intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Quốc tế học: Chính sách đối ngoại của Nhật Bản ở Đông Á dưới thời của Thủ tướng Koizumi (2001-2006)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:108

32
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu có cấu trúc gồm 3 chương trình bày cơ sở hình thành chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Đông Á dưới thời Thủ tướng Koizumi (2001-2006); chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Đông Á dưới thời Thủ tướng Koizumi (2001-2006); một số nhận xét về chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Đông Á dưới thời Thủ tướng Koizumi (2001-2006)

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quốc tế học: Chính sách đối ngoại của Nhật Bản ở Đông Á dưới thời của Thủ tướng Koizumi (2001-2006)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------ ĐỖ THỊ THU HÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA NHẬT BẢN Ở ĐÔNG Á DƯỚI THỜI CỦA THỦ TƯỚNG KOIZUMI (2001 - 2006) Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quan hệ quốc tế Mã số: 60.31.40 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Xuân Kháng Hà Nội - 2010
  2. MỤC LỤC MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA NHẬT 6 BẢN ĐỐI VỚI ĐÔNG Á DƢỚI THỜI THỦ TƢỚNG KOIZUMI (2001-2006) 1.1.Bối cảnh trong và ngoài nƣớc 6 1.1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực 6 1.1.2. Tình hình Nhật Bản 9 1.1.3.Vài nét về Thủ tướng J.Koizumi 14 1.2. Chính sách đối ngoại của Nhật Bản 16 1.2.1. Liên minh Nhật - Mỹ vẫn là trụ cột 16 1.2.2. Nâng cao vai trò trên trường quốc tế 18 1.2.3. Tạo lập vị thế chủ đạo ở châu Á 19 CHƢƠNG 2: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA NHẬT BẢN ĐỐI VỚI ĐÔNG Á 21 DƢỚI THỜI THỦ TƢỚNG KOIZUMI (2001-2006) 2.1. Hợp tác song phƣơng 22 2.1.1.Quan hệ Nhật Bản - Trung Quốc 22 2.1.2.Quan hệ Nhật Bản - Hàn Quốc 38 2.1.3. Quan hệ Nhật Bản - CHDCND Triều Tiên 44 2.2. Hợp tác khu vực 53 2.2.1. Quan hệ Nhật Bản - ASEAN 54 2.2.2. Quan hệ Nhật Bản và ASEAN + 3 61 2.2.3. Hợp tác ba bên Nhật Bản - Trung Quốc - Hàn Quốc 65 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA NHẬT 71 BẢN ĐỐI VỚI ĐÔNG Á DƢỚI THỜI THỦ TƢỚNG KOIZUMI (2001-2006) 3.1. Những đặc điểm cơ bản 71 3.2. Những tác động tới thế giới, khu vực và 79 quan hệ Việt Nam - Nhật Bản KẾT LUẬN 86 TÀI LIỆU THAM KHẢO 89 PHỤ LỤC 98
  3. MỞ ĐẦU 1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài Diễn biến tình hình quốc tế và khu vực, trong đó có chính sách đối ngoại của các nước, nhất là các nước lớn, là mối quan tâm của tất cả các quốc gia để từ đó mỗi quốc gia kịp thời điều chỉnh chiến lược đối ngoại của mình nhằm tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc phát triển đất nước. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương (trong đó có Đông Á) được đánh giá là khu vực có mức tăng trưởng nhanh thế giới với ba siêu cường kinh tế Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc. Nhật Bản đóng vai trò một nước lớn không chỉ trong khu vực Đông Á mà ở cả khu vực châu Á - Thái Bình Dương và thế giới. Chính sách đối ngoại của Nhật Bản không chỉ tác động đến quan hệ quốc tế trong khu vực, mà còn tác động đến từng quốc gia Đông Á. Những năm đầu thế kỷ XXI, Junichiro Koizumi nắm quyền lãnh đạo đất nước Nhật Bản. Trong 6 năm cầm quyền, chính sách đối ngoại của ông đã gây sự chú ý lớn cho các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu... Việt Nam là nước thuộc khu vực Đông Á và trong nhiều năm qua Nhật Bản là đối tác kinh tế hàng đầu của Việt Nam. Đặc biệt, quan hệ Việt Nam - Nhật Bản đã được nâng lên thành đối tác chiến lược vào giữa năm 2007. Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng đang từng bước thực hiện đổi mới tư duy đối ngoại, độc lập tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ quốc tế, và hơn hết đang tìm con đường phát triển phù hợp cho đất nước trên bình diện đối ngoại. Do đó, việc tìm hiểu chính sách đối ngoại của các nước hiện nay là rất cần thiết. Nghiên cứu “Chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Đông Á dưới thời Thủ tướng Koizumi (2001 - 2006)" sẽ có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Cho đến nay ở 1
  4. Việt Nam vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu về giai đoạn cầm quyền của J.Koizumi, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho những ai quan tâm đến Nhật Bản, đặc biệt là chính sách đối ngoại của Nhật Bản. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Chính sách đối ngoại hay quan hệ đối ngoại của Nhật Bản là mối quan tâm của rất nhiều học giả Việt Nam. Đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố thành sách như: Chính sách đối ngoại của Nhật Bản thời kỳ sau Chiến tranh lạnh do Ngô Xuân Bình chủ biên, được NXB Khoa học Xã hội phát hành năm 2000; Nhật Bản năm đầu thế kỷ XXI cũng của Ngô Xuân Bình và Hồ Việt Hạnh chủ biên, NXB Khoa học Xã hội phát hành năm 2002; Quan điểm của Nhật Bản về liên kết Đông Á trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế do Trần Quang Minh chủ biên, NXB KHXH xuất bản năm 2007; Quan hệ Trung Quốc - ASEAN - Nhật Bản trong bối cảnh mới và tác động của nó tới Việt Nam của Vũ Văn Hà (ch.b), NXB KHXH, 2007… Bên cạnh đó, chủ đề này cũng được đề cập trong các công trình khác: Chiến lược đối ngoại của các nước lớn và quan hệ với Việt Nam trong thập niên đầu thế kỷ XXI của Nguyễn Xuân Sơn và Nguyễn Văn Du, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2006; Quan hệ quốc tế những năm đầu thế kỷ XXI vấn đề, sự kiện và quan điểm của Trình Mưu - Vũ Quang Vinh (đồng chủ biên), NXB Lý luận chính trị, Hà Nội - 2005. Một số cuộc hội thảo đã được tổ chức bàn thảo về vấn đề này như hội thảo: Nhật Bản trong thế giới Đông Á và Đông Nam Á diễn ra năm 2003 của Khoa Đông Phương học - Đại học KHXH & NV thành phố Hồ Chí Minh; Hội thảo Tìm hiểu chính sách đối ngoại của Nhật Bản sau Chiến tranh lạnh do Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á tổ chức tháng 11/1997. Bên cạnh đó là các bài viết liên quan được đăng tải trên các tạp chí nghiên cứu trong nước: T/ch nghiên cứu Quốc tế, T/ch nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, T/ch nghiên cứu Đông Nam Á, T/ch Nghiên cứu Trung 2
  5. Quốc… như bài viết của tác giả Hồ Châu: “Chiến lược đối ngoại của Nhật Bản trong những thập niên đầu thế kỷ XXI, T/ch nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 2(56) 4/2005; Dương Phú Hiệp: “Sự điều chỉnh chính sách của Nhật Bản sau sự kiện 11/9, Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 4 (40), 8/2002; Ngô Xuân Bình: “Điều chỉnh chính sách đối ngoại của Nhật Bản và tác động tới quan hệ Việt Nam - Nhật Bản”, T/ch chí nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 4(46), 8/2003; Nguyễn Duy Dũng: “Điều chỉnh chính sách đối ngoại của Nhật Bản trong bối cảnh quốc tế mới”, T/ch Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 10/2006; Đinh Thị Hiền Lương: “Một số nét mới trong chính sách của Nhật Bản đối với khu vực Đông Á”, T/ch Nghiên cứu quốc tế số 2(65), 6/2006; Phạm Quý Long: “Liên kết Đông Á trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản: ý tưởng và hành động”, T/ch Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới số 4(4/2007).. . Tham khảo công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài, có thể kể tên một số tác phẩm sau đây: Koizumi diplomacy: Japan's kantei approach to foreign and defense affairs của Omohito Shinoda do University of Washington Press phát hành tại London nă m 2007; Japan's relations with China: facing a rising power của Peng Er Lam, Routledge Publishers, London-2007; Japanese foreign policy today của Takashi Inoguchi và Purnendra Jain, Palgrave Publishers, New York - 2000; Japan's foreign policy since 1945 của, Kevin J. Cooney, M.E. Sharpe Publishers, New York - 2007; Japan's Foreign Policy, 1945-2009: The Quest for a Proactive Policy của Kazuhiko Togo, IDC Publishers, Netherlands - 2010; Japanese foreign policy in Asia and the Pacific của Akitoshi Miyashita và Yoichiro Sato, Palgrave Publishers, New York - 2001; ... Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nói trên tuy khác nhau về quy mô và phạm vi nghiên cứu song thường đề cập thiên về chính sách đối ngoại 3
  6. nói chung của Nhật Bản, trong đó một phần nào đó có đề cập đến khu vực Đông Á, hoặc chủ yếu nêu lên thực trạng quan hệ giữa Nhật Bản với các đối tác. Việc nghiên cứu chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với khu vực Đông Á, nhất là những năm đầu thế kỷ XXI (2001 - 2006) dưới thời Thủ tướng Koizumi là một chủ đề chưa được nghiên cứu riêng. Luận văn sẽ đi sâu tìm hiểu chính sách đối ngoại của Thủ tướng Koizumi trong quan hệ song phương va quan hệ đa phương với một số đối tượng chính trong khu vực Đông Á những năm đầu thế kỷ XXI. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những đánh giá, nhận xét về chính sách đối ngoại của Nhật Bản với toàn bộ khu vực Đông Á thời gian này. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng: Nghiên cứu, phân tích những chính sách, chủ trương, và thực trạng quan hệ của Nhật Bản đối với một số nước trong khu vực Đông Á và với một số khuôn khổ hợp tác trong khu vực Đông Á1. - Phạm vi: khoảng thời gian 2001 - 2006 khi Koizumi nắm quyền Thủ tướng. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng một cách tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, trong đó phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc kết hợp với phương pháp luận quan hệ quốc tế là chủ yếu. Các phương pháp khác như phương pháp đối chiếu, tổng hợp, thống kê... được sử dụng với mức độ khác nhau hỗ trợ cho các phương pháp chủ yếu trên. 5. Cấu trúc của luận văn 1 Trong công trình này, khái niệm Đông Á được dùng theo cách hiểu phổ biến, tức là bao gồm Nhật Bản, bán đảo Triều Tiên, Trung Quốc (gồm cả Đài Loan và Hồng Kông) và 10 nước thành viên ASEAN ở Đông Nam Á. 4
  7. Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, Luận văn gồm 3 chương: Chƣơng 1: Cơ sở hình thành chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Đông Á dưới thời Thủ tướng Koizumi (2001-2006) Chƣơng 2: Chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Đông Á dưới thời Thủ tướng Koizumi (2001-2006) Chƣơng 3: Một số nhận xét về chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Đông Á dưới thời Thủ tướng Koizumi (2001-2006) 5
  8. CHƢƠNG 1 CƠ SỞ HÌNH THÀNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA NHẬT BẢN ĐỐI VỚI ĐÔNG Á DƢỚI THỜI THỦ TƢỚNG KOIZUMI (2001-2006) Chính sách đối ngoại của bất kỳ một quốc gia nào cũng phải được xây dựng trên cơ sở của sự tương tác giữa tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước, khu vực và quốc tế. Trong khoảng thời gian những năm cuối của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI, môi trường trong nước và ngoài nước Nhật Bản có nhiều thay đổi lớn, khiến cho Nhật Bản phải điều chỉnh chính sách đối ngoại cho phù hợp với tình hình mới, nhất là với khu vực Đông Á - một khu vực đặc biệt quan trọng đối với Nhật Bản. 1.1. Bối cảnh trong và ngoài nƣớc 1.1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực Kể từ sau khi kết thúc Chiến tranh lạnh vào đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay, khu vực châu Á - Thái Bình Dương và thế giới nói chung, cũng như khu vực Đông Á nói riêng đã có nhiều biến đổi sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội,… khiến cho hầu hết các quốc gia, lãnh thổ bị cuốn vào dòng chảy hội nhập của xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá, cũng vì vậy, sự liên kết, hợp tác cùng phát triển giữa các quốc gia, lãnh thổ ngày càng gia tăng mạnh mẽ hơn. Thế giới đang chứng kiến sự lớn mạnh của các khối liên kết khu vực như EU, NAFTA, APEC, ASEAN và các tổ chức liên kết khác ở châu Phi và Mỹ Latinh. Chỉ tính riêng liên kết giữa ASEAN với các nước Đông Bắc Á tạo thành ASEAN + 1, ASEAN + 3…cùng với đó là sự hình thành các khu vực thương mại tự do của các khối liên kết đã khiến cho hoạt động kinh tế của nhiều khu vực trên thế giới, trong đó có Đông Á trở nên sôi động hơn bao giờ hết. 6
  9. Từ thế giới hai cực trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, thế giới ngày nay đã trở thành thế giới của nhất siêu (Mỹ) và đa cường. Ngoài các cường quốc cũ như Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức, Nga,… đã nổi lên một cường quốc mới đầy triển vọng, khiến các cường quốc cũ, kể cả Mỹ cũng phải lo ngại - đó là Trung Quốc. Sự sụp đổ của Liên Xô đã làm cho Mỹ, cường quốc số một thế giới trở thành siêu cường duy nhất với sức mạnh vượt trội cả về kinh tế, khoa học - công nghệ và quốc phòng. Với vị thế áp đảo đó đối với thế giới, những năm gần đây Mỹ đã lộ rõ quyết tâm sử dụng sức mạnh vượt trội của mình để giải quyết các vấn đề quốc tế. Chẳng hạn, Mỹ đã phớt lờ vai trò điều phối, can thiệp, và gìn giữ hoà bình thế giới của Liên Hợp Quốc, cũng như sự phản đối của nhiều cường quốc khác, bất chấp dư luận tiến bộ thế giới để tiến hành cuộc xâm lược Iraq (2003). Không những thế, Mỹ còn lợi dụng danh nghĩa phát động cuộc chiến chống khủng bố kể từ sau sự kiện 11/9/2001 để đơn phương đánh đòn phủ đầu, "gây sự" với những quốc gia giàu tài nguyên dầu lửa ở Trung Đông. Chính sách của Mỹ ở khu vực này đã trực tiếp đến tác động đến mối quan hệ Mỹ - Israel,. Cũng từ đó tác động đến trật tự của cả thế giới Ảrập Hồi giáo. Hệ quả là nhiều khu vực trên thế giới, trong đó có Đông Nam Á, một khu vực có số dân theo đạo Hồi đông nhất thế giới, cũng đã trở thành đối tượng quan tâm của Mỹ. Vì vậy đã khiến cho các quốc gia, lãnh thổ, kể cả một số trường hợp thân thiện với Mỹ ở khu vực Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước thành viên ASEAN cũng phải lo ngại về sức mạnh vượt trội cùng với tham vọng "bá chủ thế giới" của " nhất siêu" này. Trong lĩnh vực an ninh - chính trị và quốc phòng ở khu vực Đông Á, hiện tại vẫn đang tiềm ẩn một số mâu thuẫn về tranh chấp lãnh thổ bao gồm cả vùng biển, hải đảo, trong đó vấn đề Đài Loan luôn gây ra sự căng thẳng trong quan hệ giữa Trung Quốc với Mỹ và kể cả với Nhật Bản. Ngoài ra, còn có các mâu thuẫn về tranh chấp lãnh thổ giữa Nhật Bản với Nga, giữa Trung 7
  10. Quốc với Nhật Bản, Việt Nam, Bruney, Philipin, và với Malaysia; mâu thuẫn về một số vấn đề do lịch sử để lại từ hậu quả chiến tranh xâm lược của Nhật Bản hồi thế chiến thứ hai đối với Trung Quốc, Hàn Quốc và một số nước khác ở Đông Nam Á. Vấn đề thống nhất bán đảo Triều Tiên vẫn còn đầy chông gai và thách thức, vì trước mắt cần phải giải quyết ổn thỏa cuộc khủng hoảng hạt nhân ở CHDCND Triều Tiên - vấn đề nan giải nhất đang đe doạ an ninh Đông Á và cả khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện nay. Liên quan đến một số vấn đề chung khác của thế giới, trong đó có khu vực Đông Á, hiện đang đòi hỏi tất cả các quốc gia, lãnh thổ khác nhau phải cùng giải quyết - đó là các vấn đề an ninh môi trường, sinh thái với các những hiểm hoạ thiên tai, dịch bệnh lan tràn như hạn hán, lũ lụt, các bệnh dịch HIV/AIDS, SARS, v.v… Ngoài ra, một vấn đề chung khác và cũng là nguyên nhân khiến cho nhiều quốc gia, lãnh thổ phải xích lại gần nhau hơn nữa (như trên đã phần nào đề cập đến), đó là chủ nghĩa khủng bố đang trở thành hiểm hoạ lớn nhất của thời đại ngày nay đối với hoà bình, an ninh chính trị, kinh tế, xã hội. Ở khu vực Đông Á, đặc biệt là Đông Nam Á, vấn đề này cũng đang rất nan giải trước nguy cơ tiềm ẩn của những mâu thuẫn tôn giáo, sắc tộc, trong đó có một số điểm nóng như Indonesia, Philippin và kể cả Thái Lan… Thực tế cho thấy việc chống lại chủ nghĩa khủng bố không còn là vấn đề quan tâm của riêng quốc gia, lãnh thổ nào mà đã trở thành vấn đề quan tâm chung của cả khu vực và thế giới. Có thể thấy rằng, tình hình quốc tế và khu vực những năm 1990 của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI có những biến đổi sâu sắc: Chiến tranh lạnh kết thúc, sức mạnh kinh tế trở nên quan trọng hơn sức mạnh quân sự, xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa diễn ra phổ biến, sự lớn mạnh của Trung Quốc, những bất ổn về an ninh trên thế giới và khu vực Đông Á... là những 8
  11. yếu tố quan trọng buộc Nhật Bản phải quan tâm khi hoạch định chính sách đối ngoại. 1.1.2. Tình hình Nhật Bản Thực trạng kinh tế, chính trị và xã hội ở Nhật Bản cũng là những cơ sở trọng yếu tạo lập nền tảng cho Nhật Bản điều chỉnh và thực thi chính sách đối ngoại. Sự điều chỉnh trước hết và căn bản là phục vụ nhu cầu nội tại của Nhật Bản. Sau đây chúng ta xem xét một số khía cạnh quan trọng của thực trạng đó ở Nhật Bản dưới góc độ là cơ sở để hoạch định chính sách ngoại giao của Nhật Bản với thế giới nói chung, và với khu vực Đông Á nói riêng. Về kinh tế Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản là nước bại trận khiến cho nền kinh tế bị kiệt quệ và vị thế chính trị bị suy giảm. Sau hai thập kỷ, Nhật Bản đã vươn lên trở thành một cường quốc kinh tế, và là một trong ba trung tâm tài chính lớn nhất thế giới cùng với Mỹ và Liên minh châu Âu (EU). Tuy nhiên, sự phát triển “kỳ diệu” đã chững lại khi nền kinh tế của Nhật Bản bị sút kém một cách đột ngột từ năm 1990 và đình trệ kể từ đó. Nguyên nhân là do sự đổ vỡ của "nền kinh tế bong bóng" vào đầu những năm 1990 đã đẩy Nhật Bản vào tình trạng suy thoái kinh tế nghiêm trọng và kéo dài suốt thập kỷ 1990. Từ năm 1991 đến năm 2000, Tỷ lệ tăng GDP bình quân của Nhật Bản chỉ là 1,38%. Tỷ lệ tăng GDP các năm 2000, 2001 và 2002 tương đương 2,8%, 0,4% và 0,3%[1, Tr.6]. Những ngành kinh tế bị tác động nghiêm trọng nhất là ngân hàng, tài chính và các công ty tín dụng. Trong lúc đang phải trải qua những khó khăn kinh tế dài hạn thì cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á (1997-1998) đã ảnh hưởng không nhỏ đến Nhật Bản bởi Nhật Bản là nền kinh tế lớn nhất trong khu vực. Nhiều nước Châu Á ở trong tình trạng thâm hụt cán cân thương mại với Nhật Bản. Trong thời gian khủng hoảng, đồng yên sụt giá một cách nhanh chóng. Toàn bộ hệ 9
  12. thống tài chính - ngân hàng Nhật Bản bị chao đảo. Năm 1998, giá trị bất động sản lao xuống vực thẳm mất 80% giá trị so với năm 1991. Giá cổ phiếu và bất động sản sụt giảm dẫn đến sự phá sản của hàng loạt công ty, doanh nghiệp Nhật Bản. Giá trị tổng sản lượng quốc gia (GDP) trong suốt thời kỳ kinh tế đình trệ chỉ tăng từ 428.826 tỷ Yên (năm 1990) đến 469.480 tỷ Yên (năm 2000). Đến ngày 18/5/2001, Nhật Bản đã xuất bản cuốn "Sách trắng về thương mại năm 2001" với nhan đề "Đối mặt với những thách thức của thế kỷ XXI về chính sách kinh tế đối ngoại". Cuốn sách này cho thấy thời đại mô hình kinh tế "đàn nhạn bay" của châu Á mà con chim đầu đàn là Nhật Bản đã chấm dứt. Chính tình trạng kinh tế suy thoái sau hơn 1 thập kỷ vẫn chưa có lối thoát là nguyên nhân gây những biến đổi chính trị và bất ổn xã hội ở Nhật Bản. Về chính trị - an ninh Trước khi Koizumi lên nắm quyền, nền chính trị Nhật Bản trong thời gian dài luôn biến động với việc thay đổi liên tục người ở cương vị Thủ tướng. Cuộc bầu cử Hạ viện Nhật Bản năm 1993 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong nền chính trị Nhật Bản thời kỳ sau chiến tranh lạnh. Đó là sự kiện đảng Dân chủ Tự do (DCTD) mất vai trò lãnh đạo sau 38 năm cầm quyền liên tục. Mặc dù dưới sự lãnh đạo của đảng DCTD trong gần 4 thập kỷ nước Nhật đã đạt được những tiến bộ thần kỳ, nhưng hệ thống chính trị đã bộc lộ những khuyết tật lớn dẫn đến tham nhũng chính trị tràn lan, bê bối tài chính liên tục liên quan đến nhiều chính khách, lãnh đạo đất nước. Những hiện tượng này gây bất bình lớn trong dân chúng đòi hỏi ban lãnh đạo Nhật Bản phải có những thay đổi trong cách thức điều hành đất nước. Một vấn đề nổi cộm nữa là việc sửa đổi Hiến pháp. Trong quá trình thực thi Hiến pháp từ năm 1946 đến nay, vấn đề sửa đổi Hiến pháp đã nhiều 10
  13. lần được đặt ra. Có nhiều lý do khiến người Nhật muốn sửa đổi Hiến pháp nhưng trong đó có hai lý do chính: thứ nhất là người Nhật cho rằng bản Hiến pháp này là kết quả áp đặt từ bên ngoài (thực chất tác giả của bản Hiến pháp là người Mỹ); thứ hai là bản Hiến pháp cấm Nhật Bản trở thành một quốc gia bình thường, có lực lượng quân sự riêng. Lý do thứ hai gắn với việc phải sửa đổi điều 9. Nếu điều này được sửa đổi, Nhật Bản sẽ có lực lượng quân đội, sẽ dễ dàng đưa quân ra nước ngoài, phối hợp hành động với Mỹ trong việc thực hiện Hiệp ước an ninh quân sự, tăng cường vai trò của Nhật Bản trong an ninh khu vực. Tuy nhiên, do thủ tục sửa đổi Hiến pháp phức tạp (cần phải có 2/3 số nghị sĩ hai viện thông qua và sau đó phải trưng cầu dân ý và phải được quá 50% số người ủng hộ) và nhiều lý do khác nữa nên cho đến năm 2000, người ta mới có những động thái cụ thể nhằm thực hiện vấn đề này. Tháng 2 năm 2000, Quốc hội Nhật Bản đã thành lập Ủy ban Nghiên cứu Hiến pháp ở cả hai viện gồm 45 Thượng nghị sĩ và 50 Hạ nghị sĩ. Trong cuộc điều tra của tờ báo Nikkei vào tháng 4 năm 2000, khi được hỏi ý kiến về việc sửa đổi Hiến pháp, số người đồng ý chiếm tới 60,5% trong khi số người phản đối chiếm 31,5%. Trong Đảng Tự do và Đảng Bảo Thủ, số người tán thành sửa đổi Hiến pháp là 75,3% và không tán thành là 84,6%, còn Đảng Cộng sản và Đảng Xã hội Dân Chủ phản đối việc làm này[1, Tr.95]. Vấn đề cốt lõi gây tranh cãi nhất xung quanh việc sửa đổi Hiến pháp là điều 9. Sửa đổi điều này có nghĩa là làm cho Nhật Bản trở thành quốc gia bình thường có lực lượng quân sự riêng. Điều này khơi gợi lại nỗi đau của sự thất bại, đồng thời làm tăng thêm suy nghĩ về tính hiếu chiến của Nhật Bản trong con mắt của những nước đã từng bị quân đội Nhật xâm lược. Do đó, nó không chỉ là chủ đề nổi cộm trong nước mà cả ở những nước láng giềng từng bị chiếm đóng trong thời kỳ chiến tranh. 11
  14. Sau sự kiện khủng bố ở Mỹ ngày 11/9/2001, Quốc hội Nhật Bản đã thông qua 3 Luật chống khủng bố 2, cho phép Nhật lần đầu tiên kể từ sau thế chiến thứ hai được cử quân đội ra nước ngoài, hợp tác với Mỹ chống khủng bố.Và Nhật Bản đã sớm cử lực lượng phòng vệ tham gia giúp đỡ hậu cần cho chiến dịch chống khủng bố do Mỹ đứng đầu ở Afghanistan. Sau đó, Nhật Bản tiếp tục đưa 600 binh sĩ sang Irắc thực hiện các hoạt động nhân đạo. Đây là bước chuyển mới trong chính sách quốc phòng của Nhật, từng bước tăng cường và mở rộng phạm vi hoạt động của Lực lượng phòng vệ. Về xã hội Tình trạng thất nghiệp gia tăng với tỷ lệ kỷ lục trên 5% , một tỷ lệ được ghi nhận là tồi tệ nhất trong lịch sử kinh tế Nhật Bản kể từ sau thế chiến thứ hai. So với mức tiêu chuẩn của thế giới thì tỷ lệ này vẫn không phải là cao nhưng đối với Nhật Bản thì đó là con số khổng lồ, bởi tỷ lệ thất nghiệp tại Nhật Bản chưa bao giờ quá mức 2,8% trong thập niên 1980. Nhật Bản vốn tự hào về nền kinh tế mạnh, xã hội ổn định, người dân có đủ công ăn việc làm và thất nghiệp được kiểm soát ở mức độ thấp nhất trong các nước tư bản chủ nghĩa. Nhưng đánh giá như vậy chỉ phù hợp với hình ảnh nước Nhật của thời kỳ tăng trưởng cao. Cùng với tỷ lệ thất nghiệp tăng, số công ăn việc làm mới được tạo ra trong toàn bộ nền kinh tế lại giảm đi. Nếu lấy năm 2000 làm cơ sở thì năm 2001 con số này giảm 1,1%. Lý do có thể tìm thấy là sự cắt giảm 49% nhu cầu tạo công việc mới trong ngành điện máy và có một sự sụt giảm ghê gớm trong ngành cung cấp dịch vụ thông tin do nhu cầu thị trường co hẹp. Ở một số khu vực kinh tế, những người lao động có thâm niên công tác từ 25 đến 34 năm, được khuyến khích nghỉ việc tự nguyện. Con số tự nguyện nghỉ việc 2 Gồm: Luật đặc biệt chống khủng bố, Luật sửa đổi Lực lượng phòng vệ và Luật sửa đổi Cục bảo an trên biển 12
  15. trong nửa năm đầu 2001 tăng từ 160.000 lên 520.000 người. Các tập đoàn công nghiệp lớn như Fujitsu, Toshiba hay Matsushita đã phải cắt giảm hàng loạt công ăn việc làm để đối phó với tình trạng tăng trưởng âm của nền kinh tế. Tình trạng thất nghiệp cũng góp phần gây nên những hậu quả xấu trong xã hội. Các vụ tự tử vẫn ở mức độ cao - hiện tượng không có gì mới lạ đối với người dân Nhật. Theo kết quả điều tra và ghi nhận của Cơ quan cảnh sát Nhật Bản (Nation Police Agency - NPA), năm 2000 có tới 31.957 vụ tự tử. Có nhiều lý do dẫn đến hiện tượng trên song lý do kinh tế như thất nghiệp, nợ nần là nguyên nhân chính gây ra các vụ tự tử. Bên cạnh đó, tình trạng tội phạm cũng gia tăng. Theo báo cáo thống kê của NPA: trong 2 quý đầu năm 2001, tổng số vụ tội phạm được thông báo là 1.288.381 vụ, tăng 15,9% so với năm 2000. Mức độ an toàn xã hội càng đáng lo ngại hơn khi số vụ phạm tội được cơ quan điều tra làm sáng tỏ giảm xuống còn 19% so với năm 2000 là 25,3%. Nhật Bản là quốc gia có chỉ số tuổi thọ cao nhất thế giới. Hiện tượng già hóa dân cư ở Nhật Bản phản ảnh xu hướng phổ biến của cả xã hội phát triển, là một trong những vấn đề nan giải, làm thay đổi cơ cấu dân số và nảy sinh hàng loạt vấn đề kinh tế xã hội, trong đó có việc đảm bảo cuộc sống cho số người già. Sự gia tăng người già trong dân số cũng làm cho cơ cấu tiêu dùng của dân cư thay đổi, chỉ số tiêu dùng cá nhân tăng chậm. Trong khi đó, chi phí cho phúc lợi xã hội không ngừng tăng lên. Đây cũng là vấn đề nhức nhối trong xã hội Nhật Bản. Hệ thống phúc lợi xã hội của Nhật Bản có nhiều vấn đề đòi hỏi phải cải cách như tăng mức đóng bảo hiểm y tế, tăng độ tuổi bảo hiểm y tế…Kế hoạch cải cách được đặt ra nhằm cứu vãn chế độ bảo hiểm y tế trên toàn quốc đang trong tình trạng thâm hụt tài chính hàng trăm tỷ yên một năm. Việc này gây 13
  16. khá nhiều tranh cãi bởi nó động chạm đến lợi ích chính trị liên quan đến các đảng phái chính trị ở Nhật Bản. Cũng có những ý kiến cho rằng đây chưa phải là thời điểm thích hợp cho việc thực hiện cải cách. Theo cách nhìn của Bộ Y tế và Phúc lợi Nhật Bản thì cải cách sẽ dẫn tới làm tăng gánh nặng về mặt tài chính cho người lao động và người già. Có thể thấy kinh tế suy thoái sau hơn một thập kỷ vẫn chưa có lối thoát cùng với những biến động chính trị và các vấn đề nhức nhối của xã hội đã cho thấy sơ qua tình hình nước Nhật khi bước sang thế kỷ XXI. Chính những những khó khăn, bất ổn trong nước cùng với những thay đổi của tình hình quốc tế đã tạo lập cơ sở để Nhật Bản điều chỉnh chính sách đối ngoại với thế giới nói chung, và với khu vực Đông Á nói riêng. 1.1.3. Vài nét về Thủ tƣớng J. Koizumi Chính sách đối ngoại của Nhật Bản với Đông Á không chỉ phụ thuộc vào bối cảnh trong và ngoài nước, mà nó còn liên quan đến vai trò to lớn của người đảm nhiệm vị trí lãnh đạo đất nước, cụ thể ở đây là Thủ tướng Nhật Bản J. Koizumi. Giữ chức Thủ tướng trong khoảng thời gian 5 năm (2001- 2006), Junichiro Koizumi trở thành thủ tướng đầu tiên của Nhật Bản trong thế kỷ XXI và cũng là người đầu tiên giữ ghế lãnh đạo đất nước lâu nhất kể từ năm 19723. J. Koizumi sinh ngày 8 tháng 1 năm 1942 tại thành phố Yokosuka, thuộc tỉnh Kanagawa. Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống chính trị lâu đời. Ông nội của ông từng là Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ 20. Bố ông từng giữ chức Cục trưởng Phòng vệ Nhật Bản dưới thời Thủ tướng Ikeda (1960-1964) và Sato (1964- 1972). Năm 1978, ông lập gia đình với Kayoko Miyamoto và có 3 người con 3 Trước khi ông lên nắm quyền, Nhật Bản đã trải qua 10 đời thủ tướng trong vòng chỉ có 12 năm. 14
  17. trai. Cuộc hôn nhân đã kết thúc năm 1982 và ông ở với 2 người con trai. Theo những nhà nghiên cứu về Koizumi và gia thế của ông thì tính cách Koizumi được thừa hưởng từ người cha. J. Koizumi học ngành kinh tế tại Đại học Keio, sau đó sang Luân Đôn du học. Ông là chính khách nói tiếng Anh lưu loát hiếm có trên chính trường Nhật Bản. Năm 27 tuổi, J. Koizumi chuyển từ học lĩnh vực kinh tế sang học ở lĩnh vực chính trị. Ông trúng cử và là hạ nghị sĩ lần đầu tiên vào năm 30 tuổi. Sau đó, ông làm thư ký cho Takeo Fukuda, lúc đó đang giữ chức Bộ trưởng Tài chính, và trở thành Thủ tướng Nhật Bản vào năm 1976. Chính Takeo Fukuda là người phát hiện ra tài năng của ông và dìu dắt, bồi dưỡng ông trong sự nghiệp chính trị. J. Koizumi đạt được vị trí cấp cao đầu tiên vào năm 1979 với vai trò là Thứ trưởng Bộ Tài chính và 3 lần làm Bộ trưởng Bộ Y tế và Phúc lợi vào các năm 1988, 1989, 1996. Năm 1992, ông được chỉ định làm Bộ trưởng Bộ Bưu chính và Viễn thông. Ngày 24 tháng 4 năm 2001, ông được bầu làm Chủ tịch đảng LDP và sau đó 2 ngày, ông trúng cử chức vụ Thủ tướng Nhật Bản. J. Koizumi là người có kinh nghiệm hoạt động chính trị, có hình ảnh liêm khiết, dám nói, dám làm, là người đại diện cho lớp chính khách trẻ của Nhật Bản. Chỉ một tháng sau khi nhậm chức, công chúng ủng hộ ông đã tăng đến 87%, tỉ lệ cao nhất mà không thủ tướng Nhật nào thời hậu chiến giành được. Ông lên nắm quyền khi chính trị khủng hoảng, kinh tế trì trệ và những bê bối trong Bộ ngoại giao. Với đường lối lãnh độc độc lập, quyết đoán, ông đã đem lại nhiều thay đổi cho đất nước Nhật Bản: thay đổi phương thức bầu cử Thượng nghị viện, cải tổ Nội các, thay đổi cơ cấu tổ chức và phong cách làm việc của nhiều Bộ, cải cách cơ cấu kinh tế - tài chính, cải cách hành chính, sửa đổi Hiến pháp liên quan đến vấn đề an ninh - quốc phòng.... Trong 15
  18. đó, Thủ tướng Koizumi đặc biệt quan tâm đến việc điều chỉnh đường lối đối ngoại của Nhật Bản. 1.2. Chính sách đối ngoại của Nhật Bản 1.2.1. Liên minh Nhật - Mỹ vẫn là trụ cột Mối quan hệ Nhật Bản - Mỹ trải qua nhiều thập niên và được xây dựng trên cơ sở đồng thuận về hệ tư tưởng chính trị và được duy trì trên cơ sở Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ ký năm 1951. Theo hiệp ước này, các lực lượng vũ trang Mỹ được phép sử dụng các cơ sở, lãnh thổ của Nhật Bản và hiện khoảng 47.000 quân Mỹ đang đồn trú tại Nhật. Thay vào đó Mỹ có trách nhiệm phải phản ứng lại trước các cuộc tấn công vào Nhật và bảo vệ Nhật dưới tấm lá chắn hạt nhân của mình. Hơn một nửa số binh sỹ trên hiện đang đồn trú ở đảo Okinawa, miền nam Nhật Bản. Sự tồn tại của Liên minh Nhật Bản - Mỹ về quan hệ an ninh và những lý do để giải thích cho việc cả Nhật Bản và Mỹ coi trọng mối quan hệ này trong thời kỳ Chiến tranh lạnh là sự đe dọa của Liên Xô. Nhưng khi sự đe dọa này không còn, đã không ít lần cả hai nước xem xét lại mối quan hệ an ninh song phương. Vấn đề này được đưa ra bàn luận khá nhiều và hai nước đã nhiều lần điều chỉnh nội dung hợp tác an ninh, trong đó đặc biệt là việc đưa ra Tuyên bố chung về “An ninh Nhật - Mỹ trong thế kỷ XXI” năm 1996 và Phương châm phòng thủ mới Nhật - Mỹ vào năm 1997. Lý do điều chỉnh chính sách an ninh là thế giới và khu vực châu Á - Thái Bình Dương sau Chiến tranh lạnh vẫn tiềm ẩn nguy cơ xung đột và sự hiện diện của Mỹ về quân sự ở Đông Á là cần thiết để duy trì an ninh và ổn định ở khu vực này. Sự ổn định của khu vực này và lợi ích của Nhật Bản sẽ không được bảo vệ nếu thiếu nhân tố Mỹ. Lợi ích trong việc đồng hành cùng Mỹ là điều không thể bác bỏ. Sự thần kỳ về kinh tế của Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai có được là 16
  19. nhờ ô bảo vệ của Mỹ. Liên minh Nhật - Mỹ đã tạo điều kiện cho Nhật Bản cả về an ninh quốc gia cũng như thị trường kinh tế cho các sản phẩm của Nhật Bản. Sự thịnh vượng của Nhật Bản một phần là nhờ đi theo sự lãnh đạo của cường quốc kinh tế Hoa Kỳ. Bởi vậy, các Chính phủ tiền nhiệm đã nhấn mạnh tầm quan trọng của liên minh Nhật - Mỹ và duy trì hiện trạng quan hệ thân cận với Mỹ nhằm phục vụ lợi ích của Nhật Bản. Thủ tướng Koizumi là người chủ động thắt chặt hơn nữa mối quan hệ an ninh với Mỹ hơn bất cứ người tiền nhiệm nào của ông. Ông từng phát biểu rằng, quan hệ Nhật - Mỹ càng trở nên tốt đẹp thì quan hệ của Nhật Bản với các quốc gia châu Á càng tốt hơn. Đặc biệt, quan hệ cá nhân giữa hai nhà lãnh đạo Thủ tướng Nhật Bản Koizumi và Tổng thống Mỹ Bush khá mật thiết và gắn bó so với các mối quan hệ trước đây giữa các nhà lãnh đạo hai nước. Tuy nhiên, đường lối đối ngoại qua phụ thuộc vào Mỹ đã làm cho Nhật Bản thụ động đối phó với những biến cố quốc tế. Và người ta thấy một khía cạnh khác trong nền ngoại giao của Nhật Bản. Đó là một nền ngoại giao chủ động và độc lập hơn mà thủ tướng Koizumi muốn thực hiện từ khi lên nắm quyền. Nhật Bản chủ động từ việc hàn gắn quan hệ với các nước láng giềng, việc tăng cường quan hệ với các tổ chức quốc tế, cho tới phát huy vai trò trong Liên Hợp Quốc và vai trò ở châu Á trong việc viện trợ ODA cho các nước đang phát triển trong khu vực. Mặc dù vậy, sự chủ động, và tính độc lập của nền ngoại giao Nhật Bản vẫn chưa thoát khỏi khuôn khổ quan hệ đồng minh Nhật - Mỹ, vẫn là hòn đá tảng trong ngoại giao của Nhật Bản. Không ít nhà phân tích còn cho rằng, sự độc lập và chủ động của ngoại giao Nhật Bản là có sự khuyến khích của Mỹ, bởi một đồng minh thân cận có vai trò nổi bật ở khu vực, làm nhân tố kiềm chế Trung Quốc, đồng thời không quá mạnh để lấn át vai trò của Mỹ là điều 17
  20. mà Mỹ luôn mong đợi khi nước này đang cần chia sẻ bớt gánh nặng và cũng không thể tránh khi Nhật Bản ngày càng mạnh lên. 1.2.2. Nâng cao vai trò trên trường quốc tế Để thực hiện mục tiêu này, Nhật Bản đã triển khai chính sách ngoại giao tập trung vào các diễn đàn đa phương và các tổ chức quốc tế, nhất là Liên Hợp Quốc. Điều này thể hiện rõ trong một số hoạt động của Nhật Bản: Một là, tham gia tích cực trong hoạt động của các ngân hàng đa phương và dần dần trở thành trụ cột tài chính cho các ngân hàng như IMF, ADB,… Người Nhật không chỉ là những ông chủ tài chính của các ngân hàng mà còn có vai trò thực sự trong việc điều hành hoạt động của các tổ chức này. Họ cho rằng các ngân hàng phát triển đa phương là diễn đàn thích hợp để Nhật Bản bày tỏ quan điểm và chính sách của mình; là công cụ tài chính quan trọng đem lại phồn vinh cho các nước cũng như cho chính Nhật Bản. Hai là, sử dụng viện trợ với tư cách là công cụ để thực hiện mục tiêu chính trị: nâng cao vị thế của Nhật Bản trên trường quốc tế. Dù Nhật Bản không coi các điều kiện chính trị là tiên quyết đối với việc nhận viện trợ song thực tế đây là công cụ quan trọng để mở rộng ảnh hưởng và gia tăng vị thế của Nhật Bản trên trường quốc tế. Nhật Bản là một trong những nước đứng đầu về ODA cho các nước đang phát triển. Năm 2004, Nhật Bản viện trợ cho các nước này 8.169 tỷ yên, năm 2005 là 7.862 tỷ yên và năm 2006 là 7.597 tỷ yên. Không chỉ tăng quy mô, Nhật Bản còn điều chỉnh về phân bổ ODA. Theo đó châu Á luôn là khu vực nhận nhiều ODA nhất, tiếp đó là châu Phi, Mỹ Latinh,... Sự điều chỉnh này quyết định bởi mức độ quan trọng và sự quan tâm của Nhật Bản ở từng khu vực. ODA trở thành kênh quan trọng để tăng vị thế của Nhật Bản và để thể hiện thái độ tích cực của Nhật Bản trong việc hợp tác cùng các nước và toàn cầu giải quyết các vấn đề chung của thế giới. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0