intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Quốc tế học: Chính sách đối ngoại của Liên Bang Nga đối với khu vực Đông Á (giai đoạn từ 1991 đến nay)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:122

35
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là phân tích, làm rõ thực chất quá trình hình thành, vận động và thực hiện chính sách đối ngoại của Nga đối với Đông Á, cụ thể là với từng nước thuộc khu vực và các vấn đề chung của khu vực, từ năm 1991 đến nay. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quốc tế học: Chính sách đối ngoại của Liên Bang Nga đối với khu vực Đông Á (giai đoạn từ 1991 đến nay)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------------- VŨ THỤY TRANG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA LIÊN BANG NGA ĐỐI VỚI KHU VỰC ĐÔNG Á (GIAI ĐOẠN TỪ 1991 ĐẾN NAY) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH QUỐC TẾ HỌC Hà Nội – 2007
  2. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 1. Tính cấp thiết của đề tài 3 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 5 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài 8 4. Phương pháp nghiên cứu và đóng góp của luận văn 9 5. Kết cấu luận văn 9 Chương 1: Cơ sở hình thành chính sách đối ngoại của của Liên bang 10 Nga đối với khu vực Đông Á từ năm 1991 đến nay 1.1. Bối cảnh quốc tế 12 1.2. Bối cảnh khu vực 16 1.3. Bối cảnh trong nước 20 1.4. Sự chuyển hướng trong chính sách đối ngoại từ “định hướng Đại 26 Tây Dương” đến “định hướng Âu - Á” Chương 2: Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga đối với khu vực 31 Đông Á từ năm 1991 đến nay 2.1. Chính sách đối ngoại của Nga đối với Trung Quốc 31 2.2. Chính sách đối ngoại của Nga đối với Nhật Bản 41 2.3. Chính sách đối ngoại của Nga đối với Bán đảo Triều Tiên 51 2.4. Chính sách đối ngoại của Nga đối với ASEAN 58 2.5. Quan điểm của Nga về một số vấn đề của khu vực 65 2.5.1 Quan điểm của Nga về vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều 65 Tiên 2.5.2. Quan điểm của Nga về xây dựng Cộng đồng Đông Á 69 2.5.3. Quan điểm của Nga về vấn đề biển Đông 71 1
  3. Chương 3: Đánh giá kết quả thực hiện chính sách đối ngoại của Liên 74 bang Nga đối với khu vực Đông Á 3.1. Kết quả thực hiện 74 3.1.1. Thành tựu 74 3.1.2. Hạn chế 79 3.2. Tác động của chính sách Đông Á của Nga đối với một số nước 83 3.3. Triển vọng hợp tác của Nga ở Đông Á 86 3.4. Vị thế của Việt Nam trong chính sách Đông Á của Nga 89 KẾT LUẬN 95 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 2
  4. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thế kỷ XX đi qua đánh dấu nhiều sự kiện trọng đại trong quan hệ quốc tế, một trong những sự kiện đó là sự ra đời và tan rã của Liên bang Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết (gọi tắt là Liên Xô). Liên Xô tan rã tác động không nhỏ đến sự thay đổi tương quan lực lượng trên thế giới, đồng thời tạo nên những chuyển biến nhanh chóng trong đời sống quan hệ quốc tế của các nước cũng như các khu vực trên phạm vi toàn cầu. Trật tự thế giới hai cực đối đầu tồn tại gần nửa thế kỷ kết thúc, cục diện thế giới và cấu trúc quyền lực quốc tế đang được sắp xếp lại. Quan hệ giữa các quốc gia dân tộc không còn bị chi phối nặng nề bởi ý thức hệ, thay vào đó là lợi ích dân tộc được đặt lên hàng đầu trong quan hệ quốc tế. So sánh lực lượng trên bình diện toàn cầu từ chỗ cân bằng giữa hai hệ thống chính trị – xã hội đối lập nay chuyển sang hướng có lợi cho Mỹ và phương Tây. Trong bối cảnh nhiều biến động ấy, Đông Á hiện hữu trên bàn cờ chính trị quốc tế với nhiều bình diện và khía cạnh khác nhau. Cho đến nay đã có rất nhiều ý kiến về cách xác định khuôn khổ Đông Á xét từ các tiêu chí khu vực địa – văn hoá, địa – lịch sử – văn hoá. Đó là, có thể coi Đông Á bao gồm Đông Bắc Á và Đông Nam Á, hoặc coi Đông Á chính là Đông Nam Á. Ngoài ra còn cách gọi Đông Á bao gồm cả Nam Á nhưng không phổ biến [32, tr.31]. Đông Á, theo cách hiểu khác là vùng bờ phía Tây của Thái Bình Dương, trải dài từ vùng Trucốtca của Nga ở phía Bắc tới Singapore ở phía Nam [63, tr.208]. Tuy nhiên, Đông Á trong bài luận văn này được nhận thức như một khu vực địa – chính trị bao gồm Nhật Bản, bán đảo Triều Tiên, Trung Quốc và các nước Đông Nam Á. Là khu vực rộng lớn, giàu có về tài nguyên thiên nhiên, bao gồm các nước có nền kinh tế phát triển năng động nhất hiện nay như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), lại chiếm giữ một vị trí địa – chính trị, địa - kinh tế chiến lược, Đông Á đang ngày càng trở thành một 3
  5. trong những khu vực có tầm ảnh hưởng trên bản đồ chính trị thế giới đương đại. Cùng với Bắc Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Đông Á đã phát triển nhanh thành một trong ba trụ cột kinh tế thế giới. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, Đông Á là một khu vực kinh tế năng động nhất trên thế giới trong suốt ba thập kỷ qua. Trong giai đoạn 1980-2003, GDP của khu vực Đông Á đạt tốc độ tăng trung bình 7%/năm, cao hơn hẳn tốc độ trung bình của các khu vực khác trong nền kinh tế thế giới [32, tr.44]. Qua đây, chúng ta có thể thấy được vị trí và vai trò không thể thiếu của Đông Á trong quan hệ quốc tế nói chung, cũng như trong việc hoạch định chính sách đối ngoại của các quốc gia nói riêng. Khi chiến tranh lạnh kết thúc, các cường quốc có lợi ích nhiều mặt ở Đông Á đều khẩn trương điều chỉnh chính sách để bước vào cuộc cạnh tranh xác lập vị thế mới có lợi hơn trong khu vực. Bước lên vũ đài quốc tế với tư cách là một quốc gia độc lập, được thừa kế các mối quan hệ của Liên Xô trước đây, nên Liên bang Nga có đầy đủ cơ sở và điều kiện khách quan để củng cố ảnh hưởng của mình với Đông Á. Tuy vậy, những khó khăn trong nước và chính sách đối ngoại hướng về phương Tây ở giai đoạn đầu đã làm cho vị thế cường quốc của Nga bị giảm sút đáng kể trên thế giới nói chung và Đông Á nói riêng. Chính điều này đã thức tỉnh bản sắc Á - Âu cùng với tâm thức nước lớn của Liên bang Nga, buộc nước Nga phải có những điều chỉnh thích hợp trong chính sách đối ngoại nhằm từng bước nâng cao vai trò cũng như tiếng nói trong khu vực Đông Á. Trong bối cảnh đó, tiến hành nghiên cứu “chính sách đối ngoại của Liên bang Nga đối với Đông Á từ năm 1991 đến nay” là việc làm cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn đối với Việt Nam. Trước tiên, nó sẽ góp phần nhận thức đúng đắn những thay đổi trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga qua các thời kỳ với các nước thuộc khu vực Đông Á cũng như quan điểm của Nga về các vấn đề chung của khu vực như vấn đề hạt nhân trên bán đảo 4
  6. Triều Tiên, vấn đề biển Đông hay sự ra đời của cộng đồng Đông Á trong tương lai. Việt Nam lại là một nước thuộc Đông Á nên chịu ảnh hưởng trực tiếp từ chính sách đối ngoại của Nga đối với khu vực này. Ngay từ khi chiến tranh lạnh chưa kết thúc, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới, trước tiên là đổi mới kinh tế. Trên cơ sỏ đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam từng bước thực hiện đổi mới tư duy đối ngoại, xây dựng chính sách đối ngoại rộng mở, tích cực, độc lập tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế với mục tiêu hàng đầu là tạo lập môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp phát triển đất nước. Cũng giống như nhiều nước, Việt Nam đặc biệt chú trọng đến các nước lớn, trong đó có nước Nga, trong việc hoạch định chính sách đối ngoại của mình. Việt Nam xác định, khai thác “nhân tố Nga” là để cân bằng quan hệ với các nước lớn trong khu vực như Trung Quốc, Nhật Bản cũng như phục vụ cho quá trình hội nhập của Việt Nam vào khu vực, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng đất nước. Với những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài: “Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga đối với khu vực Đông Á (giai đoạn từ 1991 đến nay)” cho luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài “Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga đối với khu vực Đông Á (giai đoạn từ 1991 đến nay)” là đề tài còn khá mới mẻ đối với Việt Nam. Từ khi Liên bang Nga điều chỉnh chính sách đối ngoại, chuyển từ định hướng Đại Tây Dương sang định hướng Âu - Á và ngày càng tham gia tích cực vào đời sống chính trị, an ninh, kinh tế thế giới nói chung và khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói riêng, trong đó có khu vực Đông Á, thì sự quan tâm của các học giả đến chính sách đối ngoại của Nga đối với Đông Á ngày càng gia tăng. Những bài 5
  7. viết liên quan đến toàn bộ hay một góc độ nào đó của vấn đề này được đăng tải trên các ấn phẩm cập nhật và định kỳ như: Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, Nghiên cứu Quốc tế, Nghiên cứu Trung Quốc, Nghiên cứu Đông Bắc Á, Nghiên cứu Đông Nam Á (tiếng Việt) hay Những vấn đề Viễn Đông, Á - Phi ngày nay (tiếng Nga). Các tác giả Nga, trên cơ sở phân tích vị trí chiến lược của Đông Á và ảnh hưởng của Nga tại đây, đều luận giải về sự cần thiết phải chú trọng đến khu vực này. Họ chỉ ra rằng Đông Á là một bộ phận không thể tách rời trong chiến lược đối ngoại hướng đông của Nga. Do vậy, chính sách đối ngoại của Liên bang Nga đối với Đông Á được nhìn nhận như một phần của quá trình tái lập ảnh hưởng về chính trị và an ninh, hội nhập của nước Nga với khu vực và thế giới. Ở Việt Nam, việc nghiên cứu “chính sách đối ngoại của Nga đối với Đông Á từ năm 1991 đến nay” thực sự mới ở giai đoạn đầu. Số lượng công trình nghiên cứu dưới dạng các đề tài khoa học hoặc bài viết về chủ đề này còn rất hạn chế. Có nhiều bài viết đăng trên tạp chí Nghiên cứu châu Âu của Việt Nam như Chiến lược đối ngoại của nước Nga thời kỳ tổng thống Putin của tác giả Hồ Châu số 3 - 2001, Những xu hướng khác nhau trong chính sách đối ngoại của Nga và Mỹ thời gian gần đây của tác giả Phạm Văn Dân, Phạm Thị Phúc số 6 - 2001, Tổng thống Putin và chính sách ngoại giao, an ninh của Liên bang Nga của tác giả Nguyễn Thanh Hiền số 3 – 2003, Sự điều chỉnh chính sách của Liên bang Nga với các nước Đông Bắc Á sau chiến tranh lạnh của Trần Hiệp số 3 - 2006 hay trên tạp chí Àỗốÿ ố Àụðốờà cồóợọớÿ của Nga như éợủủốÿ – ÀẹÅÀÍ úờðồùởồớốồ ủợũðúọớốữồủũõà - ậ.Âàủốởỹồõ, ạ 11 – 2004; éợủủốÿ õ Àỗốố ố Àỗốÿ õ éợủủốố - ẩóợðỹ ẩõàớợõ, ạ 1 – 2004; ấốũàộ, òùợởớốÿ, ấợðồÿ ố ọðúóốồ ủũðàớỷ Âợủũợữớợộ Àỗốố, ạ 11 – 2004; éợủủốộủờốồ ốớũồðồủỷ õ Àềé - è. ềốũàðồớờợ, ạ 4 – 2005; éợủủốÿ õ ẹồõồðợ-Âợủũợữớợộ Àỗốố - Ã. ìúụðốớ, ạ 3 – 2003,… và một số cuốn sách như Nước Nga trước thềm thế kỷ XXI của Vadim 6
  8. Makarenko xuất bản năm 2002, Quan hệ Việt - Nga trong bối cảnh quốc tế mới của Võ Đại Lược và Lê Bộ Lĩnh xuất bản năm 2005, Nước Nga trên trường quốc tế: hôm qua, hôm nay và ngày mai của Hà Mỹ Hương xuất bản năm 2006, hay mới đây nhất là cuốn Quan hệ Nga - ASEAN trong bối cảnh quốc tế mới của Nguyễn Quang Thuấn xuất bản năm 2007, được coi là những nỗ lực của các học giả Việt Nam cũng như học giả Nga nhằm phác hoạ các bước chuyển động trong chính sách đối ngoại của Nga đối với các nước thuộc khu vực Đông Á trong tình hình thế giới có nhiều biến đổi như hiện nay. Có thể nói, tuy có khác nhau về quy mô công trình, phạm vi nghiên cứu, nhưng các nhà khoa học đều thống nhất ở những điểm sau: * Đông Á ngày càng đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của thế giới thời kỳ sau chiến tranh lạnh. * Xuất phát từ đặc điểm trên, các nước lớn đều điều chỉnh chính sách khu vực của mình, nhằm mở rộng ảnh hưởng, giành lấy vai trò chi phối khu vực. Các tác giả khẳng định, nước Nga đang tăng cường vai trò ở khu vực, nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện chính sách đối ngoại của Liên bang Nga đối với Đông Á. Các công trình được công bố chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc nêu lên thực trạng quan hệ giữa nước Nga với từng nước thuộc Đông Á, chứ chưa nâng lên tầm khái quát, có tính hệ thống chính sách đối ngoại của nước Nga đối với toàn khu vực cùng với sự đánh giá, phân tích trong chiều sâu bản chất của vấn đề. Tình hình nghiên cứu những vấn đề liên quan đến đề tài ở nước ngoài cũng như ở Việt Nam cho thấy “Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga đối với khu vực Đông Á (giai đoạn từ 1991 đến nay)” rất cần thiết phải tiếp tục được nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống và sâu sắc hơn. Hy vọng rằng luận văn sẽ đóng góp một phần nhỏ bé vào việc tìm hiểu chính sách đối ngoại của Nga đối với khu vực Đông Á. 7
  9. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài Mục đích của luận văn là phân tích, làm rõ thực chất quá trình hình thành, vận động và thực hiện chính sách đối ngoại của Nga đối với Đông Á, cụ thể là với từng nước thuộc khu vực và các vấn đề chung của khu vực, từ năm 1991 đến nay. Để đạt được mục đích đó, luận văn giải quyết những vấn đề cơ bản sau: - Trình bày khái quát bối cảnh quốc tế, khu vực Đông Á và tình hình nước Nga từ năm 1991 đến nay, từ đó làm rõ tầm quan trọng của khu vực Đông Á đối với quốc gia này trong việc hoạch định chính sách đối ngoại. - Nghiên cứu, phân tích chính sách đối ngoại của Liên bang Nga đối với một số nước lớn thuộc khu vực Đông Á và tác động của chính sách đó đến quan hệ giữa Liên bang Nga với các quốc gia đó. - Phân tích quan điểm của Nga với một số vấn đề chung thuộc khu vực. - Đánh giá kết quả thực hiện chính sách Đông Á của Nga. - Nhận định về triển vọng quan hệ Nga - Đông Á. - Xem xét và đánh giá vị thế của Việt Nam trong chính sách đối ngoại của Nga. Về giới hạn nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu chính sách đối ngoại của Nga đối với một số nước thuộc khu vực Đông Bắc Á và với tổ chức ASEAN từ năm 1991 đến nay. Về nội dung, luận văn dành một phần vừa đủ phân tích cơ sở hình thành chính sách đối ngoại của Nga đối với Đông Á (bao gồm tình hình thế giới, khu vực và tình hình nước Nga) và phần trọng tâm sẽ trả lời các câu hỏi như chính sách đối ngoại của Nga đối với một số nước thuộc khu vực Đông Á như thế nào, quan điểm của Nga về một số vấn đề thuộc khu vực ra sao và Việt Nam có vị trí như thế nào trong chính sách đối ngoại của Nga. 4. Phương pháp nghiên cứu và đóng góp của luận văn Vì đối tượng nghiên cứu của luận văn là một vấn đề lịch sử nên việc bám sát các quan điểm đánh giá tình hình quốc tế và khu vực của Đảng ta trong các văn 8
  10. kiện đại hội, coi đây là nguồn cung cấp các căn cứ lý luận, định hướng cho tư tưởng trong quá trình nghiên cứu đề tài. Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng một cách tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, tiếp cận phù hợp với các vấn đề lịch sử chính trị quốc tế trong đó, phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lô gíc là chủ yếu. Các phương pháp khác như phương pháp tổng hợp, lôgíc, thống kê… được sử dụng với mức độ khác nhau hỗ trợ cho phương pháp chủ yếu nêu trên. Dựa vào nguồn tài liệu trong nước và tài liệu bằng tiếng Nga, luận văn góp phần luận giải và làm sáng tỏ thêm đường lối đối ngoại của Liên bang Nga đối với khu vực Đông Á nói chung, trên cơ sở đó đóng góp một cái nhìn khách quan về vị thế của Việt Nam trong chính sách đối ngoại ấy. 5. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có kết cấu ba chương, cụ thể như sau: Chương 1: Cơ sở hình thành chính sách đối ngoại của Liên bang Nga đối với khu vực Đông Á từ năm 1991 đến nay Chương 2: Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga Nga đối với khu vực Đông Á từ năm 1991 đến nay Chương 3: Đánh giá kết quả thực hiện chính sách đối ngoại của Liên bang Nga đối với khu vực Đông Á 9
  11. Chương 1: Cơ sở hình thành chính sách Đông Á của Liên bang Nga từ năm 1991 đến nay Chiến lược đối ngoại của các nước, trong đó có nước Nga, đều xuất phát từ những tiêu chí “chủ quan” nền tảng mang tính phổ biến sau: Có thể nói, lợi ích quốc gia, dân tộc là điểm xuất phát và là căn cứ chủ yếu nhất của chiến lược đối ngoại của tất cả các nước trên thế giới, trong đó có nước Nga. Chiến lược đối ngoại của Nga phải phản ánh được lợi ích của nước Nga trên trường quốc tế đồng thời là công cụ để bảo vệ lợi ích đó. Lợi ích dân tộc vừa là điểm xuất phát vừa là mục tiêu chiến lược của Nga. Mục tiêu cao nhất của đường lối đối ngoại của Nga là bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội và các cá nhân. Bao trùm tất cả là bảo vệ vững chắc an ninh của đất nước, giữ gìn và củng cố chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vị trí bền vững và có uy tín của nước Nga trong cộng đồng thế giới, đáp ứng lợi ích của Liên bang Nga với tư cách là một cường quốc, một trong những trung tâm có ảnh hưởng của thế giới hiện đại, cần thiết cho sự phát triển tiềm năng chính trị, kinh tế, trí tuệ và tinh thần của Liên bang Nga. Hình thành một vành đai láng giềng thân thiện xung quanh biên giới nước Nga, tác động để xoá bỏ và ngăn chặn việc nảy sinh những nguy cơ tiềm ẩn và các cuộc xung đột ở khu vực gần kề biên giới Nga. Nga cho rằng, chiến lược đối ngoại phải là huy động và phối hợp mọi nguồn lực quốc gia, mọi điều kiện khách quan bên trong và bên ngoài để bảo vệ lợi ích quốc gia. Liên bang Nga hướng tới việc bảo vệ địa vị nước lớn tương xứng với thế và lực của mình trên vũ đài chính trị thế giới. Để nước Nga đạt được những mục tiêu trên, trong 10 năm qua, quốc gia này đã liên tục điều chỉnh chính sách đối ngoại cho phù hợp với diễn biến của tình hình quốc tế, dựa trên nền tảng tư tưởng quốc gia, yêu nước, đặt lợi ích quốc gia 10
  12. dân tộc lên trên hết, bỏ qua những yếu tố hệ tư tưởng đóng vai trò quyết định trong giai đoạn chiến tranh lạnh trước đây. Chiến lược đối ngoại xuất phát trực tiếp từ tình hình quốc nội, thực lực quốc gia và đường lối đối nội của giới cầm quyền ở Nga. Xét một cách sâu xa, tình hình nội tại là cơ sở quan trọng hàng đầu có ý nghĩa đối với chiến lược đối ngoại của nước Nga. Chiến lược đối ngoại của Nga bao giờ cũng hướng vào việc giải quyết những vấn đề kinh tế, xã hội và chính trị trong nước, đặc biệt là những vấn đề cơ bản nhất, bức xúc nhất của quốc gia. Có thể nói, chiến lược đối ngoại của Liên bang Nga có những nét chung với chiến lược đối ngoại của Liên Xô trước đây, song hai chiến lược có những khác biệt về chất. Hiện nay, trong lĩnh vực đối ngoại, nước Nga đang tìm mọi cách để tái phục hồi vai trò cường quốc của mình, tiến tới địa vị siêu cường như Liên Xô trước đây, nhất là phấn đấu cho một thế giới đa cực mà Nga là một cực quan trọng. Tóm lại, trên cơ sở xác định địa vị và lợi ích quốc gia làm trọng tâm, tình hình trong nước và thực lực quốc gia dân tộc làm điều kiện tiên quyết trong quá trình hoạch định chiến lược đối ngoại của mình, nước Nga đã dần hình thành cho mình hướng đi riêng nhằm tìm lại ảnh hưởng của mình trong các vấn đề quốc tế cũng như là nâng cao vị thế nước lớn trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động như hiện nay. Bên cạnh các tiêu chí chủ quan trên, chính sách đối ngoại của Nga đối với Đông Á từ 1991 đến nay còn được xây dựng dựa trên bối cảnh quốc tế, khu vực Đông Á, cũng như tình hình bên trong nước Nga, coi đó là những cơ sở quan trọng giúp nước này đề ra những phương hướng đối ngoại đúng đắn, đáp ứng lợi ích quốc gia và dân tộc. 11
  13. 1.1. Bối cảnh quốc tế Tình hình thế giới những năm cuối thế kỷ XX có nhiều diễn biến phức tạp và chứa đựng nhiều yếu tố khó lường. Thế giới xuất hiện những đặc điểm mới đòi hỏi nước Nga trên con đường phát triển, hội nhập phải kịp thời nắm bắt để hoạch định chính sách đối ngoại đúng đắn của mình. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, đặc biệt là sự kiện Liên Xô tan rã, đã tác động mạnh mẽ đến sự thay đổi cục diện thế giới và quan hệ quốc tế từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Thế giới diễn ra những thay đổi có tính chất đan xen, phức tạp. Trước tiên, trên bình diện an ninh - chính trị, xu thế hoà bình, ổn định, đối thoại và hợp tác vì sự tiến bộ và phát triển vẫn chiếm ưu thế trong các quan hệ quốc tế. Khi chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới không còn sự đối đầu giữa hai cực đối lập là Mỹ và Liên Xô. Cùng với sự chi phối của toàn cầu hoá (TCH), khu vực hoá (KVH) và sự hình thành thị trường thế giới thống nhất như một chỉnh thể dưới tác động của cuộc cách mạng công nghệ mới, kinh tế trở thành trọng tâm trong chiến lược phát triển của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Các nước nằm trong thế tương thuộc lẫn nhau, quy định và chi phối nhau cho nên sự phát triển của nền kinh tế nước này là điều kiện cho sự phát triển của nền kinh tế nước khác. Theo đó, sự bất ổn ở một nước nào đó về chính trị, kinh tế, an ninh, môi trường sẽ hiển nhiên là mối lo chung của toàn nhân loại. Chính bởi thế, hầu hết những nước lớn cũng như nước nhỏ đều có những điều chỉnh chiến lược trong các mối quan hệ quốc tế. Tuy rằng thế giới vẫn tồn tại những nguy cơ gây mất ổn định, song xu hướng hoà bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu hướng chính, bởi nó đáp ứng nguyện vọng của tất thảy các quốc gia từ giàu có đến chậm phát triển trong cộng đồng thế giới, đặc biệt là đối với Liên bang Nga trong bối cảnh “hậu Xô Viết”. 12
  14. Cuộc đối đầu Đông - Tây bị triệt tiêu, chiến tranh lạnh và trật tự quốc tế hai cực không còn cơ sở để tồn tại. Tương quan lực lượng thế giới và cơ cấu địa chính trị toàn cầu hoàn toàn bị đảo lộn. Chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào. Chủ nghĩa tư bản đứng đầu là Mỹ lợi dụng ưu thế trong so sánh lực lượng đẩy mạnh âm mưu thao túng thế giới trong quỹ đạo của mình. Thế giới từ trạng thái đối đầu lưỡng cực chuyển sang hình thành kết cấu đa trung tâm với sức mạnh vượt trội về mọi mặt của Mỹ. Là cực duy nhất còn lại, nên Mỹ ra sức củng cố vị trí siêu cường của mình nhằm mưu đồ chi phối và bá chủ thế giới. Mỹ không muốn thế giới phát triển theo chiều hướng đa cực, mà ra sức điều chỉnh chính sách đối nội và đặc biệt là chính sách đối ngoại: tăng cường năng lực cạnh tranh, xây dựng trật tự thế giới mới do Mỹ đứng đầu làm cho sự thay đổi của thế giới đi theo quỹ đạo có lợi cho Mỹ. Có thể nhận thấy chiến lược toàn cầu của Mỹ sau chiến tranh lạnh là một tổng thể liên kết nhiều trọng điểm, nó không tuyệt đối một khu vực ảnh hưởng nào trên thế giới, mà tham vọng mở rộng từ Âu sang Á với thế gọng kìm. Sau sự kiện 11-9-2001, Mỹ đã phát động cuộc chiến tranh chống khủng bố do Mỹ đứng đầu, có nguy cơ lan rộng khắp thế giới - là cái cớ để Mỹ thực hiện, duy trì địa vị bá quyền duy nhất của mình trong thế kỷ XXI. Bên cạnh một siêu cường - nước Mỹ, là sự ổn định và đẩy mạnh liên kết của Liên minh châu Âu (EU), là một Đông Á đang nổi lên với một Nhật Bản phục hồi và trỗi dậy sau hơn hai thập kỷ suy thoái kéo dài, với một Trung Quốc, Hàn Quốc phát triển như vũ bão, với một ASEAN tương đối ổn định về chính trị và phát triển bền vững về kinh tế thời gian qua trên vũ đài chính trị quốc tế. Có thể nói, thế giới đang và sẽ phát triển theo hướng đa cực hoá, và xu hướng này sẽ vẫn có khả năng được duy trì trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, nhưng vị trí của Mỹ sẽ dần yếu đi và vị trí của các cường quốc khác ngày càng tăng lên. Các trung tâm và cường quốc kinh tế khác sẽ tiếp tục tìm mọi cách 13
  15. để phát huy các ưu thế của mình để đủ sức cạnh tranh với Mỹ. Đây cũng chính là nhiệm vụ của nước Nga trước những biến đổi chung của thời đại. Trong khi trên thế giới có những đảo lộn về chính trị, chế độ xã hội, chế độ kinh tế thì lực lượng sản xuất của loài người vẫn không ngừng phát triển, cách mạng khoa học công nghệ vẫn diễn ra mạnh mẽ, liên tục. Thế kỷ XX chứng kiến sự ra đời của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, trong đó có những bước phát triển đột phá và nhảy vọt của điện tử, tin học mạng Internet trong lĩnh vực công nghệ thông tin, sự đột biến về gen trong công nghệ sinh học, thành tựu của công nghệ vật liệu mới, tạo tiền đề vật chất cho việc chuyển đổi nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Một làn sóng lớn về khoa học và công nghệ với những ứng dụng vô tận của nó đang chi phối hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội con người như năng lượng, môi trường, nông nghiệp và thực phẩm, truyền thông, các dịch vụ thông tin, chế tạo cơ khí, người máy, vật liệu, y học, giao thông vận tải. Những tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đến toàn bộ đời sống xã hội loài người đã và đang khiến cho nhiều quốc gia trên thế giới khẩn trương hoạch định những chiến lược phát triển khoa học công nghệ, coi đây là chìa khoá cho sự phát triển và cạnh tranh của nền kinh tế trong tương lai. Và nước Nga không phải là ngoại lệ. Bên cạnh đó, cách mạng khoa học và công nghệ trở thành tác nhân chủ yếu thúc đẩy nhanh chóng quốc tế hoá sản xuất, làm xuất hiện những hình thức chuyên môn hoá cao gắn liền với những hình thức hợp tác đa dạng đang vượt qua khuôn khổ biên giới quốc gia. Quá trình quốc tế hoá về kinh tế thâm nhập vào mọi khu vực thế giới làm nảy sinh xu thế nhất thể hoá kinh tế toàn cầu, xu thế TCH kinh tế. Theo đó, thế giới đang tiến đến sự thống nhất về thị trường, vốn, lao động, dịch vụ. Mặt khác, tiến trình KVH cũng được thúc đẩy mạnh 14
  16. mẽ với sự hình thành của hàng chục tổ chức hợp tác, liên kết kinh tế và thương mại ở khắp các châu lục. Có thể nói, TCH và KVH là xu hướng khách quan mang tính quy luật của quá trình phát triển xã hội loài người. TCH và KVH đã tạo ra mặt tích cực làm thức tỉnh các quốc gia dân tộc về sự phát triển, về sự hội nhập của mình đối với thế giới hiện đại. Họ tự nhận thấy mình phải làm gì để tồn tại trong một thế giới hội nhập với sức cạnh tranh cùng những thách thức vô cùng quyết liệt. Đồng thời, quá trình này cũng tạo những cơ hội cho các nước học tập kinh nghiệm của nhau để tìm ra cách thức hội nhập nhanh chóng và hiệu quả TCH, KVH chính là quá trình trong đó các chủ thể dân tộc cạnh tranh và hợp tác với nhau để mở rộng khả năng hợp tác, cùng tồn tại và phát triển. Tham gia vào TCH, KVH sẽ tăng tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các dân tộc, lợi ích các dân tộc đan xen nhau, mỗi nước sẽ phải thực hiện lợi ích của mình đồng thời phải tính đến lợi ích của những nước thành viên khác trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi thì mới có thể phát triển bền vững. Xu thế nhất thể hoá kinh tế thế giới và tác động mạnh của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã đưa đến một hệ quả quan trọng nhất cả về tư duy lẫn thực tiễn đối với quá trình hoạch định chính sách của các nước. Đó là sự thừa nhận và chú trọng ưu tiên phát triển kinh tế như mục tiêu chiến lược số một của mỗi quốc gia, trong đó có nước Nga. Hợp tác được coi là cách thức chủ yếu và ổn định là điều kiện không thể thiếu để phát triển đất nước. Tóm lại, trước những thay đổi của tình hình thế giới, hầu hết các nước đều điều chỉnh chiến lược đối ngoại cho phù hợp với tình hình mới. Hoà chung cùng với xu thế thời đại, nước Nga buộc phải nhìn nhận và đánh giá lại con đường phát triển của mình nhằm khôi phục lại vị trí của một cường quốc. Từ đó nước Nga có những lý do để điều chỉnh chiến lược đối ngoại của mình trong quan hệ với các nước trên thế giới nói chung cũng như với khu vực mà Nga có nhiều lợi 15
  17. ích và ảnh hưởng - khu vực Đông Á nói riêng. Sự điều chỉnh đó không nằm ngoài mục đích mở rộng quan hệ nhằm phát huy ảnh hưởng, giành giật lợi ích về mọi mặt và tạo lập một vị thế có lợi nhất trong quá trình hình thành trật tự thế giớimới. 1.2. Bối cảnh khu vực Bối cảnh quốc tế đầy ắp những sự kiện trọng đại và phức tạp sau chiến tranh lạnh, cùng với những tác động nhiều chiều của nó đã ảnh hưởng đến cục diện chính trị và quan hệ quốc tế ở Đông Á. Thế giới đang đổi thay, các nước bị cuốn vào xu thế chung của sự hội nhập. Trong thời kỳ chuyển giao đó, Đông Á được biết đến là một khu vực phát triển năng động, đặc biệt là về kinh tế trong những thập kỷ gần đây. Trước tiên phải kể đến “sự thần kỳ Nhật Bản”, quốc gia bại trận trong thế chiến II, đã đứng dậy từ đống đổ nát, hoang tàn và trở thành siêu cường kinh tế thứ hai thế giới. Tiếp đó là những “con rồng” Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore đã cất cánh vươn lên chỉ trong vòng 30 năm, là nước Trung Hoa rộng lớn, đông dân nhất đã lập nên kỳ tích kinh tế, liên tục tăng trưởng với tốc độ cao, là sự phát triển nhanh chóng của ASEAN được xem như một tổ chức liên minh khu vực thành công nhất của các nước đang phát triển. Đông Á như một “đàn sếu bay” với Nhật Bản là con chim đầu đàn, đã khiến nhiều người trên thế giới cho rằng “thế kỷ XXI là thế kỷ của châu Á”, trong đó Đông Á chắc sẽ là hàng đầu [17, tr.88]. Sở dĩ có nhận định như thế là vì nền kinh tế khu vực này liên tục phát triển với tốc độ cao và ít chịu ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thế giới. Từ đầu những năm 90, khi nền kinh tế thế giới lâm vào suy thoái hoặc phục hồi chậm thì nền kinh tế của phần lớn các nước Đông Á vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao. Tính đến thờí điểm trước khi diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997, các nước Đông Á (trừ Nhật Bản) đạt tốc độ tăng trưởng trung bình 16
  18. 7%/năm. Tỷ trọng tổng sản phẩm xã hội của Đông Á ngày một tăng lên. Nếu 30 năm trước đây, giá trị tổng sản phẩm quốc dân của các nước Đông Á mới chỉ bằng 1/2 Mỹ, 1/3 Tây Âu thì đầu những năm 90 đã tăng lên đáng kể bằng 70% của Mỹ, 2/3 EU. Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), năm 2010 GDP của các nước Đông Á sẽ chiếm 1/3 GDP toàn cầu và vượt cả Mỹ lẫn Tây Âu [45, tr.73]. Có rất nhiều nguyên nhân đưa đến sự thành công vượt bậc của khu vực này, trong đó hợp tác vì sự phồn thịnh chung của mỗi một nước cũng như của cả khu vực được coi như là chìa khoá của những thành tựu nổi bật đó. Điều có thể dễ dàng nhận thấy là bất luận sự khác nhau về trình độ phát triển, thì hợp tác khu vực đều được lựa chọn và ưu tiên trong chiến lược phát triển của các nước thuộc khu vực này. Với bản lĩnh vững vàng, các nước trong khu vực đã vươn tới, trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - chính trị quan trọng của thế giới (cùng với Tây Âu và Bắc Mỹ). Đông Á là một khu vực có lãnh thổ rộng lớn, dân số đông và tài nguyên giàu có. Các quốc gia trong khu vực này đang ở trong những giai đoạn khác nhau của sự phát triển kinh tế cùng với những nét đa dạng trong hệ thống chính trị, các đặc trưng dân tộc và truyền thống văn hoá. Mặc dù còn tồn tại một số vấn đề như nhiều nước trong khu vực vẫn còn đang ở trong tình trạng nghèo nàn và lạc hậu,, trình độ phát triển không đồng đều giữa các quốc gia, sự lệ thuộc quá lớn về vốn và thị trường nước ngoài, song xét về dung lượng thị trường, nguồn lực tài chính và lao động, trình độ công nghệ, tài nguyên, Đông Á vẫn được coi là trung tâm kinh tế thương mại lớn của thế giới. Nếu xét về động lực tăng trưởng, ở Đông Á đang diễn ra những biến động quan trọng trong lĩnh vực kinh tế. Điều đã trở nên hết sức rõ ràng là nơi đây đang diễn ra những cải cách nhằm chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường. Hai nước tiêu biểu cho quá trình đó là Trung Quốc và Việt Nam. 17
  19. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ cũng đã làm thay đổi một cách căn bản các nền kinh tế lạc hậu và phụ thuộc ở khu vực này, cũng như chuyển một số nền kinh tế ở Đông Bắc Á và Đông Nam Á từ chỗ phụ thuộc vào các kỹ thuật du nhập từ phương Tây sang hướng nghiên cứu thích ứng và phát triển các công nghệ từ thị trường trong nước. Thêm vào đó, quá trình chuyển đổi cơ cấu và tự do hoá thương mại đã khiến cho khả năng xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ với số lượng ngày càng tăng và chất lượng ngày càng cao sang các thị trường khác ngoài khu vực. Trong 22 năm kể từ năm 1980 đến năm 2002, quy mô kinh tế của toàn Đông Á (GDP) đã tăng từ 14,4% lên tới 21% của toàn thế giới. Hiện nay quy mô kinh tế của toàn Đông Á đã ngang tầm với Mỹ và Tây Âu [32, tr.20]. Bảng 1: So sánh ba trung tâm kinh tế thế giới Chỉ số so sánh Đông Á EU Bắc Mỹ Dân số (triệu người, 2002) 2014,5 453,3 420,6 GDP (ngàn tỷ USD, 2003) 7,5 11,0 12,3 Tốc độ tăng GDP 1980-2003(%năm) 7,0 5,0 6,0 Tỷ lệ tiết kiệm nội địa (%GDP,2002) 28,8 20,2 15,0 Tỷ lệ đầu tư (%GDP, 2002) 26,5 18,7 37,5 Dự trữ ngoại hối (tỷ USD, 2002) 1177,0 304,4 116,4 Nguồn: [17, tr.45] Từ những biến đổi có tính cách mạng, Đông Á đã tạo nên được những động lực hấp dẫn mới. Điều này không chỉ củng cố tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định mà còn là điều kiện quan trọng để tăng khả năng liên kết và khu vực hoá nền kinh tế giữa các quốc gia trong khu vực. Trong điều kiện các quốc gia, khu vực và thế giới có nhiều biến đổi phức tạp, các nước đều thực hiện chính sách đối ngoại nhằm tìm kiếm các hình thức 18
  20. hợp tác phù hợp và hiệu quả thì Liên bang Nga không thể không có những bước đi của mình nhằm đạt được những lợi ích cao nhất trong quan hệ quốc tế. Với nước Nga, Đông Á là một địa bàn hết sức quan trọng trong chiến lược phát triển, nhất là trong phát triển kinh tế. Vì thế, việc tăng cường tìm hiểu và đề ra chính sách đối ngoại phù hợp với Đông Á là một trong những ưu tiên chiến lược của các nhà lãnh đạo Nga. Đông Á là khu vực bao gồm các nước có nền kinh tế phát triển hàng đầu như Nhật Bản và có một số nước, vùng lãnh thổ đứng vào hàng ngũ các nước công nghiệp phát triển mới (NICs) như Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc và các nước tiến gần đến NIC như Malaysia, Thái Lan, song cũng có nhiều nước đang triển khai công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước như Trung Quốc, Việt Nam. Với kết cấu các nền kinh tế nhiều tầng trong khu vực, Đông Á là nơi lý tưởng để liên bang Nga có thể mở rộng hợp tác và phát huy lợi thế của mình trong phân công lao động quốc tế ở khu vực. Tại đây nước Nga có cơ hội để lựa chọn đối tác, bạn hàng, thị trường, công nghệ thích hợp với từng lĩnh vực kinh tế, với khả năng và nhu cầu của nền kinh tế Nga. Hơn nữa, trong điều kiện không gian kinh tế của Liên Xô trước đây bị phá vỡ, thị trường truyền thống khối Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) không còn, EU với thị trường khó tính và đang thực hiện nhiều quy chế bảo hộ khá chặt chẽ làm cho hàng hoá của Nga khó kiếm được chỗ đứng, thì Đông Á là thị trường lý tưởng cho Nga. Với nền kinh tế năng động, thị trường rộng lớn và đa dạng, nhiều nước có trình độ khoa học và công nghệ tương đồng với Nga, một số nước vốn là bạn hàng truyền thống của Liên Xô trước đây như Trung Quốc, Cộng hoà dân chủ nhân dân (CHDCND) Triều Tiên, ba nước Đông Dương, Đông Á sẽ là khu vực 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0