Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vai trò của luật sư - Người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay
lượt xem 10
download
Mục đích chính của luận văn là phân tích, đánh giá một cách toàn diện và có hệ thống về mặt lý luận, các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn sự tham gia và vai trò của luật sư trong giai đoạn XXST VAHS ở Việt Nam hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vai trò của luật sư - Người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VĂN PHƯƠNG VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ - NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VĂN PHƯƠNG VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ - NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuân HÀ NỘI - 2014 2
- Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n cha tõng ®îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n NguyÔn V¨n Ph¬ng 3
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT 9 SƯ - NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 9 1.1.1. Khái niệm giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 9 1.1.2. Ý nghĩa của giai đoạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự 19 1.2. Địa vị pháp lý và vai trò của luật sư - người bào chữa trong tố 20 tụng hình sự 1.2.1. Địa vị pháp lý của luật sư - người bào chữa trong tố tụng hình sự 20 1.2.2. Vai trò của luật sư - người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ 36 thẩm vụ án hình sự Chương 2: SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƯ - NGƯỜI BÀO CHỮA 42 TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 2.1. Quy định của pháp luật về vai trò của luật sư - người bào 42 chữa trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 2.1.1. Vai trò của luật sư - người bào chữa trong chuẩn bị xét xử sơ 43 thẩm vụ án hình sự 2.1.2. Vai trò của luật sư - người bào chữa trong phiên tòa xét xử sơ 57 thẩm vụ án hình sự 4
- 2.2. Thực trạng hoạt động của luật sư tham gia bào chữa trong xét 72 xử sơ thẩm vụ án hình sự 2.2.1. Về số lượng luật sư và tổ chức hành nghề luật sư 72 2.2.2. Kết quả hoạt động của luật sư tham gia bào chữa trong xét xử 76 sơ thẩm vụ án hình sự 2.2.3. Những hạn chế trong hoạt động của luật sư tham gia bào chữa 80 trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và nguyên nhân Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA 90 LUẬT SƯ - NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 3.1. Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo 90 3.2. Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa 96 3.3. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự 100 3.3.1. Ghi nhận và khẳng định địa vị pháp lý của luật sư tham gia 100 bào chữa như một chức danh tư pháp độc lập với đầy đủ các quyền năng để luật sư bào chữa một cách có hiệu quả, trong đó có quyền được thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ 3.3.2. Cần có cơ chế tạo điều kiện thuận lợi để luật sư tham gia bào chữa 103 3.4. Các giải pháp khác 106 3.4.1. Tăng cường quản lý nhà nước đối với tổ chức hành nghề luật 106 sư, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư 3.4.2. Đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng đào tạo nghề 108 luật sư 3.4.3. Nâng cao nhận thức về luật sư và nghề luật sư trong xã hội 110 KẾT LUẬN 112 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 114 5
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng ĐTV : Điều tra viên HĐXX : Hội đồng xét xử KSV : Kiểm sát viên TAND : Tòa án nhân dân THTT : Tiến hành tố tụng TNHS : Trách nhiệm hình sự TTHS : Tố tụng hình sự VAHS : Vụ án hình sự VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân XXPT : Xét xử phúc thẩm XXST : Xét xử sơ thẩm XHCN : Xã hội chủ nghĩa 6
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Bảng số liệu về số lượng luật sư và tổ chức hành nghề 73 luật sư trên địa bàn cả nước từ năm 2007 đến năm 2013 2.2 Kết quả khảo sát hoạt động bào chữa tại một số tổ chức 77 hành nghề luật sư trong các năm từ 2010 - 2013 DANH MỤC CÁC BIỀU ĐỒ Số hiệu Tên biểu đồ Trang biểu đồ 2.1 Số lượng số lượng luật sư và tổ chức hành nghề luật sư 73 trên địa bàn cả nước từ năm 2007 đến năm 2013 7
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định: Trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, của các cơ quan, tổ chức và công dân… [33]. Sau mười năm áp dụng, BLTTHS năm 2003 đã tạo nền tảng pháp lý quan trọng để các chủ thể thực hiện chức năng, nhiệm vụ tố tụng của mình, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, phục vụ tích cực công cuộc đổi mới trong những năm vừa qua. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã có không ít những bất cập gây cản trở cho các chủ thể tố tụng hình sự (TTHS), gây ra những khó khăn đối với những người tham gia tố tụng, trong đó có luật sư. BLTTHS năm 2003 còn nhiều bất cập trong các quy định của pháp luật và trong thực tiễn thực hiện các quy định liên quan đến các vấn đề như: Việc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; quyền nhờ luật sư bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo của người thân thích; địa vị pháp lý của người bào chữa; thủ tục cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa; vai trò của luật sư trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ; việc tranh luận tại phiên tòa… Những vấn đề nêu trên làm cho vai trò của người bào chữa nói chung và của luật sư bào chữa nói riêng rất mờ nhạt, chưa đạt hiệu quả cao, dẫn đến ngày càng có nhiều vụ án oan, sai xảy ra, trong đó có thể kể đến một số vụ như: Vụ ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang bị kết án tù chung thân về tội 8
- giết người đã được minh oan sau 10 năm chịu hình phạt tù; vụ ông Trần Văn Chiến ở Tiền Giang bị kết án tù chung thân về tội giết người được minh oan sau hơn 16 năm chấp hành hình phạt tù; vụ anh Nguyễn Minh Hùng ở Tây Ninh bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử 2 lần và đều tuyên phạt mức án tử hình về hành vi vận chuyển, buôn bán trái phép chất ma túy, được minh oan sau hơn 4 năm ròng rã kêu cứu; vụ ông Bùi Minh Hải ở Đồng Nai bị Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Đồng Nai đề nghị mức án tử hình và bị Tòa án nhân dân (TAND) tỉnh Đồng Nai tuyên phạt tù chung thân về các tội giết người, cướp của, hiếp dâm được minh oan sau 16 tháng bị giam giữ. Đặc biệt, Vụ án "vườn điều" ở Bình Thuận được xem là một trong những vụ án oan, sai lớn nhất trong lịch sử tư pháp Việt Nam bởi có đến 9 người trong một gia đình rơi vào vòng lao lý, vụ án được đưa ra xét xử nhiều lần, qua nhiều cấp nhưng đều bị hủy án do có nhiều tình tiết chưa rõ ràng. Việc điều tra, xét xử vụ án được kéo dài 12 năm nhưng vẫn không tìm ra hung thủ. Năm 2006, Cơ quan điều tra (CQĐT) xác định các bị cáo vô tội và trả tự do tại tòa, đồng thời, các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) đã công khai xin lỗi và bồi thường cho những người bị oan, sai… Trên đây chỉ là một số vụ án oan, sai xảy ra trong thời gian qua. Ngoài các vụ án này, còn rất nhiều vụ án mà người bị điều tra, truy tố, xét xử, bị tạm giam, tạm giữ, bị phạt tù… không phải là người đã thực hiện hành vi phạm tội. Điều đó cho thấy, pháp luật TTHS còn nhiều bất cập, việc thực thi các quy định của pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử còn chưa thật nghiêm túc, hoạt động và vai trò của những người tiến hành tố tụng (THTT) như Điều tra viên (ĐTV), Kiểm sát viên (KSV), Thẩm phán và những người tham gia tố tụng, trong đó có luật sư chưa thật hiệu quả. Vì vậy, vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay là BLTTHS nói riêng cũng như pháp luật về tư pháp hình sự nói chung phải được sửa đổi, tạo hành lang pháp lý minh bạch hơn, khả thi hơn cho các chủ thể tham gia tố tụng thực 9
- hiện quyền của mình. Hiện nay, các cơ quan THTT từ Trung ương tới địa phương đang tiến hành tổ chức tổng kết việc thực hiện BLTTHS để đánh giá về thực trạng và hiệu quả áp dụng Bộ luật này, tìm ra những nguyên nhân và đề ra những giải pháp sửa đổi, bổ sung. Việc sửa đổi BLTTHS phải được tiến hành trên cơ sở thực tiễn của quá trình mười năm thực hiện. Để có thể đánh giá việc thi hành BLTTHS một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ là nhiệm vụ của nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều chủ thể khác nhau như: CQĐT, Viện kiểm sát (VKS), Tòa án, luật sư… Việc xây dựng BLTTHS cần phải quán triệt quan điểm thể chế hóa đường lối của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Trong đó, chế định về luật sư (về vai trò của luật sư thể hiện qua quyền, nghĩa vụ của luật sư) là một trong những chế định cần phải hoàn thiện không những chỉ trong việc xây dựng các quy phạm pháp luật mà còn trong việc đưa những quy phạm đó vào thực tế cuộc sống. Về vấn đề này, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" nêu rõ: Nâng cao chất lượng công tác điều tra, thực hiện tốt công tác tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan chuyên trách điều tra với các cơ quan khác… Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… Khi xét xử Tòa án phải đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc xét xử của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả 10
- tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo… Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa… [14]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định rõ: "Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm" trong quá trình giải quyết VAHS [16]. Do xét xử là hoạt động trọng tâm, có nhiệm vụ "xác định sự thật của vụ án" nên trong vụ án hình sự vai trò của luật sư được thể hiện tập trung, đầy đủ nhất ở giai đoạn xét xử, đặc biệt là xét xử sơ thẩm (XXST). Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHS hiện hành và các quy định khác có liên quan, về thực trạng tham gia và vai trò của luật sư tham gia bào chữa trong VAHS, đề ra các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của luật sư khi tham gia tố tụng trong giai đoạn XXST VAHS là rất cần thiết. Hy vọng, luận văn này với đề tài "Vai trò của luật sư - người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay" sẽ góp phần trong việc xây dựng, hoàn thiện các quy định của pháp luật, nâng cao hiệu quả và vai trò của luật sư, tạo điều kiện cho việc giải quyết VAHS một cách nhanh chóng, kịp thời, công minh và đúng pháp luật. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Hiện nay, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vai trò của luật sư, về địa vị pháp lý, quyền, nghĩa vụ của luật sư khi tham gia tố tụng trong VAHS, như: TS.LS Phan Trung Hoài: "Hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam", Nxb Tư pháp, 2006; TS. Nguyễn Văn Tuân: "Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự", Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001; GS,TS Nguyễn Ngọc Anh (Chủ biên): "Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003", Nxb Chính trị Quốc gia, 2011; Đinh Văn Quế: "Bình luận khoa học Bộ luật 11
- Tố tụng hình sự (xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm)", Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2007; TS. Nguyễn Văn Tuân: "Thực trạng tranh tụng và vấn đề nâng cao vai trò của luật sư trong tranh tụng trước yêu cầu cải cách tư pháp", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 3/2010; Hoàng Thị Sơn: "Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự", Luận án tiến sĩ luật học; Hồ Sĩ Sơn: "Những đảm bảo hiệu quả của hoạt động bào chữa trong tố tụng hình sự", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 150, tháng 10/2000; Thu Tâm - Hồng Phong: "Vấn đề tranh tụng và vai trò của luật sư", Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, số ra ngày 14/10/2002; Ngô Thị Ngọc Vân: "Vai trò của luật sư bào chữa trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự", Luận văn thạc sĩ luật học, 2004… Các công trình nghiên cứu, bài viết nêu trên đã thể hiện được tương đối rõ nét về địa vị pháp lý, vai trò của luật sư trong VAHS và rất hữu ích trong quá trình nghiên cứu, học tập, áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Tuy nhiên, do biến chuyển của thời gian và thực tế tình hình áp dụng pháp luật có nhiều thay đổi, thực trạng sự tham gia của luật sư vào các VAHS, vai trò của luật sư trong các vụ án cũng có những chuyển biến nên cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu về thực trạng tham gia và vai trò của luật sư với tư cách là người bào chữa ở giai đoạn XXST VAHS để từ đó chỉ ra những bất cập, nguyên nhân của những hạn chế và đề xuất những giải pháp để khắc phục, nâng cao hiệu quả hoạt động của luật sư. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Để hoàn thành đề tài "Vai trò của luật sư - người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay", luận văn xác định các mục đích nghiên cứu cơ bản như sau: - Mục đích chính của luận văn là phân tích, đánh giá một cách toàn diện và có hệ thống về mặt lý luận, các quy định của pháp luật cũng như thực 12
- tiễn sự tham gia và vai trò của luật sư trong giai đoạn XXST VAHS ở Việt Nam hiện nay. - Kiến nghị các cơ quan nhà nước có liên quan trong việc soạn thảo và ban hành mới, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật để phù hợp với tình hình thực tiễn và dần dần hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực này; kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định đó, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động và vai trò của luật sư trong hoạt động TTHS, góp phần giải quyết nhanh chóng, chính xác, công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở các mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ của luận văn là phải: - Khái quát một số vấn đề lý luận cơ bản về luật sư và vai trò của luật sư - người bào chữa trong VAHS; - Phân tích các quy định của pháp luật về vai trò, quyền và nghĩa vụ của luật sư - người bào chữa trong giai đoạn XXST VAHS; - Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan và vai trò của luật sư tham gia tố tụng ở giai đoạn XXST VAHS trên cơ sở các số liệu cụ thể. Từ đó thấy được những hạn chế, cũng như các thuận lợi, khó khăn của luật sư khi tham gia tố tụng với vai trò là người bào chữa ở giai đoạn XXST VAHS làm cơ sở cho việc đề xuất ban hành, sửa đổi, bổ sung một số văn bản pháp luật liên quan. 3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn gồm hai nhóm đối tượng sau: - Nghiên cứu các vấn đề về lý luận, các quy định của pháp luật có liên quan đến vai trò của luật sư tham gia tố tụng ở giai đoạn XXST VAHS với vai trò là người bào chữa. Liên hệ so sánh giữa các quy định hiện hành và các 13
- quy định được ban hành trước đây có liên quan đến phạm vi nghiên cứu của luận văn. - Nghiên cứu thực tiễn của việc thi hành pháp luật, về sự tham gia và vai trò của luật sư, về việc luật sư thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình khi giam gia TTHS ở giai đoạn XXST. * Phạm vi nghiên cứu: Trong giai đoạn XXST VAHS, luật sư có thể tham gia với nhiều tư cách, như: người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan… Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ đề cập, nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh vai trò của luật sư khi tham gia bào chữa tại giai đoạn XXST VAHS theo quy định của pháp luật; đánh giá tình hình thực hiện các quy định của pháp luật có liên quan trong thực tiễn, đồng thời, tìm ra các nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về mặt lập pháp cũng như việc nâng cao vai trò, hiệu quả hoạt động của luật sư. Trong khuôn khổ của luận văn, các thông tin, số liệu được lấy từ nguồn thống kê trong những năm gần đây. 4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật lịch sử và duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về phương hướng và nhiệm vụ cải cách tư pháp… Để thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp như phân tích tổng hợp, lịch sử, thống kê, đối chiếu, so sánh… 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Luận văn là sự tổng hợp những vấn đề chung nhất về lý luận cũng như thực tiễn vai trò của luật sư khi tham gia tố tụng ở giai đoạn XXST VAHS với 14
- tư cách là người bào chữa, thể hiện được nhiều điểm mới cơ bản so với các nghiên cứu trước đây, như: - Tổng hợp được các vấn đề lý luận về XXST VAHS; về quyền bào chữa của bị cáo; về địa vị pháp lý, quyền, nghĩa vụ của luật sư trong việc thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ; về việc tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm của luật sư… - Đánh giá được thực trạng, đưa ra được những nguyên nhân, hạn chế và đề xuất được các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật, nâng cao vai trò, hiệu quả hoạt động của luật sư với tư cách là người bào chữa trong giai đoạn XXST VAHS. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn có thể có những đóng góp về mặt lý luận đối với vấn đề vai trò của luật sư - người bào chữa trong VAHS nói chung và trong giai đoạn XXST VAHS nói riêng. Bên cạnh đó, luận văn còn chỉ ra được những hạn chế trong thực tiễn tham gia của luật sư vào việc giải quyết VAHS, nguyên nhân của sự hạn chế đó và đề ra được những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả hoạt động và vai trò của luật sư. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vai trò của luật sư - người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Chương 2: Sự tham gia của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Chương 3: Một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao vai trò của luật sư - người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 15
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ - NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1.1. Khái niệm giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam năm 2013 quy định: "Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp" [38, Điều 102]. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 quy định: "Trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân" [38, Điều 1]. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng: "Xét xử là hoạt động của Tòa án tại phiên tòa để xét xử các chứng cứ và căn cứ vào pháp luật, xử lý vụ án bằng việc ra bản án và các quyết định của Tòa án". Theo định nghĩa trên, xét xử không chỉ đơn giản là kiểm tra lại các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố để tuyên án, mà xét xử là hoạt động đặc biệt mang tính quyền lực Nhà nước, do Tòa án thực hiện, nhằm giải quyết những vụ án theo quy định của pháp luật. Xét xử được thực hiện theo một trình tự và theo những nguyên tắc nhất định để giải quyết vụ án. Thông qua việc xét xử mọi vấn đề của vụ án được làm sáng tỏ, trên cơ sở đó Tòa án ra các quyết định cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức, lợi ích của Nhà nước, bảo vệ chế độ. Tùy theo từng tiêu chí cụ thể, xét xử được phân biệt như sau: 16
- - Phân biệt theo nội dung xét xử: Xét xử tội phạm hình sự, xét xử tranh chấp dân sự, tranh chấp lao động, xét xử khiếu kiện hành chính… - Phân biệt theo cấp độ xét xử có: XXST và xét xử phúc thẩm (XXPT). Ngoài ra còn có trình tự đặc biệt là xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc giải quyết một VAHS được trải qua nhiều giai đoạn tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử và thi hành án. XXST là một giai đoạn tố tụng trong hoạt động TTHS. Vậy giai đoạn TTHS là gì? Từ trước đến nay, trong pháp luật TTHS nước ta chưa từng có định nghĩa thế nào là "giai đoạn TTHS". Theo GS, TSKH Lê Cảm, dưới góc độ khoa học khái niệm giai đoạn TTHS có thể được định nghĩa là: Bước của quá trình tố tụng hình sự tương ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tư pháp hình sự của từng loại chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền, nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc, để giải quyết vụ án hình sự một cách công minh và khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ vững chắc các quyền và tự do của công dân [4]. Mỗi giai đoạn tố tụng có nhiệm vụ khác nhau, tương ứng với mỗi giai đoạn đó là chức năng cụ thể của mỗi cơ quan THTT có thẩm quyền. Mỗi giai đoạn tố tụng kết thúc được đánh dấu bằng một văn bản tố tụng khác nhau, như: giai đoạn khởi tố kết thúc khi có quyết định khởi tố; giai đoạn điều tra kết thúc bằng bản kết luận điều tra; giai đoạn truy tố được kết thúc khi có bản cáo trạng; các giai đoạn xét xử kết thúc khi có bản án, quyết định của Tòa án… Tuy nhiên, các văn bản tố tụng này là sự thể hiện kết quả của cả quá trình tố tụng hoàn chỉnh. Trường hợp việc giải quyết vụ án được chấm dứt giữa chừng vì những lý do nhất định thì mỗi giai đoạn tố tụng có thể được kết thúc bằng một văn bản tố tụng khác, như: ở giai đoạn khởi tố vụ án có thể là 17
- quyết định không khởi tố vụ án, không khởi tố bị can; ở giai đoạn truy tố có thể là quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của VKS; ở giai đoạn XXST có thể là quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án của Tòa án… Như vậy, có thể nói: Giai đoạn TTHS là khái niệm dùng để chỉ các bước của quá trình giải quyết VAHS, mỗi bước có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc riêng, mỗi bước có nhiệm vụ riêng và được thực hiện chủ yếu bởi cơ quan THTT có chức năng tương ứng nhằm giải quyết VAHS. Hiệu quả hoạt động của mỗi giai đoạn tố tụng có ý nghĩa riêng trong toàn bộ quá trình tố tụng, nó có thể là tiền đề cho hoạt động của giai đoạn tố tụng sau hoặc lại là sự đánh giá, kiểm chứng tính đúng đắn của hoạt động tố tụng trong giai đoạn trước. Giai đoạn xét xử được xác định là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình giải quyết VAHS, được coi là "hoạt động trọng tâm" của cả quá trình TTHS, bởi lẽ ở giai đoạn xét xử, sau khi nghiên cứu khách quan, toàn diện và đầy đủ các tình tiết của vụ án, mọi vấn đề liên quan đến vụ án như có hành vi phạm tội không, ai đã thực hiện tội phạm đó, có bị chịu hình phạt không, mức phạt như thế nào… được làm sáng tỏ trong giai đoạn xét xử. Hay có thể nói, phán quyết cuối cùng có tính quyết định đối với việc giải quyết một VAHS chủ yếu được thực hiện ở giai đoạn xét xử và bởi tòa án. Nhằm mục đích xét xử đúng người, đúng tội, áp dụng đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không xử oan người vô tội, BLTTHS quy định về việc thực hiện chế độ hai cấp xét xử là XXST và XXPT [33, Điều 20]. Tuy nhiên, không phải mọi VAHS nếu được đưa ra xét xử thì sẽ đều được xét xử ở cấp phúc thẩm, bởi lẽ, chỉ có những "bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị" thì mới có khả năng được xét xử ở cấp phúc thẩm. Nói "có khả năng" vì không phải mọi bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có kháng cáo, kháng nghị đều đương nhiên được xem xét, giải quyết ở cấp phúc thẩm mà còn phụ thuộc nhiều yếu tố như việc kháng cáo, kháng nghị đó do ai thực hiện, có phải do chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị thực hiện không, có 18
- theo đúng trình tự, thủ tục và có trong thời hạn pháp luật cho phép không… Việc giải quyết vụ án theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm cũng không phải sẽ được thực hiện ở mọi vụ án, vì chỉ có những bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải quyết hoặc có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết định đó thì bản án, quyết định đó mới có thể được xem xét, giải quyết theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Trong khi đó, XXST là thủ tục bắt buộc đối với mọi vụ án nếu được tòa án đưa ra xét xử. Các thủ tục XXPT, giám đốc thẩm hay tái thẩm đối với vụ án chỉ có thể được thực hiện khi thuộc các trường hợp như đã phân tích ở trên, nó có thể xảy ra hoặc không xảy ra. Như vậy, có thể khẳng định, XXST có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải quyết VAHS. Để thấy rõ vai trò của giai đoạn XXST VAHS, chúng ta cần hiểu rõ thế nào là XXST VAHS. Việc tìm hiểu, giải thích, làm sáng tỏ khái niệm XXST VAHS có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn, không chỉ nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả xét xử mà còn có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động của các cơ quan THTT, người THTT và người tham gia tố tụng. Nếu như XXPT VAHS được pháp luật quy định "là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị" [33, Điều 230] thì XXST VAHS lại không được pháp luật định nghĩa cụ thể. Do đó, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về XXST VAHS, tuy nhiên, có thể tổng hợp lại thành các loại quan điểm về XXST VAHS như sau: - Quan điểm thứ nhất: XXST là một giai đoạn tố tụng mà ở đó đòi hỏi những người THTT và người tham gia tố tụng phải tập trung trí tuệ xử lý các tình huống một cách nhanh chóng, các lý lẽ đưa ra không chỉ chính xác mà 19
- phải có tính thuyết phục, đồng thời lại phải tuân theo những quy định của pháp luật [28, tr. 7]. XXST là giai đoạn trung tâm, quyết định quá trình giải quyết vụ án từ khi khởi tố, điều tra đến khi đưa bị cáo ra tòa [28, tr. 131]. - Quan điểm thứ hai: XXST VAHS là giai đoạn kế tiếp giai đoạn truy tố. Trong giai đoạn này, Tòa án có thẩm quyền tiến hành nghiên cứu hồ sơ, ra các quyết định cần thiết về việc giải quyết VAHS, mở phiên tòa nhằm xem xét, đánh giá công khai các chứng cứ để ra bản án, quyết định tội danh của bị cáo, hình phạt, các biện pháp tư pháp cũng như ra các quyết định cần thiết khác [47, tr. 233]. - Quan điểm thứ ba: XXST VAHS là một giai đoạn của TTHS, trong đó tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét và giải quyết VAHS, ra bản án, quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ chế độ, pháp chế XHCN, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Phán quyết của XXST là những phán quyết đầu tiên của Tòa án đối với một vụ án, nó cũng có thể là phán quyết cuối cùng trong trường hợp không có kháng cáo, kháng nghị. Các quan điểm nêu trên đã ít nhiều phản ánh được bản chất của hoạt động XXST VAHS. Tuy nhiên theo tác giả, từng quan điểm nêu trên ít nhiều vẫn chưa có được sự chính xác, chưa thể hiện được đầy đủ tính chất của XXST VAHS, cụ thể: - Quan điểm thứ nhất và thứ hai chưa thể hiện được đầy đủ tính chất của XXST, chưa phân biệt được XXST với XXPT hay giám đốc thẩm, tái thẩm. - Quan điểm thứ ba cho rằng phán quyết của XXST là phán quyết đầu tiên của Tòa án đối với một vụ án… là chưa chính xác bởi lẽ một VAHS có thể trải qua nhiều lần XXST, ở lần XXST đầu tiên Hội đồng xét xử (HĐXX) có thể quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung hoặc bản án, quyết định của lần XXST lần đầu tiên này có thể bị kháng cáo, kháng nghị và khi XXPT Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy bản án, quyết định sơ thẩm lần đầu tiên đó 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 211 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 171 | 44
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 348 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 97 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 112 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự Việt Nam
14 p | 234 | 15
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 63 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 105 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 263 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn