số vấn đề sau: - Các vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản - Những quy định của pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản và thực tiễn áp dụng các quy định đó trong xét xử từ năm 2009 đến năm 2013. - Chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, vướng mắc trong áp dụng các quy định về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản; từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Về đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản và thực tiễn xét xử từ năm 2009 đến năm 2013 trên cơ sở của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung ngày 19/6/2009 và những văn bản pháp luật có liên quan. Về phạm vi nghiên cứu: Căn cứ vào tính chất của hành vi khách quan, các tội xâm phạm sở hữu có thể được chia làm 2 nhóm: + Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản được quy định từ Điều 133 đến Điều 140 Bộ luật hình sự. + Các tội xâm phạm sở hữu không mang tính chiếm đoạt được quy định từ Điều 141 đến Điều 145 Bộ luật hình sự. 12
  13. Việc áp dụng các quy định về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản là một vấn đề hết sức phức tạp và liên quan nhiều lĩnh vực. Căn cứ vào tình hình thực tế trong xét xử, luận văn chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu về vấn đề trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản từ năm 2009 đến năm 2013. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản trong khoa học luật hình sự Việt Nam; khái quát lịch sử hình thành và phát triển về vấn đề trách nhiệm hình sự đối với các tội này từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay; khái quát trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự của một số nước; phân tích số liệu thực tiễn xét xử và việc áp dụng các quy định về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản trên cả nước từ năm 2009 đến năm 2013, nghiên cứu một số bản án hình sự của Tòa án để từ đó chỉ ra những tồn tại, vướng mắc 13
  14. trong áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt và đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự quy định về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt cũng như những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản. Luận văn còn là tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu và học tập. Những đề xuất, kiến nghị của luận văn góp phần cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự Việt Nam liên quan đến trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản. Chương 2: Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử. Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện những quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản và nâng cao hiệu quả áp dụng. 14
  15. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 1.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản Trách nhiệm hình sự là một thuật ngữ của khoa học luật hình sự. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam cho đến nay nhiều quan điểm khác nhau về trách nhiệm hình sự. Vì vậy, chúng tôi tiếp cận các khái niệm trách nhiệm hình sự chung, từ đó đưa ra khái niệm trách nhiệm hình sự đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản theo nghĩa tương ứng. TS. Trịnh Tiến Việt có quan điểm: Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý và là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Bộ luật hình sự quy định đối với người phạm tội [51, tr. 224]. Với định nghĩa này, tác giả đã chỉ ra rằng trách nhiệm hình sự là khái niệm có nội hàm rộng hơn khái niệm hình phạt. Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Bộ luật hình sự quy định đối với người phạm tội, còn hình phạt chỉ là một trong những biện pháp cưỡng chế chủ yếu và là một dạng của trách nhiệm hình sự. Do đó, theo nghĩa này, trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản là một dạng của trách nhiệm 15
  16. pháp lý, là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản, đồng thời được thực hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Bộ luật hình sự quy định đối với người phạm tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, cách hiểu này về trách nhiệm hình sự còn chung, ở một góc độ nào đó chưa phân định rõ bản chất của trách nhiệm hình sự với hình thức biểu hiện của trách nhiệm hình sự, đặc biệt là vấn đề hậu quả của những người phạm các tội này (hình phạt, biện pháp tư pháp, việc truy cứu, chịu án tích…). TS. Phạm Mạnh Hùng thì cho rằng: Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu trước Nhà nước do việc người đó thực hiện tội phạm và là kết quả của việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự, được thể hiện ở bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật và một số biện pháp cưỡng chế hình sự khác do luật hình sự quy định [23, tr. 156]. Như vậy, khái niệm về trách nhiệm hình sự này được xây dựng dựa trên cơ sở sự tổng hợp các đặc điểm cấu thành của nó bao gồm: trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi bị luật hình sự coi là tội phạm; trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của cá nhân người phạm tội; trách nhiệm hình sự được thể hiện ở bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật và; trách nhiệm hình sự là trách nhiệm trước Nhà nước chứ không phải là trách nhiệm trước cá nhân người bị hại. Theo đó, trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản được hiểu là hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu trước Nhà nước do việc người đó thực hiện tội phạm xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản và là kết quả của việc Tòa án áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội đó. 16
  17. Ngoài ra, phổ biến hơn là các khái niệm về trách nhiệm hình sự theo nghĩa tổng thể (nghĩa rộng) và nghĩa trực tiếp. Theo nghĩa tổng thể, trách nhiệm hình sự bao gồm hai mặt đan xen thống nhất là: 1) thực hiện trách nhiệm hình sự từ phía Nhà nước; và 2) chịu trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Tuy đều là hậu quả của việc phạm tội nhưng việc thực hiện truy cứu trách nhiệm hình sự từ phía Nhà nước mới đưa đến kết quả phải chịu trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Trách nhiệm hình sự thực chất là nội dung của mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội, phát sinh từ thời điểm tội phạm được thực hiện, và được cụ thể hóa bằng các quyền và nghĩa vụ của Nhà nước và người phạm tội. GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa và PGS.TS Lê Thị Sơn đã có quan điểm như sau: Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý bao gồm nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích… [22, tr. 126] Có thể nói rằng, ở chừng mực nhất định quan điểm này có những nhân tố hợp lý, được xem xét trong phạm vi mở rộng hai chiều cả hai phía chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự, đồng thời gắn với thực tiễn thực hiện trách nhiệm hình sự về mặt hình thức (cả góc độ luật tố tụng hình sự). Theo nghĩa này, trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia quan hệ pháp luật hình sự - phát sinh trên cơ sở một hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản của công dân được thực hiện. Các bên chủ thể tham gia quan hệ pháp luật hình sự này, cũng như các quan hệ pháp luật hình sự nói chung là Nhà nước và người phạm tội. Như vậy, theo khái niệm này, Nhà nước và người phạm tội đồng thời là hai bên chủ thể của trách nhiệm hình sự. Nhà nước, đại diện là các cơ quan 17
  18. tiến hành tố tụng có quyền truy tố, xét xử và buộc người phạm tội phải chịu hình phạt tương xứng và có nghĩa vụ đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội không bị xâm phạm. Người phạm tội có nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, các biện pháp cưỡng chế Nhà nước và có quyền yêu cầu Nhà nước đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngoài ra, theo nghĩa trực tiếp, trách nhiệm hình sự là nghĩa vụ của người phạm tội đối với Nhà nước do việc thực hiện hành vi phạm tội, bao hàm nghĩa vụ phải gánh chịu các hậu quả pháp lý bất lợi mà pháp luật quy định đối với hành vi phạm tội đó [44, tr. 210]. Tương tự, trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản là nghĩa vụ của người phạm tội đối với Nhà nước phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do việc đã thực hiện hành vi bị coi là tội phạm xâm phạm tài sản không có tính chất chiếm đoạt tài sản. Với những cách hiểu như trên, khái niệm trách nhiệm hình sự theo nghĩa trực tiếp không hề mâu thuẫn với khái niệm trách nhiệm hình sự theo nghĩa rộng. Nghĩa vụ của người phạm tội phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do việc đã thực hiện hành vi bị coi là tội phạm xâm phạm tài sản không có tính chất chiếm đoạt đồng thời cũng chính là quyền và nghĩa vụ của Nhà nước buộc người phạm tội phải gánh chịu các hậu quả bất lợi đó. Tuy nhiên, cách tiếp cận và diễn đạt trách nhiệm hình sự theo nghĩa trực tiếp không phản ánh được hết mối quan hệ giữa các bên chủ thể của trách nhiệm hình sự. Khái niệm trách nhiệm hình sự theo nghĩa rộng lại chưa phản ánh được nội dung trực tiếp của trách nhiệm hình sự. Gắn với cách hiểu về trách nhiệm hình sự theo nghĩa trực tiếp, thuật ngữ trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản mang tính quy ước và đã được sử dụng thành thông lệ trong nghiên cứu khoa học và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự. Thực chất 18
  19. đây là trách nhiệm hình sự của người phạm tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt. Như vậy, chúng tôi cho rằng có thể đưa ra một cách diễn đạt về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt vừa trực tiếp vừa gián tiếp thể hiện nội dung cơ bản của trách nhiệm hình sự vừa phản ánh được mối quan hệ giữa các bên chủ thể của trách nhiệm hình sự, thông qua khái niệm cơ bản và tổng quát như sau: Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt là nghĩa vụ pháp lý mà người đã thực hiện hành vi bị coi là tội phạm, xâm phạm sở hữu nhưng không có tính chất chiếm đoạt phải thực hiện theo quy định của pháp luật hình sự, thể hiện trong sự tác động mang tính cưỡng chế của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng. 1.1.2. Các đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản Có thể chỉ ra các đặc điểm cơ bản của trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản như sau: Thứ nhất, trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản mang đầy đủ các đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm nói chung, do đó: - Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản luôn được thực hiện trong phạm vi của quan hệ pháp luật hình sự giữa hai bên chủ thể có quyền và nghĩa vụ đối nhau: Nhà nước và người phạm tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt tài sản. Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản phát sinh khi có hành vi bị coi là xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản. - Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản được biểu hiện cụ thể ở việc Nhà nước cưỡng chế và 19
  20. người phạm tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt phải gánh chịu các hậu quả pháp lý bất lợi do việc thực hiện hành vi phạm tội. Các hậu quả mà người phạm tội phải gánh chịu với ý nghĩa là hình thức biểu hiện cụ thể của trách nhiệm hình sự phải mang tính pháp lý, nghĩa là phải được quy định trong luật hình sự hoặc luật tố tụng hình sự. Đó là hậu quả phải chịu sự tác động của các hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và mang án tích. Trong đó hình phạt là biện pháp cưỡng chế Nhà nước nghiêm khắc nhất đối với người phạm tội. Hình phạt là một dạng (hình thức) phổ biến và chủ yếu của trách nhiệm hình sự. Hình phạt có thể được áp dụng đối với người phạm các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản, và được quy định trong từng điều luật cụ thể. Việc áp dụng các biện pháp tác động của trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt tài sản được thực hiện thông qua trình tự và thủ tục tố tụng chặt chẽ, bởi Tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng khác. Cũng như trách nhiệm hình sự đối với các tội khác, khi người phạm tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt tài sản bị tác động bằng hình phạt hoặc miễn hình phạt thì đều mang án tích và ghi vào lý lịch tư pháp. Hậu quả pháp lý nó nếu chưa được xóa án mà phạm tội thì bị coi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Đặc điểm này thể hiện tính nghiêm khắc của trách nhiệm hình sự so với các trách nhiệm pháp lý khác. - Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt tài sản là trách nhiệm của cá nhân người phạm tội phải gánh chịu trực tiếp và trước Nhà nước và chỉ được đặt ra đối với cá nhân người phạm tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt chứ không thể là tổ chức hay pháp nhân nào khác. Vấn đề trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân không còn xa lạ với pháp luật hình sự nhiều quốc gia trên thế giới, song vẫn chưa được ghi 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2