intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:70

24
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn trình bày các nội dung chính sau: Các vấn đề lý luận và pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu; Thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi; Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGÔ HỒNG NGA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGÔ HỒNG NGA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS PHẠM MINH TUYÊN HÀ NỘI, năm 2021
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Phạm Minh Tuyên. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Ngô Hồng Nga
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU ........................................... 7 1.1. Khái niệm và đặc điểm xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu .............. 7 1.2. Vai trò, ý nghĩa của xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu .................. 15 1.3. Quy định của pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu ....... 21 CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI ................... 26 2.1. Khái quát đặt điểm kinh tế xã hội và tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi .............................................................................................. 26 2.2. Thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi .............................................................................................. 27 CHƯƠNG 3. CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI ............................................ 48 3.1. Các yêu cầu nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi ...................................................... 48 3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu tại TAND tỉnh Quảng Ngãi ................................................................. 51 KẾT LUẬN .................................................................................................... 59 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng Hình sự CP : Chính phủ CT : Chỉ thị CQĐT : Cơ quan điều tra CTTP : Cấu thành tội phạm ĐTV : Điều tra viên HĐXX : Hội đồng xét xử HP : Hình phạt KL : Kết luận KSĐT : Kiểm sát điều tra KSV : Kiểm sát viên NN : Nhà Nước NĐ : Nghị định NQ : Nghị quyết NXB : Nhà xuất bản PL : Pháp luật PTHSST : Phiên tòa hình sự sơ thẩm TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TP : Thẩm phán TTHS : Tố tụng hình sự VAHS : Vụ án hình sự VKS : Viện kiểm sát XHCN : Xã hội chủ nghĩa XXST : Xét xử sơ thẩm
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Kết quả xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu tại TAND tỉnh Quảng Ngãi (giai đoạn 2016 – 2020) .............................................................. 28 Bảng 2.2: Thống kê số vụ án xâm phạm sở hữu đã xét xử sơ thẩm tại TAND tỉnh Quảng Ngãi (giai đoạn 2016 – 2020) .......................................... 29 Bảng 2.3: Mức hình phạt được áp dụng đối với các tội xâm phạm sở hữu tại TAND tỉnh Quảng Ngãi (2016 – 2020) ..................................................... 30 Bảng 2.4: Hình phạt áp dụng đối với các tội xâm phạm sở hữu tại TAND tỉnh Quảng Ngãi (2016 – 2020) ...................................................................... 32 Bảng 2.5: Kết quả xét xử phúc thẩm đối với các vụ án sơ thẩm xâm phạm sở hữu của TAND tỉnh Quảng Ngãi bị kháng cáo, kháng nghị (2016 – 2020)....... 33 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ về mức hình phạt chính của các tội xâm phạm sở hữu tại TAND tỉnh Quảng Ngãi (2016 – 2020) .......................................................... 31
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Hoạt động xét xử của TAND được thực hiện theo chế độ hai cấp xét xử: sơ thẩm và phúc thẩm. Theo đó, xét xử sơ thẩm là một từ Hán Việt, có nghĩa là lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử tại một Tòa án có thẩm quyền [4, tr.870]. Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị [30, Đ330]. Trong đó, xét xử sở thẩm là cấp xét xử đầu tiên tại Tòa án và có vai trò hết sức quan trọng bởi nếu như hoạt động xét xử sơ thẩm được tiến hành hiệu quả, đúng trình tự thủ tục, tuân thủ các nguyên tắc tố tụng thì sẽ hạn chế các vụ việc bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm và giám đốc thẩm; từ đó việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được thực hiện nhanh chóng, hiệu quả, góp phần giảm thiểu tối đa thời gian và chi phí cho việc tiến hành tố tụng của đương sự và Nhà nước. Quá trình xét xử vụ án hình sự nói chung và hoạt động xét xử vụ án xâm phạm sở hữu trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nói riêng là hoạt động tư duy và thực tiễn vô cùng phức tạp, quyết định tính đúng đắn trong phán quyết của Tòa án khi xét xử vụ án hình sự. Thực tiễn cho thấy, trong những năm qua công tác xét xử của Tòa án đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Hàng năm, các Tòa án đã xét xử hàng ngàn vụ án hình sự theo thủ tục sơ thẩm. Mặc dù vậy, trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự trong thời gian qua vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc, bất cập vì những lý do khác nhau. Những hạn chế này đã gây ra những thiệt hại về vật chất lẫn tinh thần cho các bên có liên quan, làm giảm uy tín của các Tòa án trong việc thực 1
  8. thiện chức năng thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Mặt khác, giữa lý luận khoa học pháp lý và thực tiễn áp dụng pháp luật còn có khoảng cách đòi hỏi phải có sự nghiên cứu chuyên sâu để tiếp tục làm sáng tỏ một số nội dung cơ bản của hoạt động xét xử vụ án hình sự và nhất là vụ án xâm phạm sở hữu trong xét xử sơ thẩm để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. Vì vậy, tác giả chọn đề tài "Xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi" làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Nghiên cứu để nâng cao, hoàn thiện hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự luôn là một đề tài được nhiều nhà nghiên cứu, đặc biệt là các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý quan tâm. Có thể kể đến một số bài viết, công trình liên quan đến đề tài như sau: Luận văn Thạc sĩ Luật học “Thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm” của Nguyễn Hải Ninh, năm 2003; Luận văn Thạc sĩ Luật học “Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự” của Phạm Đình Thanh, năm 2011; “Xét xử sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)” của Nguyễn Sỹ Thành, năm 2015. Sách chuyên khảo kỹ năng xét xử các vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 của PGS.TS Phạm Minh Tuyên xuất bản năm 2018; Bài viết “Một số vấn đề vướng mắc trong việc định tội và định khung hình phạt đối với một số tội xâm phạm sở hữu” đăng trên tạp chí Tòa án số 2 năm 2021; Bài viết: “Về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm” của Thạc sĩ Lê Thị Thúy Nga, Tạp Chí luật học số 7/2008; bài “Thủ tục xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện” của Thạc sĩ Đinh Văn Quế... Tuy nhiên, tác giả nhận thấy rằng, các công trình hoặc chỉ mới nghiên 2
  9. cứu ở phạm vi khái quát những vấn đề lý luận hoặc những khía cạnh khác hoặc nghiên cứu một cách tổng thể về xét xử vụ án hình sự cũng như vấn đề định tội hoặc định khung hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu. Còn lại một số công trình cũng chỉ mới tập trung nghiên cứu từng mảng nội dung hoặc một giai đoạn, một thủ tục của hoạt động xét xử sơ thẩm như giai đoạn chuẩn bị xét xử hay về phiên tòa sơ thẩm xét xử các vụ án hình sự… Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” hoàn toàn không bị trùng lặp với nội dung nghiên cứu của các công trình đã công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân, góp phần vào công tác xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nói riêng và trong cả nước nói chung đảm bảo đúng pháp luật. Thông qua phân tích khái niệm cũng như các dấu hiệu pháp lý các tội XPSH trong pháp luật hình sự Việt Nam; thông qua thực tiễn việc xét xử sơ thẩm đối với tội phạm này tại địa bàn tỉnh Quảng Ngãi từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu của Tòa án nhân dân. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Việc nghiên cứu và hoàn thành đề tài “Xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” phải thực hiện được các nhiệm vụ sau: Nghiên cứu, làm rõ khái niệm, tính chất và vai trò của hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật TTHS về giai đoạn xét xử sơ thẩm tại TAND. 3
  10. Nghiên cứu, phân tích thực tiễn xét xử sơ thẩm nhóm tội phạm này trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Phân tích những tồn tại, hạn chế trong xét xử về nhóm tội phạm này thông qua thực tiễn và nguyên nhân. Nghiên cứu, đề xuất những giải pháp về hoàn thiện pháp luật để nâng cao chất lượng hoạt động xét xử sơ thẩm đối với nhóm tội này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Do đề tài phạm vi quá rộng nên luận văn giới hạn nội dung nghiên cứu khái quát các quy định về xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu tại phiên tòa sơ thẩm theo quy định tại BLTTHS 2015 và quy định về tội danh, quyết định hình phạt của việc xét xử sơ thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt quy định tại BLHS 2015. Tại chương 2: Xem xét thực tiễn hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2016 đến năm 2020. Về không gian: Tại TAND tỉnh Quảng Ngãi. Về thời gian: Các số liệu, bản án được thu thập trong khoảng thời gian từ năm 2016 – 2020 (tính theo năm công tác của hệ thống Tòa án nhân dân) 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Nội dung đề tài là nghiên cứu về thực trạng của hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân và các quy định sửa đổi, bổ sung tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; phân tích các nguyên nhân và đề ra các 4
  11. giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án về hình sự. Do đó, việc nghiên cứu đề tài mang tính thực tiễn nhiều hơn lý luận. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện chủ yếu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tiễn,…; đồng thời kết hợp phương pháp nghiên cứu cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp, các văn kiện Đại hội Đảng, các văn bản pháp luật và văn bản hướng dẫn thi hành, các công trình khoa học,… để đảm bảo tính toàn diện và logic trong việc nghiên cứu đề tài. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu. Nghiên cứu thông qua phân tích số liệu thực tiễn trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2016 đến năm 2020. Qua đó thấy được những bất cập, mâu thuẫn. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở đánh giá thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu, đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án XPSH. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Phần nội dung của luận văn gồm 3 chương như sau: Chương 1: Các vấn đề lý luận và pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu. Chương 2: Thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi. 5
  12. Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi. 6
  13. CHƯƠNG 1 CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU 1.1. Khái niệm và đặc điểm xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu 1.1.1. Khái niệm 1.1.1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Xét xử là giai đoạn trọng tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự, tại đây sự thật của vụ án có được làm sáng tỏ hay không, những vấn đề về bản chất của vụ án cần được làm rõ như xác định một người cụ thể có phạm tội hay không phạm tội, tội danh, hình phạt cần được áp dụng đối với họ như thế nào? Có quan điểm cho rằng: “Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn thứ tư và cuối cùng của hoạt động tố tụng hình sự, là giai đoạn trung tâm và quan trọng nhất của hoạt động TTHS, mà trong đó các Tòa án có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS tiến hành”. “Xét xử là xem xét và xử các vụ án. Xét xử các tội phạm. Việc xét xử của Tòa án”, theo từ điển Tiếng Việt [43, tr.178] “Xét xử sơ thẩm là lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử tại một Tòa án có thẩm quyền” , theo từ điển Luật học [42, tr.109]. Khái niệm này mang tính khái quát chung của cả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, dân sự; v.v… và đã phản ánh được nét đặc trưng của xét xử sơ thẩm là xét xử “lần đầu tiên” một vụ án được đưa ra xét xử và do “một Tòa án có thẩm quyền” tiến hành. Theo tác giả Đinh Văn Quế: “Xét xử sơ thẩm là việc xét xử lần thứ nhất (cấp thứ nhất) do Toà án được giao thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật.”. [22] 7
  14. Trên cơ sở tham khảo, nghiên cứu các quan điểm nêu trên, tác giả luận văn cho rằng: “Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự, trong đó Tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật”. 1.1.1.2. Khái niệm tội phạm xâm phạm sở hữu Tội phạm xâm phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu. Theo Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) thì các tội XPSH quy định các loại hành vi khách quan ở các dạng sau đây: + Hành vi chiếm đoạt tài sản là người phạm tội cố ý chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản đang thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác thành tài sản “của mình”… + Hành vi chiếm giữ trái phép tài sản là hành vi cố tình không giao tài sản do ngẫu nhiên mà chiếm hữu được (ví dụ như: nhặt được, được chuyển khoản nhầm,…) sau khi chủ tài sản hay người quản lý hợp pháp tài sản hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu. + Hành vi sử dụng trái phép là vì vụ lợi hoặc vì động cơ cá nhân khác mà khai thác giá trị, giá trị sử dụng các tài sản mà không được phép, không được sự đồng ý của chủ sở hữu hoặc người có chức năng quản lý về nghiệp vụ đối với loại tài sản bị khai thác trái phép đó. + Hành vi hủy hoại, làm hư hỏng tài sản là những hành vi được thể hiện thông qua đối tượng tác động làm mất hoàn toàn giá trị, giá trị sử dụng của tài sản (hủy hoại); làm mất giá trị từng phần có thể khôi phục được (làm hư hỏng) 8
  15. + Hành vi vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản là thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của nhà nước hoặc vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản. Các hành vi XPSH có thể được thể hiện bằng hành động hoặc không hành động. Riêng các tội phạm có tính chất chiếm đoạt chỉ có thể được thực hiện bằng hành động. Cách thức và hình thức chiếm đoạt rất đa dạng và được mô tả, khái quát thành những tội danh cụ thể. 1.1.1.3. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu Từ sự phân tích khái niệm các nội dung có liên quan phía trên về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, có thể hiểu xét xử sơ thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu, cũng phải tuân thủ các quy định chung nhất của Bộ luật tố tụng hình sự và Bộ luật hình sự. Tuy nhiên về kỹ năng xét xử, thì mỗi nhóm tội cũng có những đặc điểm riêng như khi xét xử các vụ án xâm phạm sở hữu cần chú ý tới đối tượng bị xâm phạm, tầm quan trọng của khách thể đặc biệt trong nhóm các tội xâm phạm về sở hữu có những tội mà ở đó hành vi phạm tội xâm phạm tới cả hai khách thể là quyền sở hữu và quyền nhân thân như tội cướp tài sản Điều 168; tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản Điều 169; tội cưỡng đoạt tài sản Điều 170; tội cướp giật tài sản Điều 171. Xem xét tới các phương thức, thủ đoạn phạm tội, chủ thể thực hiện tội phạm, nguyên nhân và điều kiện phạm tội, động cơ mục đích phạm tội để có được những kỹ năng xét xử toàn diện các vụ án xâm phạm sở hữu. Do vậy có thể hiểu xét xử sơ thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu là: “Xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu là việc Tòa án thông qua phiên toà xem xét và phán quyết, toàn diện hành vi xâm phạm sở hữu mà Viện kiểm sát đã truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử theo trình tự, thủ tục mà pháp luật tố tụng hình sự quy định”. 9
  16. 1.1.2. Đặc điểm Xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu có các đặc điểm cơ bản sau: Tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: 1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. 3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Là cơ quan duy nhất có chức năng xét xử, Tòa án nhân dân có quyền phán quyết cuối cùng trong hoạt động tố tụng, nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để xác định tội phạm, hình phạt và để phân xử, giải quyết các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ pháp luật trong đời sống xã hội thường ngày. Với vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng như vậy, hoạt động xét xử vụ án xâm phạm sở hữu của Tòa án nhân dân càng chính xác, khách quan, công bằng, nghiêm minh thì càng thể hiện bản chất ưu việt của Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Ngược lại, những sai lầm trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự của Tòa án, đặc biệt là việc xét xử oan, sai đều là những sai lầm nghiêm trọng và phải trả giá rất đắt. Do đó, tính nghiêm minh và sự công bằng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân luôn là một trong những biểu hiện cụ thể nhất, sinh động nhất của nền công lý đất nước và là một trong những thước đo sự tiến bộ trong việc thực hiện các quyền tự do, dân chủ của công dân và các quyền của con người dưới chế độ 10
  17. xã hội chủ nghĩa. Tòa án là cơ quan duy nhất được tiến hành hoạt động xét xử vụ án hình sự. Trong hoạt động xét xử án hình sự thì chỉ duy nhất do cơ quan Tòa án tiến hành. Mục đích của hoạt động xét xử vụ án hình sự là phải xem xét toàn bộ nội dung của vụ án, thông qua bản Cáo trạng của Viện kiểm sát, trên cơ sở kiểm tra một cách toàn diện, khách quan các tài liệu, chứng cứ được tiến hành thu thập trong quá trình điều tra và đặc biệt là thực tế diễn biến của phiên tòa để Tòa án mà ở đây là Hội đồng xét xử xem xét, quyết định hành vi của một người có phải là tội phạm hay không phải là tội phạm. Đặc điểm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự của TAND còn thể hiện ở chỗ, việc ban hành bản án. Đây là đặc điểm đòi hỏi Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân phải tôn trọng sự thật khách quan của các tình tiết vụ việc và tính tối thượng của luật pháp. Mặc dù trong cuộc sống hàng ngày khi không tham gia xét xử, thì người Thẩm phán là cán bộ, công chức của cơ quan Tòa án cũng phải tuân thủ mọi quy định của cơ quan và sự quản lý điều hành của Chánh án. Cũng tương tự như vậy, người Hội thẩm Tòa án nhân dân khi không tham gia xét xử thì cũng sống và làm việc bình thường như những công dân khác trong xã hội. Nhưng khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân phải thi hành bổn phận theo pháp luật mà không bị chi phối bởi bất kỳ yếu tố nào, không được phép xử án theo mệnh lệnh của bất kỳ ai, ngoài mệnh lệnh của các quy định pháp luật. Thẩm phán là một chức danh cao quý, được chủ tịch nước bổ nhiệm để thực hiện quyền tư pháp, quyết định chất lượng xét xử của Tòa án, là nền tảng của một Tòa án công bằng, vô tư, khách quan và thượng tôn pháp luật. Để bảo đảm tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, đòi hỏi đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải luôn trung thành với Tổ quốc, gương mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật, phải là tấm 11
  18. gương về phụng công thủ pháp, chí công vô tư, liêm chính, độc lập, khách quan, công bằng, tận tụy với công việc.Thẩm phán phải có sự vững vàng về lập trường tư tưởng chính trị, sự am hiểu pháp luật và đời sống xã hội, cần phải kết hợp trái tim nóng và cái đầu lạnh để từ đó suy xét một cách khách quan, thận trọng, phải xử sự bản lĩnh, đúng mực, khoan dung, nhân ái, lịch thiệp và thận trọng trên cơ sở lấy pháp luật và việc tuân theo pháp luật làm tiêu chí phán quyết. Hoạt động xét xử vụ án xâm phạm sở hữu của Tòa án nhân dân được tiến hành tại phiên tòa và mang tính công khai Khác với hoạt động của các cơ quan nhà nước khác có thể tiến hành ở mọi địa điểm trong cơ quan thậm chí cả ngoài cơ quan, tùy theo chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan nhà nước. Nhưng đối với hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân thì chỉ được tiến hành tại phiên tòa kể cả xét xử tại trụ sở hoặc xét xử lưu động tại các địa phương. Phiên tòa xét xử trở thành một thuật ngữ riêng biệt của Tòa án nhân dân với các nghi thức trang trọng, các thủ tục chặt chẽ thể hiện quyền uy của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được tiến hành một cách công khai. Phiên tòa xét xử là nơi diễn ra các hoạt động mang tính tố tụng đặc biệt mà ở đó, Hội đồng xét xử với Quốc huy của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn luôn là biểu tượng không thể thiếu được để minh chứng cho quyền nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi Tòa án nhân dân tiến hành xét xử các vụ án. Các vị trí, các chỗ ngồi được bố trí một cách phù hợp với tư cách của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Theo đó, chỗ ngồi của Hội đồng xét xử là ở vị trí cao nhất trong phòng xét xử. Các thủ tục công bố quyền và nghĩa vụ, thủ tục xét hỏi, tranh luận, nghị án, công bố bản án... luôn luôn được pháp luật tố tụng quy định chặt chẽ, chi tiết và yêu cầu những người áp dụng 12
  19. pháp luật phải tuân thủ tuyệt đối và nghiêm ngặt. Nó hoàn toàn không giống nơi nghị bàn của cơ quan dân cử, cũng không giống với nơi họp bàn, giải quyết công việc thường xuyên hàng ngày của cơ quan hành pháp. Phiên tòa xét xử của Tòa án nhân dân cũng là nơi quần chúng nhân dân, các cơ quan ngôn luận, báo chí trực tiếp chứng kiến và mong mỏi sự thật khách quan của vụ án được làm sáng tỏ thông qua các thủ tục dân chủ, công khai. Phiên tòa xét xử là nơi các quyền của con người, các quyền tự do dân chủ của công dân, lợi ích của Nhà nước xã hội chủ nghĩa được bảo vệ; là nơi sự thật khách quan của vụ án được xác định và là nơi công lý xã hội chủ nghĩa và công bằng xã hội được thực hiện một cách dân chủ, triệt để và nghiêm túc. Theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành, chỉ các vụ án cần giữ gìn bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật của các đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì Tòa án xét xử không công khai. Tùy theo từng vụ việc và theo yêu cầu của người tham gia tố tụng mà Tòa án có thể quyết định xét xử kín toàn bộ hay một phần vụ án… Dù xét xử không công khai các thủ tục như xét hỏi, tranh luận nhưng phần tuyên án phải công khai. Việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ, tài liệu đã thu thập được tiến hành công khai tại phiên tòa với các thủ tục xét hỏi, tranh luận theo quy định của pháp luật tố tụng là những biểu hiện sinh động cụ thể về tính dân chủ của phiên tòa. Là một phiên tòa xét xử án hình sự hay một phiên tòa xét xử các vụ án dân sự, hành chính đều diễn ra dưới sự điều khiển của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, có người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và quần chúng nhân dân quan tâm dự theo dõi. Tính công khai của phiên tòa thể hiện ở chỗ lịch xét xử được công bố công khai trước đó ít nhất từ 15 đến 20 ngày, giấy triệu tập công khai, giờ xử án công khai và mọi công dân từ mười sáu tuổi trở lên đều có thể đến theo dõi phiên tòa xét xử chỉ với một điều kiện duy nhất là phải tôn trọng 13
  20. và chấp hành nội quy phòng xử án. Trong vụ án hình sự, bị cáo được tự do trình bày ý kiến của mình về việc buộc tội của cơ quan công tố, được quyền đưa ra những tài liệu chứng cứ, đề nghị Hội đồng xét xử triệu tập thêm những người mà bị cáo cho là cần thiết để chứng minh mình không phạm tội hoặc có phạm tội nhưng không đến mức độ như quy kết của bản Cáo trạng. Luật sư được đưa ra các tài liệu, chứng cứ và tranh luận với đại diện Viện kiểm sát để thực hiện quyền bào chữa cho các bị cáo. Cũng chính tính chất công khai, dân chủ của phiên tòa lại tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho việc giám sát của các tổ chức xã hội, của quần chúng nhân dân ngoài nhiệm vụ kiểm sát xét xử trực tiếp của cơ quan Viện kiểm sát. Các quy trình áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử, đặc biệt là việc ban hành các quyết định, các bản án của Tòa án nhân dân luôn luôn chịu sự nhận xét, giám sát của công luận và đông đảo quần chúng nhân dân. Theo đó, trình độ, năng lực, đạo đức và kỹ năng nghề nghiệp của người Thẩm phán cũng được thể hiện công khai và chịu sự giám sát tương tự. Hoạt động xét xử của Tòa án chỉ do Thẩm phán và Hội thẩm TAND tiến hành Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân là các chức danh được Hiến pháp và pháp luật giao quyền tiến hành áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính. Do đó, pháp luật và thực tiễn đời sống xã hội đòi hỏi rất cao ở người Thẩm phán và Hội thẩm, đặc biệt là người Thẩm phán về trình độ, năng lực, đạo đức phẩm chất và tính trung thành với Tổ quốc, với nhân dân. Người Thẩm phán trước yêu cầu của nghề nghiệp đặc thù và để đáp ứng yêu cầu mới trong giai đoạn hiện nay cần có đầy đủ các đức tính "nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm" cũng như phải gần dân, hiểu dân, giúp dân và học dân như lời Bác Hồ 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1