Luận văn Thạc sĩ Quan hệ quốc tế: Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ 1995 đến nay
lượt xem 16
download
Luận văn trình bày một cách hệ thống chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta trong tiến trình hội nhập quốc tế và những kết quả thực tiễn của chính sách đó từ năm 1995 đến nay. Từ đó rút ra nhận xét về thuận lợi, khó khăn, triển vọng và giải pháp nhằm đẩy mạnh tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quan hệ quốc tế: Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ 1995 đến nay
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Nguyễn Sĩ Ánh CHÍNH SÁCH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN TỪ 1995 ĐẾN NAY Chuyên ngành: Quan hệ quốc tế Mã số: 60.31.40 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH QUỐC TẾ HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS VŨ DƢƠNG NINH HÀ NỘI: 2008
- MỤC LỤC Trang DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT…………… 1 MỞ ĐẦU………………………………………….... 2 CHƢƠNG 1: TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU SAU CHIẾN TRANH LẠNH 9 1.1 TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC……………… 9 1.2 TÌNH HÌNH TRONG NƢỚC VÀ NHỮNG THÀNH TỰU SAU 10 NĂM ĐỔI MỚI…………………........... 15 CHƢƠNG 2: CHÍNH SÁCH HỘI NHẬP QUỐC TẾ TỪ NĂM 1995 ĐẾN NAY: NỘI DUNG VÀ NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƢỢC 36 2.1 NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHÍNH SÁCH HỘI NHẬP QUỐC TẾ ……................................................. 36 2.1.1 Chính sách hội nhập quốc tế giai đoạn 1996 – 2001... 36 2.1.2 Chính sách hội nhập quốc tế giai đoạn 2001 – 2006.. 41 2.1.3 Chính sách hội nhập quốc tế qua văn kiện Đại hội toàn 46 quốc lần thứ X của Đảng (4/2006) …………..... 2.2 MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƢỢC TRONG VIỆC TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1995 ĐẾN NAY.... 48 2.2.1 Mở rộng quan hệ đối ngoại......................................... 48 2.2.2 Hội nhập kinh tế quốc tế…………………………..... 62 2.2.3 Tăng cƣờng giao lƣu văn hóa, giáo dục và các hoạt động khác................................................................................ 78 CHƢƠNG 3: HỆ QUẢ, KINH NGHIỆM, CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TRÊN TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ 82 3.1 NHỮNG HỆ QUẢ CƠ BẢN……………………........ 82 3.2 MỘT SỐ KINH NGHIỆM………………………..... 84 3.3 CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TRÊN TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ THỜI GIAN TỚI…………... 86 KẾT LUẬN………………………………………… 91 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………… 93 PHỤ LỤC
- DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT AFTA ASEAN Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do ASEAN AIPO ASEAN Inter- Parliamentary Organization Liên minh nghị viện ASEAN AMM ASEAN Ministeral Meeting Hội nghị Bộ trƣởng (Ngoại giao) các nƣớc ASEAN APEC Asia - Pacific Economic Cooperation Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dƣơng ARF ASEAN Regional Forum Diễn đàn (an ninh) khu vực ASEAN ASEAN The Association of Southeast Asian Nations Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEM Asia - Europe Meeting Hội nghị Á - Âu CH Cộng hoà CHDCND Cộng hoà dân chủ nhân dân CHLB Cộng hoà liên bang CHND Cộng hoà nhân dân CNTB Chủ nghĩa tƣ bản CNXH Chủ nghĩa xã hội ĐHĐ Đại hội đồng EC European Community Cộng đồng châu Âu EU European Union Liên minh châu Âu FDI Foreign Direct Investment Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài GATT General Agreement on Tariff and Trade Hiệp đinh chung về thuế quan và mậu dịch IMF International Monetary Fund Quỹ Tiền tệ quốc tế LHQ Liên hợp quốc MIA Missing In Action Ngƣời mất tích trong khi làm nhiệm vụ NATO North Atlantic Treaty Organization Tổ chức Hiệp ƣớc Bắc Đại tây dƣơng POW Prisoner of War Tù nhân chiến tranh SNG Cộng đồng các quốc gia độc lập TBCN Tƣ bản chủ nghĩa UNESCO United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa LHQ WTO World Trade Organization - Tổ chức Thƣơng mại thế giới XHCN Xã hội chủ nghĩa ZOPFAN ASEAN Zone of Peace, Freedom and Neutrality
- Khu vực ASEAN hoà bình, tự do và trung lập
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xƣớng và lãnh đạo, chúng ta đã giành đƣợc nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nƣớc. Trong những thành tựu chung đó có sự đóng góp quan trọng của ngoại giao Việt Nam. Đƣờng lối đối ngoại đổi mới của Việt Nam đã góp phần đƣa nƣớc ta thoát khỏi tình trạng bị bao vây cô lập và cấm vận trên trƣờng quốc tế, giải quyết có hiệu quả các vấn đề trong quan hệ giữa Việt Nam với các nƣớc, từng bƣớc đƣa nƣớc ta hội nhập khu vực và quốc tế. Đến nay, “Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 174 nƣớc ở cả năm châu” [36, tr.4]; đã có quan hệ đầy đủ và bình thƣờng với tất cả các nƣớc lớn, đặc biệt là các nƣớc uỷ viên thƣờng trực HĐBA Liên hợp quốc, các trung tâm kinh tế- chính trị, các tổ chức tài chính tiền tệ lớn trên thế giới. Trong quá trình đổi mới, chúng ta đề ra chính sách, chủ trƣơng sao cho phù hợp với tình hình của từng giai đoạn cụ thể. Từ năm 1986 đến năm 1995, Đảng ta đã chủ động điều chỉnh đƣờng lối đối ngoại nhằm đƣa Việt Nam ra khỏi thế bị bao vây cấm vận, thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội, bƣớc đầu thực hiện chính sách hội nhập quốc tế, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nƣớc. Từ năm 1995 đến nay, trƣớc xu thế khu vực hóa và toàn cầu hoá phát triển mạnh mẽ, các quốc gia ngày càng chủ động trong việc hội nhập quốc tế. Hoạt động ngoại giao của Việt Nam đặt ra nhiệm vụ quan trọng là duy trì môi trƣờng hòa bình, ổn định, đa dạng hóa, đa phƣơng hóa quan hệ đối ngoại, mở rộng thị trƣờng, tranh thủ viện trợ, kêu gọi đầu tƣ, tăng cƣờng các quan hệ song phƣơng và đa phƣơng, chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới nhằm phục vụ sự nghiêp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nƣớc. Đối với Việt Nam, việc chủ động hội nhập quốc tế là một nhân tố quan trọng trong việc nâng cao vị thế của Việt Nam trên trƣờng quốc tế, đồng thời
- phục vụ đắc lực sự nghiệp phát triển đất nƣớc. Do vậy, việc nghiên cứu chính sách hội nhập quốc tế giai đoạn từ năm 1995 đến nay có một ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, giúp cho ngƣời đọc thấy đƣợc những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta. Từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm, những mặt làm đƣợc và chƣa làm đƣợc trong vấn đề hội nhập quốc tế, đề ra những giải pháp nhằm đƣa công cuộc hội nhập quốc tế có hiệu quả hơn nữa. Với ý nghĩa trên, tôi chọn vấn đề “Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ 1995 đến nay” làm đề tài luận văn cao học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đƣợc Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xƣớng và lãnh đạo trong suốt hơn 20 năm qua đã và đang giành đƣợc những thành tựu quan trọng. Trong những năm qua, để phục vụ công tác hoạch định chính sách đối ngoại, đẩy mạnh hội nhập quốc tế nhằm mục tiêu xây dựng đất nƣớc theo hƣớng công nghiệp hóa – hiện đại hóa, đã có nhiều cuộc hội thảo về chính sách hội nhập quốc tế và hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta. Về đƣờng lối, chính sách đối ngoại, trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập ngành Ngoại giao Việt Nam, năm 1995, Bộ Ngoại giao đã xuất bản cuốn “Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc” tập hợp các bài nói và viết của các nhà hoạt động ngoai giao về các vấn đề quốc tế có liên quan đến Việt Nam trong giai đoạn này. Năm 2002, Học viện Quan hệ quốc tế đã xuất bản cuốn “Ngoại giao Việt Nam hiện đại - Vì sự nghiệp đổi mới” do TS Vũ Dƣơng Huân chủ biên. Nội dung cuốn sách đề cập tới nhiều vấn đề về ngoại giao, hội nhập… đƣợc dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và học tập phần chính sách đối ngoại của Việt Nam từ sau năm 1975. Cũng trong năm 2002, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia đã xuất bản cuốn sách “Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000” do Thứ trƣởng thƣờng trực Bộ Ngoại giao Nguyễn Đình Bin là Chủ biên. Cuốn sách giúp cho ngƣời đọc
- tìm hiểu nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, đƣờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng và Nhà nƣớc ta trong từng giai đoạn lịch sử cách mạng Việt Nam, đồng thời cuốn sách cũng nêu lên những đặc điểm, tính chất của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, những thành tựu chủ yếu trong hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nƣớc và ngoại giao nhân dân. Về thành tựu trong quá trình hội nhập quốc tế, có thể nói đây là một đề tài mà nhiều nhà nghiên cứu đã đề cập tới nhằm phục vụ tốt hơn nữa cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nƣớc. Tháng 12/2003, trên Tuần báo tạp chí Nghiên cứu quốc tế số 6(55) có đăng bài viết của PGS.TS Nguyễn Thế Lực và TS Nguyễn Hoàng Giáp: “Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam: Quá trình và một số kết quả”. Nhằm chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, cũng là dịp tổng kết và nhìn lại 20 năm đổi mới ở Việt Nam, Phó Thủ tƣớng Vũ Khoan đã viết bài trên báo Nhân dân số ra ngày 14 và 16 tháng 11/2005 với tiêu đề: “20 năm đổi mới trong lĩnh vực đối ngoại”. Năm 2007, trên Tạp chí Cộng sản số 780 (tháng 10/2007), Phó Thủ tƣớng Phạm Gia Khiêm có bài viết: “Việt Nam tự tin vững bước trên con đường hội nhập”. Những bài viết đề cập tới thành tựu của hội nhập quốc tế đƣợc các tác giả tổng kết qua quá trình thực hiện chính sách hội nhập quốc tế, đặc biệt là sau khi Trung ƣơng Đảng (khóa IX) ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó rút ra những kinh nghiệm, những khó khăn, thách thức và đề ra những giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn mới, nhất là sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO). Các tài liệu trên đây là khá phong phú, đa dạng. Ngoài các chuyên luận, sách báo, các bài đăng trên các tạp chí khoa học còn có nhiều bài nghiên cứu khác . Nhìn chung các công trình trên đây có đặc điểm là đều nghiên cứu về chính sách
- đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam trong thời kì đổi mới nhƣ là một quá trình vẫn đang tiếp tục diễn ra; và “Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ 1995 đến nay” chƣa trở thành đối tƣợng nghiên cứu độc lập của một công trình khoa học nào, đặc biệt trên phƣơng diện của một luận văn tốt nghiệp cao học. Bên cạnh đó cũng có nhiều sách, tài liệu tham khảo, các bài viết đƣợc đăng trên các tạp chí là nguồn cung cấp tài liệu phong phú cho ngƣời viết khi nghiên cứu đề tài “Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ 1995 đến nay”. Đó là một thuận lợi cho ngƣời viết khi đi sâu nghiên cứu đề tài, nhƣng đồng thời cũng là khó khăn khi yêu cầu đặt ra là phải gợi mở đƣợc những vấn đề mới. Một khó khăn nữa là ngƣời viết chƣa có điều kiện để tiếp cận với các tài liệu chƣa đƣợc công bố sẽ dẫn đến thiếu những luận chứng trong việc tìm hiểu vấn đề. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn Trình bày một cách hệ thống chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta trong tiến trình hội nhập quốc tế và những kết quả thực tiễn của chính sách đó từ năm 1995 đến nay. Từ đó rút ra nhận xét về thuận lợi, khó khăn, triển vọng và giải pháp nhằm đẩy mạnh tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn - Phân tích những nhân tố tác động đến quá trình hoạch định chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1995 đến nay. - Phân tích chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam qua các kỳ Đại hội Đảng và những kết quả cụ thể trong việc triển khai chính sách hội nhập quốc tế từ năm 1995 đến nay.
- - Nêu lên những thuận lợi, khó khăn, trên cơ sở đó đƣa ra triển vọng và đề xuất một số giải pháp nhằm giúp cho việc thực thi chính sách hội nhập quốc tế phát huy hiệu quả hơn nữa. 4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta nhằm từng bƣớc đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Những thành tựu trong quan hệ đối ngoại, kinh tế và các mặt khác những minh chứng cho sự thành công của chính sách hội nhập quốc tế. Về thời gian: Trọng tâm nghiên cứu của luận văn bắt đầu từ năm 1995- năm đánh dấu sự hội nhập khu vực của Việt Nam và mở ra thời kỳ hội nhập mạnh mẽ với thế giới. Vì tính liên tục của hoạt động đối ngoại nên luận văn dành một phần nhất định cho giai đoạn trƣớc năm 1995, nhất là trong 10 năm đầu tiến hành đƣờng lối đổi mới. Thời điểm kết thúc là năm 2007- đánh dấu sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO) và đƣợc bầu làm Uỷ viên không thƣờng trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận biện chứng. Trong quá trình nghiên cứu và xử lý tài liệu tham khảo, luận văn quán triệt các luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa các quốc gia dân tộc trong thời đại mới, đặt cách mạng Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu. Luận văn bám sát các quan điểm đánh giá, nhận định tình hình quốc tế, khu vực và chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện trong các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX, X và các Nghị quyết trung ƣơng trong thời kỳ này đặc biệt là Nghị quyết số 07/NQ-TW ngày 27 tháng 11 năm 2001 về hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là nguồn cung cấp những căn cứ lý luận và định hƣớng tƣ tƣởng trong nghiên cứu. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu nằm trong phạm vi chuyên ngành quan hệ quốc tế, là một bộ phận của khoa học xã hội nên luận văn sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu lịch sử và phƣơng pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế. Các phƣơng pháp khác nhƣ tiếp cận hệ thống, phân tích, so sánh, tổng hợp đƣợc sử dụng nhƣ là những phƣơng pháp bổ trợ cần thiết cho hai phƣơng pháp chủ yếu nêu trên để nghiên cứu và trình bày luận văn. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn tập trung làm rõ một cách hệ thống quá trình hoạch định và triển khai chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong tình hình mới. Qua đó thấy đƣợc tƣ duy đổi mới của Đảng và Nhà nƣớc ta trong việc xây dựng và phát triển đất nƣớc. Bên cạnh đó, luận văn góp phần cung cấp thêm cứ liệu khoa học xung quanh việc tìm hiểu chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta nói chung và chính sách hội nhập quốc tế nói riêng. Luận văn này có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm tìm hiểu chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam giai đoạn từ năm 1995 đến nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc chia làm 3 chƣơng. Chƣơng 1: Tình hình thế giới và Việt Nam trong những năm đầu sau chiến tranh lạnh Trong chƣơng 1, tác giả đề cập đến tình hình thế giới, khu vực và trong nƣớc trong những năm đầu sau chiến tranh lạnh, đặc biệt là những biến động của tình hình thế giới, sự sụp đổ của hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu và những tác động trực tiếp của nó tới tình hình Việt Nam.
- Chƣơng 2: Chính sách hội nhập quốc tế từ năm 1995 đến nay: Nội dung và những kết quả đạt đƣợc. Chƣơng này tác giả đề cập tới những nội dung cơ bản của chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam đƣợc đề ra qua các kỳ Đại hội Đảng trong giai đoạn từ năm 1995 đến nay. Những thành công trong việc triển khai chính sách hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nƣớc ta đƣợc tác giả minh hoạ qua những kết quả đạt đƣợc trong việc mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Chƣơng 3: Hệ quả, kinh nghiệm, cơ hội và thách thức trên tiến trình hội nhập quốc tế. Chƣơng này tác giả nêu lên những hệ quả của việc hội nhập quốc tế, rút ra những kinh nghiệm, dự báo những cơ hội và thách thức trên tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới.
- Chƣơng 1 TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU SAU CHIẾN TRANH LẠNH 1.1. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC Thập kỷ 90 của thế kỷ XX đƣợc mở đầu bằng những sự kiện làm đảo lộn tình hình và tƣơng quan lực lƣợng trên thế giới. Những sự kiện đó cũng đã có tác động mạnh mẽ tới việc hoạch định chính sách đối ngoại nói chung, chính sách hội nhập quốc tế nói riêng của Đảng và Nhà nƣớc ta. Đầu tiên đó là sự tan rã của Liên Xô và các nƣớc XHCN ở Đông Âu. Liên Xô và các nƣớc XHCN ở Đông Âu đã chậm đổi mới tƣ duy, chậm ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ vào việc phát triển nền kinh tế, thiếu sự quyết đoán và phƣơng sách hiệu quả nhằm khắc phục các khuyết tật của mô hình phát triển kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, khép kín dẫn đến việc những nƣớc này ngày càng tụt hậu về kinh tế, khoa học và công nghệ so với các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa. Bên cạnh đó, những rối ren về chính trị, mâu thuẫn và xung đột giữa các dân tộc dẫn đến hiện tƣợng ly khai của một số nƣớc cộng hòa ra khỏi Liên bang Xô viết. Về đối ngoại, Liên Xô thực hiện rút quân chiến lƣợc, rút quân đội khỏi các căn cứ quân sự ở nƣớc ngoài, giảm hoặc cắt viện trợ quân sự, giải thể khối quân sự Vácxava, tăng cƣờng chính sách hoà hoãn với Mỹ. Tình hình đó cũng thúc đẩy các nƣớc XHCN ở Đông Âu đi vào cải cách. Tuy vậy, cũng nhƣ Liên Xô, tình hình ở các nƣớc XHCN ở Đông Âu rơi vào những khủng hoảng về kinh tế, chính trị, xã hội và cùng trên bờ vực
- của sự tan rã. Bên cạnh đó, các nƣớc đế quốc đã chớp lấy cơ hội này tăng cƣờng hoạt động “diễn biến hoà bình”, khuyến khích các lực lƣợng chống đối gây bạo loạn và lật đổ chế độ. Sau khi Liên Xô và chế độ XHCN ở các nƣớc Đông Âu tan rã, chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới tạm thời lâm vào thoái trào. Tƣơng quan lực lƣợng trên thế giới tạm thời có lợi cho Mỹ và các nƣớc tƣ bản phƣơng Tây, chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự thế giới hai cực không còn nữa. Thay vào đó là một trật tự thế giới mới đang hình thành. Chiến tranh lạnh kết thúc, “hoà bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và quốc gia trên thế giới” [19, tr.464]. Quan hệ giữa các quốc gia từ đối đầu chuyển sang đối thoại, các quốc gia quan tâm tới việc cải thiện các mối quan hệ, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, “các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế, thƣơng mại và nhiều lĩnh vực hoạt động khác” [19, tr.464]. Vừa hợp tác vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình là một nhu cầu khách quan; tăng cƣờng hội nhập và hợp tác quốc tế, chạy đua vũ trang đƣợc thay thế bằng chạy đua về kinh tế, khoa học – kỹ thuật tiếp tục đƣợc nghiên cứu và phát triển, các nƣớc “coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cƣờng sức mạnh tổng hợp của quốc gia” [19, tr.464] và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, ở nhiều nơi trên thế giới vẫn xảy ra những cuộc “xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố” [19, tr.463]. Phong trào ly khai đã diễn ra ở nhiều nơi, những cuộc “nồi da xáo thịt” giữa các dân tộc mà trƣớc đây cùng chung sống trong một nƣớc. Những mâu thuẫn đó đƣợc che lấp dƣới thời chiến tranh lạnh nay bộc lộ thành xung đột gay gắt. Phần lớn những mâu thuẫn, tranh chấp này đều có căn nguyên lịch sử nên việc giải quyết không thể nhanh chóng và dễ dàng. Điều đó đã cho thấy tình hình thế giới
- vẫn còn nhiều bất ổn, “diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lƣờng” [19, tr. 462]. Bên cạnh những thay đổi về chính trị, kinh tế trên thế giới, cuộc “cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, tăng nhanh lực lƣợng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội” [19, tr. 463]. Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đã làm thay đổi một cách căn bản và tạo ra bƣớc phát triển mạnh mẽ trình độ của lực lƣợng sản xuất. Nó là nhân tố cơ bản làm cho xã hội phát triển, đồng thời nó tạo ra những thay đổi căn bản cả về lƣợng và chất đối với mọi mặt của đời sống xã hội, nó cũng là tác nhân thúc đẩy xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa. Bên cạnh cuộc cách mạng khoa học – công nghệ là cuộc cách mạng công nghệ thông tin, nó đã đƣa nhân loại từ kinh tế công nghiệp lên kinh tế tri thức, chính nó đã thu hẹp khoảng cách thế giới và đặt ra cho các nƣớc còn khép kín nền kinh tế phải có chính sách phù hợp với sự phát triển của thế giới. Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa phát triển nhanh chóng. Xu thế toàn cầu hóa đã mang lại cho thế giới một sắc thái mới đó là sự nhích lại gần nhau của những nền kinh tế. Toàn cầu hóa kinh tế đòi hỏi lƣu thông tiền tệ và thƣơng mại phải tự do hơn, nó làm cho các nền kinh tế ngày càng thâm nhập, đan xen lẫn nhau, tăng thêm sự phụ thuộc vào nhau. Nó đòi hỏi các quốc gia phải có chính sách hội nhập quốc tế một cách hợp lý, đáp ứng đƣợc những yêu cầu của thế giới và khu vực, đồng thời vẫn giữ đƣợc tính độc lập, tự chủ của mỗi quốc gia. Toàn cầu hóa, khu vực hóa đem đến cho các quốc gia những cơ hội để phát triển. Tuy nhiên, tuỳ điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia cũng nhƣ tận dụng cơ hội khác nhau mà dẫn đến sự phát triển khác nhau. Bên cạnh đó, các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa và các công ty đa quốc gia có ƣu thế về vốn, công nghệ, thị trƣờng cho nên có lợi thế lớn hơn rất nhiều so với các nƣớc
- chậm phát triển và đang phát triển, chênh lệch giầu nghèo giữa các nƣớc này cũng sẽ ngày càng mở rộng. Với nền kinh tế toàn cầu, việc tổ chức sản xuất và khai thác thị trƣờng trong phạm vi một nƣớc đã nhanh chóng chuyển sang tổ chức sản xuất và khai thác thị trƣờng trên phạm vi thế giới và theo đó, sự phát triển kinh tế của bất kỳ quốc gia nào cũng có những ảnh hƣởng nhất định đến thị trƣờng chung trên thế giới. Cùng với quá trình toàn cầu hóa, là quá trình khu vực hóa. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các tổ chức khu vực, liên khu vực đã thu hút các quốc gia tham gia, có thể kể đến một số tổ chức: Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) … Các liên kết khu vực này lúc đầu xuất phát từ các nhu cầu về phát triển kinh tế nhƣng sau đó tiến dần tới những liên kết về chính trị. Sự liên kết khu vực thƣờng thể hiện ở năm cấp độ khác nhau từ ƣu đãi thƣơng mại, thị trƣờng tự do, liên minh quan thuế, thị trƣờng chung và cuối cùng là các “liên kết đa diện kiểu Liên minh châu Âu - về cả thị trƣờng lẫn chính sách kinh tế, đồng tiền chung, quốc hội chung ... Các tổ chức khu vực còn có một đặc điểm nữa đó là khả năng thu hút đƣợc cả những quốc gia có chế độ chính trị khác nhau nhằm tận dụng khả năng của nhau, đồng thời các quốc gia ngày nay cũng xác định cần phải dựa vào nhau bởi khó có khả năng độc lập để giải quyết công việc. Trong bối cảnh đó, các nƣớc vừa và nhỏ cũng điều chỉnh chính sách đối ngoại để tạo vị thế có lợi hoặc ít bất lợi nhất trong môi trƣờng quốc tế đã thay đổi. Chiều hƣớng chung là thi hành chính sách đối ngoại theo hƣớng đa dạng hóa, tập hợp trên cơ sở lợi ích song trùng, coi trọng việc cải thiện và phát triển quan hệ với các nƣớc láng giềng và khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với các nƣớc lớn và các trung tâm chính trị - kinh tế trên thế giới Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thế giới đứng trƣớc nhiều vấn đề có tính toàn cầu (bảo vệ môi trƣờng sống, hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa
- và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo…) không một quốc gia nào có thể tự giải quyết mà cần phải có sự hợp tác đa phƣơng. Các vấn đề toàn cầu đòi hỏi phải có sự hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia, cùng bàn thảo và có quyết sách hợp lý thì mới có thể giải quyết đƣợc. Từ nhu cầu khách quan đó, trên thế giới xuất hiện ngày càng nhiều các diễn đàn song phƣơng và đa phƣơng cùng bàn bạc, hợp tác giải quyết các vấn đề mà các bên cùng quan tâm (Hội nghị quốc tế bàn về việc thực hiện Nghị định thƣ Kyoto – Cắt giảm lƣợng khí thải toàn cầu). Chính từ các diễn đàn này mà vai trò của các nƣớc vừa và nhỏ đƣợc nâng lên, bởi những nƣớc đó cũng có những tiếng nói nhất định đóng góp cho các diễn đàn nhằm giải quyết các vấn đề toàn cầu. Đối với khu vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng, nơi tập trung những nền kinh tế lớn trên thế giới, nơi có quốc gia đông dân nhất thế giới, có tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, nằm trên trục đƣờng giao thông quan trọng, thì nhiều chuyên gia cho rằng Châu Á - Thái Bình Dƣơng sẽ ngày càng phát triển và là một khu vực năng động. Ở khu vực này có những nền kinh tế hùng mạnh nhƣ Mỹ, Nhật Bản, Canađa. Các cƣờng quốc này đang có vai trò quan trọng trong việc chi phối các hoạt động quốc tế. Bên cạnh đó còn có các nền kinh tế mới công nghiệp hoá nhƣ Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Công, Xingapo; nhiều nƣớc đang phát triển với tốc độ nhanh và có tiềm năng lớn nhƣ Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia, Malaixia, Thái Lan ... Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang trì trệ thì nền kinh tế Châu Á - Thái Bình Dƣơng tiếp tục phát triển năng động. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng đang mở ra những cơ hội lớn cho các nƣớc trong và ngoài khu vực để cùng nhau phát triển. Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của APEC, điều đó giúp chúng ta có cơ hội hội nhập khu vực và thế giới. Bƣớc vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, khu vực Đông Á trở thành thành khu vực có tốc độ tăng trƣởng rất cao, một số quốc gia và vùng lãnh thổ đã trở thành những hiện tƣợng trên thế giới trong việc phát triển kinh tế. Các nƣớc trong khu vực đều có nguyện vọng cùng tồn tại trong hoà bình, hữu nghị và
- hợp tác để phát triển. Sƣ hợp tác ngày càng tăng ở nhiều tầng nhiều nấc và dƣới nhiều hình thức nhằm tăng cƣờng sự trao đổi thông tin, và cùng nhau xây dựng một diễn đàn để đóng góp ý kiến và cùng nhau hợp tác có hiệu quả nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế mỗi nƣớc thành viên và trong khu vực nhƣ: Tổ chức hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dƣơng; khu vực thƣơng mại tự do ASEAN (AFTA), Hiệp hội các nƣớc khu vực Nam Á (SAARC)… cùng một loạt các tam giác, tứ giác phát triển khác ra đời. Các quốc gia trong khu vực đều có lợi ích muốn mở rộng thị trƣờng, phối hợp các nguồn nhân lực, tài lực, kết cấu hạ tầng và các nguồn tài nguyên trong khả năng sẵn có và điều kiện của từng quốc gia, từng vùng lãnh thổ cho phép. Các nƣớc đều điều chỉnh chiến lƣợc phát triển kinh tế – xã hội và chiến lƣợc đối ngoại của mình cho phù hợp các xu thế chung đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới. Quan hệ giữa các nƣớc lớn trong khu vực tuy còn một số trục trặc song nhìn chung vẫn nằm trong khuôn khổ vừa hợp tác, vừa đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, nhƣng tránh đối đầu. Sau sự chấm dứt của cuộc chiến tranh lạnh, tình hình Châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng đã có những thay đổi tích cực. Các quốc gia trong khu vực đều thay đổi cái nhìn về nhau và cùng nhau hƣớng tới sự hợp tác và hội nhập hoà bình, hữu nghị, quan hệ giữa các nƣớc chuyển từ đối đầu sang đối thoại, đặc biệt là sau khi chúng ta có những bƣớc đi thích hợp trong việc giải quyết vấn đề Campuchia, nó đã giải toả những nghi kỵ của các nƣớc ASEAN đối với Việt Nam. Các nƣớc trong khu vực Đông Nam Á nỗ lực cải thiện từng bƣớc mối quan hệ, tạo lập lòng tin và thúc đẩy hợp tác mọi mặt nhằm hiện thực hóa ý tƣởng biến Đông Nam Á thành khu vực phi vũ khí hạt nhân, thống nhất trong đa dạng, hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất các các nƣớc ngoài khu vực. Cùng với đà biến chuyển tích cực của tình hình, các nƣớc Đông Nam Á đã tranh thủ đƣợc lợi thế so sánh về vị trí địa lý, tài nguyên và con ngƣời, tăng cƣờng đổi mới công nghệ, tranh thủ nguồn vốn và kĩ thuật bên ngoài để đẩy mạnh phát
- triển kinh tế. Nền kinh tế của các nƣớc Đông Nam Á đang trong quá trình công nghiệp hoá mạnh mẽ, đa dạng hoá và liên kết chặt chẽ với nhau, với các nền kinh tế khác ở Châu Á - Thái Bình Dƣơng và thế giới. Bên cạnh những mặt tích cực, những mặt tiêu cực vẫn luôn tồn tại và có ảnh hƣởng không nhỏ tới các quốc gia trong khu vực. Cũng nhƣ các quốc gia khác trên thế giới. Tại khu vực Đông Nam Á, sự phát triển kinh tế đƣợc đặt lên hàng đầu, chính vì vậy, nhu cầu về vốn, thị trƣờng, lao động, công nghệ … cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với mỗi quốc gia. Điều đó đòi hỏi phải có sự liên kết, hợp tác nhiều mặt giữa các nƣớc với nhau. Từ đó dẫn đến lợi thế của các nƣớc phát triển. Những nƣớc đang phát triển nhƣ Việt Nam đứng trƣớc một thách thức lớn hơn nữa đó là những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ và sự phát triển mạnh mẽ của toàn cầu hóa vừa mang đến những thuận lợi, cơ hội nhƣng cũng vừa mang đến những thách thức và nguy cơ bị tụt hậu xa hơn nữa trong kinh tế. Ngoài ra, môi trƣờng hoà bình, ổn định và phát triển của khu vực chƣa thật bền vững, tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây mất ổn định. Trong nội bộ một số nƣớc và giữa các nƣớc với nhau vẫn còn tồn tại mâu thuẫn: xung đột về sắc tộc, tôn giáo, biên giới lãnh thổ… Có thể nói, tình hình thế giới và khu vực những năm đầu sau chiến tranh lạnh có nhiều biến động sâu sắc, phức tạp và khó lƣờng. Những biến động đó có tác động trực tiếp tới các nƣớc trên thế giới trong đó có Việt Nam. ảnh hƣởng tới việc hoạnh định chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta , đồng thời có những tác động không nhỏ tới việc xác định tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam trong những năm tiếp theo. 1.2. TÌNH HÌNH TRONG NƢỚC VÀ NHỮNG THÀNH TỰU SAU 10 NĂM ĐỔI MỚI Vào giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, trƣớc sức ép của cộng đồng quốc tế, vấn đề đặt ra đối với chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta là phá thế bị bao vây cấm vận, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển
- đất nƣớc. Trƣớc sự phát triển của tình hình trong nƣớc và quốc tế, tháng 7/1986, Bộ Chính trị khóa V đã ra Nghị quyết số 32 điều chỉnh bƣớc đầu chính sách đối ngoại của Việt Nam. Nghị quyết 32 nhấn mạnh chủ trƣơng: “cần chủ động chuyển sang thời kỳ cùng tồn tại hoà bình, góp phần xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác” [3, tr.323]. Trong khi đó, giai đoạn những năm cuối thập kỷ 80 đầu 90 của thế kỷ XX, thế giới đã có những thay đổi nhanh chóng làm đảo lộn mọi trật tự trong quan hệ quốc tế. Việc hoạch định chính sách đối ngoại của Đảng ta trong giai đoạn này có phần xa rời thực tế, chƣa đánh giá sát với những diễn biến bất lợi đối với phe XHCN, trong khi những bất ổn trong lòng Liên Xô và các nƣớc XHCN ở Đông Âu đang ngày càng sâu sắc. Vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, Đảng và Nhà nƣớc ta cũng đã nhận thức về sự biến chuyển trong xu thế của thế giới, đặt ra vấn đề mở cửa, thiết lập quan hệ với thế giới bên ngoài nhằm cải thiện tình trạng bị bao vây, cô lập. Xu thế hoà hoãn trong quan hệ quốc tế, quá trình quốc tế hoá các lực lƣợng sản xuất và hợp tác kinh tế giữa các quốc gia không phân biệt hệ tƣ tƣởng và chế độ chính trị đang diễn ra mạnh mẽ đã dẫn đến sự đổi mới trong tƣ duy của Đảng ta về mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia và nghĩa vụ quốc tế, giữa an ninh và phát triển, giữa hợp tác và đấu tranh để tận dụng nội lực và tranh thủ tối đa sức mạnh của thời đại vì mục tiêu phát triển của đất nƣớc. Đó chính là đổi mới tƣ duy đối ngoại rõ rệt nhất của Đảng ta trong Đại hội VI nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chiến lƣợc là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa: “ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại ... tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”[19, tr. 104]. Trong quá trình hoạch định chính sách đối ngoại của Đảng tại Đại hội lần thứ VI, Đảng ta đã tiếp tục khẳng định mối quan hệ đặc biệt giữa ba nƣớc Đông
- Dƣơng, tăng cƣờng đoàn kết với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc và Phong trào Không liên kết, kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình và hữu nghị với các nƣớc không phân biệt chế độ chính trị, góp phần xây dựng khu vực Đông Nam Á thành khu vực hoà bình và hợp tác. Đảng ta mong muốn “đi tới một giải pháp chính trị đúng đắn về Campuchia” [19, tr. 114]. Đại hội cũng khẳng định chủ trƣơng “sẵn sàng đàm phán với Trung Quốc bất cứ lúc nào, bất cứ cấp nào và bất cứ ở đâu nhằm bình thƣờng hóa quan hệ giữa hai nƣớc” [19, tr. 114]. Tháng 5 năm 1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 13 về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới. “Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị đã đổi mới chiến lƣợc đối ngoại: đổi mới tƣ duy, mục tiêu công tác đối ngoại, phƣơng thức đấu tranh và chính sách tập hợp lực lƣợng, thay đổi hẳn về quan điểm bạn thù”[7, tr. 3 - 11]. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị ra đời đã đánh dấu mốc quan trọng trong việc đổi mới tƣ duy đối ngoại theo định hƣớng mới. Với chủ đề “giữ vững hoà bình và phát triển kinh tế”, Nghị quyết nhấn mạnh nhiệm vụ ngoại giao phục vụ ổn định chính trị, cũng cố và giữ vững hoà bình, ƣu tiên phát triển kinh tế tạo điều kiện và môi trƣờng thuận lợi để đất nƣớc phát triển trong thế ổn định: “Lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân là phải củng cố và giữ vững hoà bình để tập trung xây dựng và phát triển kinh tế” [44, tr. 245] Bên cạnh đó, Nghị quyết đã chuyển từ coi trọng an ninh sang coi trọng phát triển và mở rộng quan hệ quốc tế: “với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ càng có khả năng giữ vững độc lập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hơn” [Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị tháng 5 năm 1988. Dẫn theo 7, tr. 3 - 11]. Trong chính sách đối với các đối tƣợng cụ thể, với việc xác định rõ ràng chính sách hội nhập quốc tế, nhằm mục tiêu từng bƣớc thoát khỏi thế bị bao vây, cấm vận, Nghị quyết nêu rõ các chủ trƣơng góp phần giải quyết vấn đề
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh: Quản trị hệ thống mạng phân phối sản phẩm viễn thông Panasonic tại thị trường miền trung của công ty đầu tư và phát triển thương mại
24 p | 143 | 26
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị quan hệ khách hàng cá nhân tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Đà Nẵng
26 p | 158 | 11
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Qquản trị quan hệ khách hàng tại công ty Thông tin di động VMS chi nhánh Kon Tum
26 p | 101 | 9
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị quan hệ khách hàng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần ngoại thương Việt Nam chi nhánh Quy Nhơn
26 p | 90 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến lòng trung thành của nhân viên tại Công ty cổ phần truyền hình cáp sông Thu
113 p | 14 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản tại Công ty TNHH Thẩm định giá và dịch vụ tài chính Đà Nẵng
115 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị quan hệ khách hàng sử dụng dịch vụ viễn thông tại chi nhánh Viettel Gia Lai
107 p | 13 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Hoạch định chiến lược cạnh tranh hệ thống bán lẻ của Siêu thị Metro Đà Nẵng
125 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Phát triển văn hoá doanh nghiệp tại Tổng công ty Cổ phần Dệt may Hoà Thọ
110 p | 13 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ biên tập sách lý luận chính trị, pháp luật của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật
88 p | 4 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp hoàn thiện công tác quan hệ công chúng (PR) tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam chi nhánh Đà Nẵng
114 p | 8 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp hoàn thiện hệ thống kênh phân phối sản phẩm tại Công ty TNHH MTV Dược TW3
106 p | 5 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Ứng dụng mô hình IDIC nhằm hoàn thiện công tác quản trị quan hệ khách hàng cá nhân tại BIDV chi nhánh Đà Nẵng
105 p | 7 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp thu hút khách du lịch tàu biển đến Đà Nẵng của Công ty Lữ Hành Vitours
158 p | 7 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Hoạch định chiến lược phát triển thị trường cá cơm nội địa của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Xuất nhập khẩu Kiên Giang
106 p | 7 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Hoàn thiện công tác đào tạo nhân viên kinh doanh tại Công ty Điện lực Kiên Giang
128 p | 5 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Hoàn thiện công tác quản trị quan hệ khách hàng tại Công ty Dịch vụ Mobifone khu vực 3
126 p | 6 | 1
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Vận dụng phương pháp trả lương theo mô hình 3P tại Công ty cổ phần Eurowindow
122 p | 5 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn