Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Ngữ văn: Rèn luyện kỹ năng tổ chức đoạn trong bài văn nghị luận cho học sinh THPT
lượt xem 8
download
Luận văn hướng tới mục đích nhằm giúp học sinh rèn luyện được kĩ năng tổ chức một đoạn văn trong văn bản nghị luận sao cho chặt chẽ, mạch lạc góp phần nâng cao năng lực tư duy, năng lực khái quát cũng như năng lực sử dụng ngôn ngữ ở mức chủ động sáng tạo. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Ngữ văn: Rèn luyện kỹ năng tổ chức đoạn trong bài văn nghị luận cho học sinh THPT
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI GIÁO DỤC PHẠM THỊ BÍCH THU RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TỔ CHỨC ĐOẠN VĂN TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH THPT LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM VĂN CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC (BỘ MÔN NGỮ VĂN) MÃ SỐ: 60 14 10 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Quang Ninh HÀ NỘI - 2013 i
- Lời cảm ơn Để có thể sớm hoàn thành luận văn này tôi xin gửi lời cảm ơn chân trọng tới PGS.TS. Nguyễn Quang Ninh, người đã tận tình hướng dẫn, động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện Trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, trường Đại học Giáo Dục, Đại học Quốc Gia Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy và tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt thời gian của khóa học Trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, đồng nghiệp trường THPT Bất Bạt đã tạo điều kiện, giúp đỡ để tôi có thể hoàn thành khóa học với luận văn này. Trân trọng cảm ơn gia đình và bạn bè thân thiết đã luôn quan tâm, chia sẻ với tôi suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Hà Nội, tháng 12 năm 2013 Tác giả luận văn Phạm Thị Bích Thu ii
- DANH MỤC VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN Viết tắt Viết đầy đủ CT Chương trình GV Giáo viên HS Học sinh NXB Nhà xuất bản PPDH Phương pháp dạy học SGV Sách giáo viên SGK Sách giáo khoa TN Thực nghiệm THPT Trung học phổ thông Tr. Trang iii
- MỤC LỤC Lời cảm ơn ......................................................................................................... i Danh mục viết tắt trong luận văn ..................................................................... iii Mục lục.............................................................................................................. iv Danh mục bảng, biểu .......................................................................................... vi MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ........... 9 1.1. Cơ sở lí luận ................................................................................................. 9 1.1.1. Đoạn văn trong lý thuyết ngôn ngữ ........................................................ 9 1.1.2. Văn nghị luận ........................................................................................ 12 1.1.3.Đoạn văn trong văn nghị luận ................................................................ 18 2.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................... 21 2.2.1. Về chương trình..................................................................................... 21 2.2.2. Về sách giáo khoa ................................................................................. 22 2.2.3. Tình hình dạy học môn Làm văn ở các trường Trung học phổ thông .. 22 2.2.4. Nguyên nhân và thực trạng viết đoạn văn trong bài văn nghị luận của học sinh Trung học phổ thông......................................................................... 25 Chương 2: TỔ CHỨC RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH ................................................................... 28 2.1. Luyện viết đoạn văn có câu chủ đề thể hiện luận điểm ............................ 28 2.1.1. Luận điểm.............................................................................................. 28 2.1.2. Tổ chức rèn luyện.................................................................................... 33 2.2. Luyện viết đoạn văn có nhiều luận cứ ..................................................... 38 2.2.1. Luận cứ .................................................................................................. 38 2.2.2. Tổ chức rèn luyện.................................................................................... 41 2.3. Luyện viết đoạn văn có câu kết luận đoạn ............................................... 45 2.3.1. Kết luận ................................................................................................. 45 2.3.2. Tổ chức rèn luyện .................................................................................. 47 2.4. Luyện viết đoạn văn theo những cách lập luận khác nhau ...................... 51 iv
- 2.4.1. Những cách lập luận cần luyện ............................................................. 52 2.4.2. Tổ chức rèn luyện .................................................................................. 59 Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM .................................................... 65 3.1. Những vấn đề chung ................................................................................ 65 3.1.1. Mục đích thực nghiệm .......................................................................... 65 3.1.2. Yêu cầu của thực nghiệm ...................................................................... 65 3.1.3.Đối tượng và thời gian thực nghiệm ...................................................... 66 3.1.4. Nội dung thực nghiệm ........................................................................... 66 3.2. Tổ chức thực nghiệm sư phạm ................................................................. 66 3.2.1. Bảng kết quả kiểm tra lớp đối chứng và lớp thực nghiệm .................... 67 3.2.2. Phân tích kết quả dạy học đối chứng và dạy học thực nghiệm ............. 67 KẾT LUẬN .................................................................................................... 80 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 87 v
- DANH MỤC BẢNG, BIỂU Bảng 3.1. Bảng kết quả kiểm tra lớp 12A2, 12a5 .....................................................67 Bảng 3.2. Bảng so sánh kết quả trước TN và sau khi TN - Lớp 12A3 .....................67 vi
- MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Thực tế giảng dạy và học tập ở nhà trường THPT cho thấy việc rèn luyện viết văn nghị luận còn chưa được chú ý tương xứng với tầm quan trọng của nó trong chương trình. Lí do cũng dễ hiểu: bản thân nghị việc thường bị cho là “khô - khó - khổ”, khô khan, khó viết, nội dung nghị luận lại không có sẵn, phải tự nghĩ ra - vốn là những điều chưa quen, chưa thành kĩ năng đối với học sinh khi làm bài nghị luận. Đây là một vấn đề quan trọng cần phải chú ý uốn nắn, điều chỉnh kịp thời để có thể giảng dạy và học tập tốt phần nghị luận trong chương trình Làm văn ở THPT. Mặt khác, trong hệ thống chỉnh thể của một bài làm văn, đoạn văn là một bộ phận cấu thành, là một trong những thành tố quan trọng tạo nên hệ thống ấy. Đoạn văn là nơi học sinh thể hiện các luận điểm và triển khai các luận điểm để làm sáng rõ cho luận đề, cho toàn bộ bài văn. Tuy nhiên, một trong những lỗi thường gặp của học sinh khi viết bài văn nghị luận chính là không biết viết đoạn văn, không xây dượng được đoạn văn chặt chẽ, mạch lạc. Đối với bài văn nói chung và đặc biệt đối với bài văn nghị luận nói riêng, sự lúng túng này của học sinh càng được thể hiện rõ nét hơn rất nhiều. Bởi vậy, theo chúng tôi, để giúp cho học sinh viết được những bài văn nghị luận hay trước hết chúng ta cần phải bắt đầu rèn cho học sinh viết được những đoạn văn nghị luận hay, nghĩa là đoạn văn có luận điểm rõ ràng, có sự lập luận chặt chẽ và được diễn đạt ra bằng lời lẽ trong sáng. Trên cơ sở viết được những đoạn văn mạch lạc, chặt chẽ như vậy, học sinh sẽ chắc chắn hơn, tự tin hơn để viết được bài văn nghị luận hoàn chỉnh đầy sức thuyết phục. Xuất phát từ thực tiễn dạy học phần làm văn nhằm tăng cường tính thực hành, phát triển tư duy logic và sự sáng tạo độc đáo cho học sinh nên nhà trường Trung học phổ thông cần giúp các em hình thành bằng được kĩ năng, kĩ xảo khi làm bài văn nghị luận. Và mặc dù đã có trình độ tư duy phát triển cao 1
- cũng như kĩ năng viết văn từ bậc học dưới nhưng các em vẫn mất nhiều thời gian thậm chí khó khăn khi muốn viết được một đoạn văn trôi chảy tạo nên sự khơi thông mạch văn toàn bài. Bởi thế việc luyện viết đoạn văn nghị luận là hết sức cần thiết với các em. 1.2. Văn nghị luận có vai trò hết sức quan trọng trong sống xã hội cũng như trong nhà trường. Thông qua các bài làm văn nghị luận, học sinh có điều kiện phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo, các em có dịp thể hiện năng lực tư duy, cảm thụ và năng lực lập luận của mình. Đây cũng là những yêu cầu rất cần thiết để các em làm hành trang bước vào cuộc sống. Song trong thực tế nhà trường phổ thông hiện nay phần lớn kĩ năng làm văn nghị luận của học sinh còn rất kém, các em ít hứng thú trong việc rèn kĩ năng viết văn nghị luận, trong các bài viết mắc khá nhiều lỗi. Một trong những lỗi bắt gặp ngay khi mở đầu bài viết đó là các em còn lúng túng không biết làm thế nào để vào bài cho nhanh mà vẫn đảm bảo đúng, hay và hấp dẫn. Quan tâm đến cách viết bài của học sinh từ đó tìm ra các biện pháp, phương pháp hữu hiệu nhất giúp các em hoàn thành bài viết của mình với kết quả cao nhất có thể là một việc làm có ý nghĩa thiết thực. Mục đích chính yếu là nhằm rèn luyện nâng cao kĩ năng viết bài văn nghị luận cho học sinh và góp phần vào nhiệm vụ chung của quá trình đổi mới phương pháp dạy học văn. Như chúng ta được biết hướng cải tiến chung của chương trình Sách giáo khoa Ngữ văn hiện nay theo Bộ giáo dục và Đào tạo là giảm tải, tăng thực hành, gắn với đời sống. Vì vậy, dạy và học trong nhà trường đang đứng trước yêu cầu bức thiết đó là cần đổi mới toàn diện từ phương hướng, mục tiêu đến nội dung, phương pháp dạy học. Đặc biệt, việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học cần được tiến hành ở tất cả các cấp học, bậc học. Văn nghị luận từ lâu đã được coi là bộ phận quan trọng nhất trong chương trình làm văn ở trung học phổ thông. Trong văn nghị luận thì tổ chức đoạn là một yếu tố quan trọng giúp cho việc thể hiện luận điểm, luận cứ của người viết một cách rõ ràng hơn và qua đó mà lập luận trong đoạn văn, bài văn cũng vì thế mà chặt chẽ và mạch lạc 2
- hơn. Với đặc thù phần ngữ văn, hiệu quả cao nhất của các em là có thể tạo ra sản phẩm viết bài làm sao cho đúng, cho hay, cho hấp dẫn, mạch lạc. Để làm được điều đó, học sinh cần phải nắm được nhiều kiến thức tổng hợp về bài văn, về phương pháp làm văn, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ, cách dùng từ, đặt câu. Trong đó, yếu tố không thể thiếu được là cách tổ chức đoạn trong bài văn có sự thống nhất, sự phù hợp giữa nội dung và hình thức. Thế nhưng, trong thực tế, không ít các em khi làm bài văn đặc biệt là phần thân bài- mặc dù nội dung gồm nhiều ý, nhưng các em chỉ thể hiện trên một đoạn văn dài hàng 2-3 trang. Vì thế ý tưởng của các em trình bày đôi lúc rất lộn xộn kém hiệu quả, không thu hút được sự chú ý của người đọc. Đây là điều rất đáng lo ngại và cần phải khắc phục ngay. 1.3. Chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở đã nêu lên mục tiêu khái quát: “Môn Ngữ văn có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu chung của nhà trường Trung học cơ sở, góp phần hình thành những con người có học vấn phổ thông cơ sở… Đó là những con người có ý thức tự tu dưỡng, biết thương yêu quý trọng gia đình, bè bạn, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác. Đó là những người biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân thiện mỹ trong nghệ thuật, trước hết trong văn học, có năng lực thực hành và năng lực tư duy sáng tạo như một công cụ để tư duy giao tiếp. Đó cũng là những người có ham muốn đem tài trí của mình cống hiến cho sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc”. Không nằm ngoài những mục tiêu trên và nhằm phát triển cao hơn những yêu cầu được nhắc đến ở chương trình Trung học cơ sở, bộ Sách giáo khoa Ngữ văn Trung học phổ thông cũng đã đưa ra nội dung giảng dạy và học tập rất “thấu tình đạt lí” để giúp học sinh phát huy khả năng tư duy và vận dụng vào trong thực tế cuộc sống sau này của chính các em. Trong đó, phần làm văn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Nó là phần học mang tính thực hành tổng hợp ở trình độ cao. 3
- Cái đích cuối cùng của làm văn là trang bị cho học sinh khả năng độc lập để viết một bài văn có chất lượng cao, trong có có nhiều đoạn văn hay. Muốn như vậy không có cách nào khả thi hơn ngoài việc đổi mới việc dạy học trong nhà trường hiện nay: bước đầu tiên trong việc làm văn là rèn viết từ đoạn văn và cái đích cuối cùng, bước chân cuối cùng cần phải đặt đến chính là bài văn. Trong quá trình dạy học, mỗi giáo viên ai cũng có khát vọng, là sao cho giờ dạy của mình đạt hiệu quả cao nhất, làm sao cho kiến thức giờ dạy đến với từng học sinh, nhất là các em yếu kém bước nâng lên kiến thức để khẳng định mình? Chính vì thế người giáo viên muốn dạy tốt cần phải tự trau dồi kiến thức tương đối vững vàng, tìm ra các giải pháp tối ưu nhất để việc học tập của các em đạt hiệu quả cao nhất. Từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Rèn kỹ năng tổ chức đoạn trong bài văn nghị luận cho học sinh THPT” nhằm củng cố kỹ năng làm bài cho học sinh có hiệu quả mục đích dạy nghị luận ở nhà trường phổ thông hiện nay. 2. Lịch sử vấn đề Làm văn là phần học ứng dụng, thực hành có tính chất tổng hợp nhất, đặc biệt với văn nghị luận, trong đó văn bản nghị luận văn học không chỉ là loại văn bản thông thường mà nó còn có tính nghệ thuật. Nghệ thuật thuyết phục người đọc của văn nghị luận không chỉ nhờ lập luận chặt chẽ mà còn khéo léo trong dẫn dắt của người viết. Chính vì vậy, việc xây dựng cơ sở lí luận cho việc dạy văn nghị luận vô cùng bức thiết. Từ trước đến nay đã có nhiều quan điểm khác nhau của các tác giả về kĩ năng viết đoạn văn. Điểm qua một vài cuốn sách hướng dẫn giảng dạy Tập làm văn và hướng dẫn Làm văn như: Phương pháp làm văn nghị luận (Thẩm Thệ Hà); Tài liệu hướng dẫn học môn Làm văn (Nguyễn Quang Ninh); Giáo trình Làm văn (Đình Cao, Lê A); Dàn bài Tập làm văn 12 (Trần Đình Sử, Phan Huy Dũng); Kĩ năng làm văn nghị luận phổ thông (Nguyễn Quốc Siêu); 150 bài tập rèn luyện kĩ năng dựng đoạn văn (Nguyễn Quang Ninh); Văn bồi dưỡng học sinh giỏi Trung học phổ thông (Nguyễn Đăng Mạnh)... Trong nhiều năm 4
- qua, những tài liệu nghiên cứu, tài liệu chỉ đạo về phần này còn quá ít. Nếu có, những cuốn này chỉ mang tính chất tham khảo cho giáo viên và học sinh. Thực tế cho thấy, đại đa số các cuốn sách đều đã đề cập đến phần mở bài tuy chưa được sâu sắc và trọn vẹn như khi bàn về phần thân bài. Một trong số các tác giả dành sự quan tâm nhiều cho việc rèn luyện viết đoạn văn nói chung và rèn luyện viết đoạn văn nghị luận nói riêng là tác giả Nguyễn Quang Ninh. Có thể nêu ra đây một vài cuốn tiêu biếu của tác giả này: “Luyện cách lập luận trong đoạn văn nghị luận cho học sinh phổ thông” (Nguyễn Quang Ninh – Chủ biên, Nguyễn Thị Ban, Trần Hữu Phong) – NXB ĐHQG Hà Nội – 2000. Một cuốn sách khác cũng của tác giả Nguyễn Quang Ninh đã đóng góp không nhỏ trong việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh là cuốn “150 bài tập rèn kĩ năng dựng đoạn văn” – NXBGD, 1995. Trong hai cuốn sách vừa kể trên, tác giả đã giải thích tương đối cặn kẽ, cụ thể về khái niệm đoạn văn – trong đó có đoạn ý và đoạn lời – cũng như việc đề xuất một hệ thống bài tập tương đối phong phú về việc rèn luyện kĩ năng xây dựng đoạn văn trong chỉnh thể bài văn. Cuốn sách tiếp theo dành sự quan tâm tới đoạn văn trong làm văn là cuốn “Kĩ năng làm văn nghị luận phổ thông” của Nguyễn Quốc Siêu. Trong cuốn sách này, tác giả không chỉ giới thiệu về việc viết đoạn văn nghị luận như một phần nằm trong phần thân bài mà mà còn đề cập đến cả những đoạn văn thuộc phần mở bài hoặc kết bài. Tác giả đã giới thiệu kĩ năng viết phần mở bài với các cách như sau: Từ một sự kiện tương đồng của vấn đề, từ việc trình bày bối cảnh mà xác định luận đề, qua cách vấn thiết mà nêu vấn đề, dẫn danh ngôn đã nêu luận đề, qua đối chiếu phải trái đã nêu vấn đề. Cuốn sách Văn bồi dưỡng học sinh giỏi Trung học phổ thông (Nguyễn Đăng Mạnh) bàn luận khá kĩ về việc viết đoạn văn, đặc biệt là đoạn mở bài hay:“Trước hết muốn mở bài hay cần hiểu rõ mục đích và nhiệm vụ của mở bài. Mục đích của mở bài là giới thiệu với bạn đọc về vấn đề mà mình sẽ viết, sẽ bàn bạc, trao đổi hay miêu tả, kể lại. Viết mở bài thực chất là trả lời câu hỏi: Ở bài 5
- viết này, mình định viết về điều gì?”… “Các cách mở bài khác nhau chủ yếu ở phần dẫn dắt. Phần nêu vấn đề và phần giới hạn vấn đề thường không thay đổi, vì mở bài theo kiểu gì thì ai cũng phải nêu được phần này. Như thế cũng có nghĩa là, muốn viết được các mở bài khác nhau thì người viết chỉ cần xác định rõ ba phần của đoạn mở bài, giữ lại hai phần sau và thay đổi phần đầu là có thể có một mở bài khác. Nói gọn lại cứ thay đổi phần dẫn dắt ta sẽ có một mở bài mới”. [16,Tr 87] Vì đặc điểm của nội dung trình bày trong cuốn sách này, nên các tác giả không thể dành nhiều sự chú ý cho việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nói chung. Những tài liệu trên cơ bản đã hình thành những lí thuyết chung về đoạn văn. Tuy nhiên, cần thấy rằng cách tìm hiểu về tổ chức đoạn văn như vậy vẫn chưa thật toàn diện, chưa thật sâu sắc. Nội dung của những cuốn sách này chủ yếu vẫn thiên về lí thuyết trừu tượng chứ chưa thực sự chú trọng hình thành các thao tác cụ thể cho học sinh. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài này trên cơ sở kế thừa và sáng tạo tất cả những quan điểm đi trước, nhằm đóng góp một phần nhỏ trong việc xây dựng lí thuyết Làm văn và hướng dẫn học sinh làm một số bài tập vận dụng những lí thuyết đã đưa ra. 3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lí luận về phương pháp dạy học làm văn nghị luận, đặc biệt là việc rèn luyện kĩ năng dựng đoạn cho học sinh ở trường THPT. Những kiến thức lĩnh hội được thông qua sách vở và tài liệu tham khảo, qua việc lên lớp của thầy cô cũng như sự tích luỹ của bản thân các em trong quá trình tiếp xúc, giao lưu ngoài cuộc sống xã hội đủ điều kiện giúp các em viết đoạn văn đúng, hay và nhanh chóng cũng như có thể làm những bài đòi hỏi sự sáng tạo và độc đáo. Trong khuôn khổ hạn hẹp của luận văn về điều kiện và khả năng, chúng tôi chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu đoạn văn. Hi vọng rằng luận văn với những nội dung bao hàm trong đó sẽ là tài liệu bổ ích cho những người làm công tác giảng dạy, nghiên cứu và hơn hết là giúp các em học sinh Trung học phổ thông có thể viết đoạn văn trong bài văn nghị luận thành thục, đạt yêu cầu, hay và hấp dẫn. 6
- 4. Mục đích nghiên cứu Luận văn hướng tới mục đích nhằm giúp học sinh rèn luyện được kĩ năng tổ chức một đoạn văn trong văn bản nghị luận sao cho chặt chẽ, mạch lạc góp phần nâng cao năng lực tư duy, năng lực khái quát cũng như năng lực sử dụng ngôn ngữ ở mức chủ động sáng tạo. Chính vì vậy, luận văn này còn hướng đến mục đích góp một tiếng nói riêng của mình vào việc đổi mới phương pháp dạy học làm văn nói chung và dạy học văn nghị luận nói riêng hiện nay đang diễn ra sôi nổi trong nhà trường THPT của chúng ta. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình xây dựng đề tài, chúng tôi đã vận dụng nhiều phương pháp dạy học tiếng Việt, dạy học Làm văn. Giữa các phương pháp có sự phối hợp với mức độ đậm nhạt và phân bố khác nhau ở từng phần. Dưới đây là một số phương pháp nghiên cứu cơ bản nhất đã được chúng tôi vận dụng. 5.1. Phương pháp phân tích ngôn ngữ Phương pháp phân tích ngôn ngữ dùng để nghiên cứu tài liệu trong quá trình thực hiện đề tài. Với đề tài này, chúng tôi thu thập thông tin trên cơ sở nghiên cứu văn bản, tài liệu đã có để rút ra những kết luận khoa học cần thiết. Các văn bản, tài liệu xây dựng cơ sở lí thuyết cho đề tài là các tài liệu ngôn ngữ học, đặc biệt là các tài liệu về bài văn và đoạn văn, chính vì thế việc sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ là điều bắt buộc. 5.2. Phương pháp khảo sát thực tế Từ trước đến nay, chúng ta luôn đề cao mối quan hệ mật thiết giữa lí luận và thực tiễn, trong đó, thực tiễn nắm vai trò cốt yếu trong quá trình nhận thức và hành động. Trên cơ sở những lí thuyết đã nghiên cứu, chúng tôi tiến hành khảo sát thực tế. Cụ thể, chúng tôi đã khảo sát một số lượng lớn những bài làm văn của học sinh Trung học phổ thông, tập trung tìm hiểu sự chất lượng xây dựng đoạn văn nghị luận của các em. Việc làm này giúp chúng tôi nắm được những 7
- khó khăn, vướng mắc cũng như những mặt còn hạn chế trong khi viết đoạn văn của các em. 5.3. Phương pháp thống kê Phương pháp thống kê là phương pháp được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu ngôn ngữ học cũng như trong nghiên cứu các phương pháp dạy học. Vì vậy, sử dụng phương pháp thống kê trong luận văn này sẽ giúp cho chúng tôi có được những con số biết nói về thực trang và chất lượng viết đoạn văn nghị luận của học sinh. Trên cơ sở đó, chúng tôi sẽ đề xuất được những phương pháp rèn luyện phù hợp hơn, có tính khả thi cao hơn. 5.4. Phương pháp thực nghiệm Phương pháp thực nghiệm là phương pháp tổ chức, triển khai giả thuyết khoa học của đề tài vào thực tế giảng dạy nhằm kiểm tra, đánh giá một cách khách quan tính khả thi của các vấn đề đưa ra và từ đó hiệu chỉnh lại nhằm đạt được sự tin cậy và mang tính khoa học nhất nơi luận văn. Phương pháp thực nghiệm có vị trí đặc biệt quan trọng của khoa học giáo dục nói chung và phương pháp rèn luyện kĩ năng Làm văn nói riêng. Có nhiều loại thực nghiệm khác nhau: Thực nghiệm điều tra, thực nghiệm định hướng, thực nghiệm giảng dạy, thực nghiệm kiểm tra…Chúng tôi áp dụng phương pháp thực nghiệm ngay khi đưa ra các dạng bài tập. Trước hết, chúng tôi tìm hiểu trình độ học sinh về kiến thức, kĩ năng viết đoạn văn trong văn nghị luận, sau đó đề ra phương pháp thực nghiệm cho từng đối tượng theo trình tự: Dạy lí thuyết, ra đề, đánh giá và thống kê kết quả. Cuối cùng, chúng tôi có thể rút ra kết luận mang tính khách quan nhất về quá trình nghiên cứu của mình. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chương chính: Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của đề tài Chương 2: Tổ chức rèn kĩ năng viết đoạn trong bài văn nghị luận cho học sinh Trung học phổ thông Chương 3: Thực nghiệm sư phạm 8
- CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Đoạn văn trong lý thuyết ngôn ngữ Đoạn văn là đơn vị cơ sở để tạo thành văn bản. Đoạn văn phong phú về nội dung, phức tạp về cấu trúc và đa dạng về chức năng. Những đoạn văn đạt tới sự hoàn chỉnh nhất định nào đó về mặt nội dung được các nhà nghiên cứu gọi là những “văn bản nhỏ”. Điều này đã phần nào thể hiện được tính đồng hình cao giữa văn bản nhỏ và văn bản hoàn chỉnh. Do đó nhiều người cho rằng con đường nhanh nhất, ngắn nhất để nghiên cứu văn bản hoàn chỉnh, phát hiện ra những đặc điểm về cấu trúc, về chức năng của nó chính là con đường bắt đầu từ sự nghiên cứu đoạn văn, và cũng theo tinh thần này, chúng ta thấy rằng để rèn luyện cho học sinh cách viết một bài văn hoàn chỉnh, chúng ta không thể không bắt đầu từ việc rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn. Khi đã có kỹ năng tổ chức đoạn văn, chắc chắn việc rèn luyện kỹ năng viết bài văn của học sinh sẽ diễn ra có nhiều thuận lợi. Luyện viết đoạn là bước chuyển tiếp cho việc viết bài văn. Về lý thuyết, đoạn văn có thể rất dài, nhưng trong thực tế đoạn văn xuất hiện thường có độ dài trung bình khoảng 5- 6 câu. Vì số lượng câu không nhiều nên việc bao quát toàn bộ một đoạn văn dễ dàng và thuận lợi hơn nhiều so với văn bản hoàn chỉnh. Chính vì đặc tính ngắn gọn, dễ bao quát, và cũng vì thế dễ trích dẫn, nên khi nghiên cứu văn bản, để minh họa cho một luận điểm nào đó, các nhà ngôn ngữ thường dẫn ra một “văn bản nhỏ”, tức một đoạn văn. Đi theo cách thức các nhà nghiên cứu đã tiến hành, trong nhà trường, việc giảng dạy và rèn kỹ năng viết bài văn hoàn chỉnh cũng chủ yếu được dạy và rèn luyện thông qua việc rèn kỹ năng viết đoạn văn. Việc rèn kỹ năng viết đoạn văn trên lớp đỡ tốn thời gian, dễ dàng ghi chép trên bảng, nhiều học sinh 9
- được luyện tập, dễ bao quát dễ chữa lỗi và tránh được tâm lí ngại viết một bài văn dài của học sinh. Đây là lý do giải thích vì sao hiện nay trong các giờ làm văn, chúng ta thường lấy bài tập rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn là một trong những bài tập chủ yếu. Điều đáng tiếc là hiện nay ngay khái niệm đoạn văn được dùng trong nhà trường lại chưa đạt sự thống nhất. Tình hình này đã gây không ít khó khăn cho học sinh trong học tập. Một số thầy cô giáo cho rằng đoạn văn được dùng để chỉ sự phân đoạn nội dung văn bản. Đoạn văn có thể dài hàng vài trang, bao gồm nhiều chỗ ngắt đoạn, xuống dòng. Biểu hiện cụ thể của quan niệm này bộc lộ ở những câu hỏi kiểu như: Bài văn này có thể chia làm mấy đoạn? Mỗi đoạn nói gì?. Theo cách hiểu này, mỗi đoạn phải có sự hoàn chỉnh nhất định về nội dung, nhưng cái khó ở đây là làm thế nào để xác định được sự hoàn chỉnh về nội dung? Không dễ gì trả lời được câu hỏi này. Trong phần lớn các trường hợp, chúng ta đều phải dựa vào những dự cảm chủ quan để phân định nội dung, để xem xét tính hoàn chỉnh của nó. Nhưng đã dựa vào dự cảm, nghĩa là mang nặng tính chủ quan, thì kết quả của phân chia đoạn văn thường không đạt được sự thống nhất, thiếu hẳn tính khách quan. Và cũng vì thế những tiêu chí phân định đoạn văn sẽ trở nên mơ hồ. Điều này làm ảnh hưởng tới cả việc giúp học sinh viết đoạn văn trong các bài văn của mình. Bên cạnh quan niệm trên, một số thầy giáo cô giáo khác lại cho rằng đoạn văn là sự phân đoạn văn bản mang tính chất hình thức. Cách hiểu này được ghi nhận trong các lời nói kiểu như: Muốn có đoạn văn ta phải chấm xuống dòng, mỗi chỗ xuống dòng sẽ cho ta một đoạn văn. Cách hiểu này đã dựa trên sự ổn định về mặt hình thức, có thể cảm nhận được tính chất tự nhiên, trọn vẹn của những dấu hiệu về đoạn văn, nhưng chưa thật đầy đủ vì đã không gắn yếu tố hình thức với nội dung. Khi tạo văn bản, người viết có quyền tự do trong việc xây dựng đoạn văn, nhưng không phải vì thế mà có quyền tùy tiện. Bất kì một hình thức nào cũng chứa đựng một nội dung nhất 10
- định, cho nên một mặt, đoạn văn lại chịu sự chi phối bởi chính nội dung do người viết trình bày. Nội dung bao giờ cũng phù hợp với hình thức, thống nhất với hình thức. việc phá vỡ mối quan hệ biện chứng này sẽ đẩy nội dung đến chỗ khó hiểu hoặc không thể hiểu được. Vì vậy, khi bàn tới khái niệm đoạn văn cũng không thể thiên về mặt hình thức thuần túy Để tránh tình trạng trên, chúng tôi cho rằng cách hiểu thỏa đáng hơn là nên coi đoạn văn vừa là sự phân đoạn nội dung, vừa là sự phân đoạn hình thức. Đoạn văn là bộ phận của văn bản thể hiện sự phân đoạn văn bản cả về mặt logic ngữ nghĩa lẫn mặt biểu cảm thẩm mỹ.Về mặt nội dung, đoạn văn có thể hoàn chỉnh hoặc không hoàn chỉnh. Khi đoạn văn có sự hoàn chỉnh nhất định nào đấy về nội dung, đoạn văn sẽ có những đặc điểm đồng dạng kết cấu ở mức cao nhất so với văn bản hoàn chỉnh. Trong trường hợp này, chúng tôi gọi mỗi đoạn văn là một đoạn ý(hay đoạn nội dung). Ngược lại, những đoạn không hoàn chỉnh về nội dung sẽ được gọi là đoạn lời (hay đoạn diễn đạt, đoạn hình thức). Đoạn văn lúc này chủ yếu là kết quả của sự phân đoạn nhằm mục đích nhấn mạnh, mang tính chất biểu cảm, thẩm mĩ. Còn về mặt hình thức, đoạn văn luôn luôn ổn định, thống nhất trong mọi trường hợp. Đó là phần văn bản nằm giữa hai chỗ thụt đầu dòng, chữ cái đầu đoạn được viết hoa và cuối đoạn có dấu ngắt đoạn, xuống dòng. Dấu hiệu hình thức mang tính tự nhiên này giúp ta dễ nhận ra đoạn văn khi phân tích văn bản và nhanh chóng xác lập được đoạn văn trong quá trình xây dựng văn bản Từ việc xác định khái niệm đoạn văn như cách hiểu trên đây, trong luận văn này, chúng tôi chủ yếu hướng vào việc đề xuất những bài tập rèn luyện cho học sinh kĩ năng tổ chức đoạn văn có sự hoàn chỉnh nhất định về mặt nội dung – đó là các đoạn ý. Bởi lẽ đây là loại đoạn được sử dụng phổ biến trong tất cả các loại hình văn bản, đặc biệt là trong văn nghị luận. Hơn nữa, loại đoạn này cũng là loại đoạn điển hình của văn bản nghị luận, cả nghị luận xã hội lẫn nghị luận văn học. 11
- 1.1.2. Văn nghị luận Văn nghị luận là loại văn trong đó người viết (người nói) trình bày những ý kiến của mình bằng cách dùng lí luận bao gồm cả lí lẽ và dẫn chứng để làm rõ một vấn đề thuộc về chân lí nhằm làm cho người đọc (người nghe) hiểu, tin, đồng tình với những ý kiến của mình và hành động theo những điều mà mình đề xuất. Văn nghị luận xây dựng trên cơ sở của tư duy logic, chứ không phải trên cơ sở của tư duy hình tượng mang tính cụ thể – cảm tính như trong loại văn sáng tác. Nếu trong văn sáng tác, những cảm xúc của tác giả và sự mô tả những bức tranh của đời sống chiếm vai trò quan trọng nhất, thì chúng ta bắt gặp trong văn nghị luận những vấn đề, những luận cứ, những lí lẽ, những khái niệm…là điều quan trọng trước nhất. Văn nghị luận không làm nhiệm vụ mô tả đời sống (xã hội hay nội tâm con người) mà nhằm nhận biết và phân tích đời sống bằng tư duy logic, nên nó phải tuân thủ những quy tắc chặt chẽ của tư duy logic. Tuy thế, không nên hiểu rằng văn nghị luận chỉ toàn là khô khan, trừu tượng, từ chối mọi cảm xúc và hình ảnh ở đây là nằm trong hệ thống của tư duy logic, tuân thủ trật tự của tư duy logic, chứ không phải là sự xây dựng hoàn chỉnh bức tranh về đời sống xã hội.[19, Tr4] Kết cấu của bài văn nghị luận là tuân theo trình tự của sự nhận thức và khai triển một vấn đề trong tư duy logic, chứ không phải dựa theo mạch cảm xúc (như trong loại trữ tình) hay cốt truyện là nhân vật (như trong loại tự sự) hoặc theo diễn biến của xung đột (như trong loại kịch). Ngôn ngữ của văn nghị luận là ngôn ngữ mang phong cách chính luận, nó chú trọng đặc biệt đến sự chính xác và chặt chẽ ý mục đích của sự diễn đạt trong văn nghị luận là phản ánh rõ ràng, chính xác quá trình tư duy để đạt đến sự nhận thức chân lí cụ thể. Song ngôn ngữ chính luận cũng cần hấp dẫn, lôi cuốn bằng từ ngữ có tính hình tượng và có sức biểu cảm, bằng sự biến đổi linh hoạt của cách diễn đạt, của trật tự cú pháp chứ không chấp nhận sự khô 12
- khan và đơn điệu, nhất là khi đối tượng nghị luận là các tác phẩm văn học nghệ thuật. [19, Tr5] Làm văn nghị luận là một công việc, một yêu cầu rất trọng yếu của việc học tập môn văn học trong nhà trường. Văn nghị luận giúp cho người học sinh vận dụng tổng hợp các tri thức văn học và hiểu biết xã hội, rèn luyện khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ và đặc biệt, giúp cho sự phát triển tư duy khoa học của người học sinh. Văn nghị luận nêu ra những vấn đề tư tưởng và học thuật đòi hỏi học sinh phải vận dụng những hiểu biết lí luận và thực tiễn để giải đáp, xây dựng cho người học sinh có phương pháp tư tưởng đúng đắn để hiểu đúng và có thái độ đúng trước các vấn đề đó, cũng tức là giúp cho việc chuẩn bị tiến tới những hành động đúng đắn tích cực trong cuộc sống hiện tại và tương lai. Nói tóm lại, tập làm văn nghị luận là góp phần tích cực vào việc xây dựng và hoàn thiện nhân cách của học sinh. Có thể chia văn nghị luận thành những loại khác nhau tùy theo cơ sở được lựa chọn trong quá trình phân loại. a) Căn cứ vào nội dung nghị luận Căn cứ vào nội dung, văn nghị luận thường được các nhà nghiên cứu chia thành hai loại: - Nghị luận xã hội Nghị luận xã hội là nghị luận về một vấn đề xã hội. Khái niệm xã hội được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm những vấn đề thuộc mọi quan hệ, mọi hoạt động của con người trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội như chính trị, kinh tế, giáo dục, đạo đức, môi trường, dân số… Chúng ta hãy đọc một đoạn văn nghị luận xã hội dưới đây để thấy rõ hơn về điều này: “Trên vỏ bao thuốc lá bằng tiếng Anh hay bằng tiếng Việt đều có in dòng chữ “Hút thuốc lá có thể gây ung thư phổi”. Các phương tiện truyền thông và truyền miệng luôn đưa lời khuyên “xưa như trái đất”: Các quý ông hãy chừa rượu! Còn ma tuý thì được hình dung như một “tử thần” với con 13
- người. Thế nhưng tại sao con người vẫn hàng ngày tìm đến rượu, ma tuý và thuốc lá như tìm đến người bạn không thể thiếu trong cuộc viễn du và chưa bao giờ con người dứt bỏ được chúng?” - Nghị luận văn học Nghị luận văn học là nghị luận về một vấn đề văn học như về một tác phẩm, một tác giả, một trào lưu, một giai đoạn, một quan điểm văn học… Chúng ta cùng đoạn đoạn trích dưới đây trong sự so sánh với đoạn trên để thấy rõ hơn sự khác biệt giữa nghị luận văn học với nghị luận xã hội: “Trong bài thơ “Kính gửi cụ Nguyễn Du” nhà thơ Tố Hữu viết: “Tiếng thơ ai động đất trời, Nghe như non nước vọng lời ngàn thu. Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du, Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày” Nguyễn Du là nhà thơ thiên tài của dân tộc ta. Truyện Kiều là kiệt tác của nền thi ca dân tộc sáng ngời tinh thần nhân đạo. Về phương diện nghệ thuật, áng thơ này là mẫu mực tuyệt vời về ngôn ngữ, về tả cảnh, tả người, tả tình, tự sự…đem đến cho nhân dân ta nhiều thú vị văn chương. Đoạn thơ giới thiệu “Chị em Thúy Kiều” là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất trong “Truyện Kiều”. Thúy Kiều là nhân vật trung tâm của truyện thơ, một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn đã được thi hào khắc họa một cách thần tình, mỹ lệ”.[23, Tr 152]. b) Căn cứ vào cách thức nghị luận Căn cứ vào cách thức nghị luận, người ta thường chia văn nghị luận ra thành thành các loại bài sau: b1) Loại bài chứng minh Là loại bài trong đó người viết (người nói) dùng dẫn chứng và lí lẽ để nêu bật sự đúng đắn của vấn đề được đưa ra nghị luận. Chứng minh là làm cho người ta thấy đúng mà tin theo. 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Ngữ văn: Các biện pháp tạo hứng thú trong dạy học tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Ruộc của Nguyễn Đình Chiểu (Chương trình Ngữ văn 11)
40 p | 82 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Ngữ văn: Ứng dụng lý thuyết tự sự học trong dạy học truyện ngắn Việt Nam hiện đại (chương trình Ngữ văn 11 ban cơ bản )
109 p | 54 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Toán: Rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh thông qua dạy học chủ đề ứng dụng lượng giác vào đại số
148 p | 56 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Hoá học: Dạy học trải nghiệm chương Oxi – Lưu huỳnh lớp 10 phát triển năng lực vận dụng kiến thức hóa học vào thực tiễn
150 p | 46 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Sư phạm kỹ thuật: Sư phạm tương tác và ứng dụng trong dạy học môn kỹ thuật điện tại trường Cao đẳng Việt – Hung
95 p | 21 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Toán: Dạy học chủ đề Tổ hợp – Xác suất lớp 11 theo hướng khám phá toán
13 p | 122 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Ngữ văn: Dạy học tác phẩm của Nam Cao trong nhà trường trung học cơ sở theo hướng tiếp cận văn hóa
131 p | 49 | 6
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Ngữ văn: Lồng ghép trò chơi trong dạy học Ngữ văn ở trung học phổ thông
47 p | 56 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Hóa học: Sử dụng hệ thống bài tập hóa học lớp 9 nhằm phát triển năng lực tự học cho học sinh
140 p | 33 | 5
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Ngữ văn: Các biện pháp tạo hứng thú trong dạy học tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu (Chương trình Ngữ văn 11)
40 p | 71 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Vật lí: Soạn thảo bài tập chương “Động lực học chất điểm”, Vật lí 10 và sử dụng trong đánh giá năng lực giải quyết vấn đề của học sinh
128 p | 29 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Vật Lý: Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập Các định luật bảo toàn nhằm phát triển năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn cho học sinh giỏi Vật lí
91 p | 50 | 4
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Toán: Rèn luyện kĩ năng giải phương trình, bất phương trình mũ và lôgarit cho học sinh lớp 12 Ban nâng cao
12 p | 66 | 4
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Toán: Rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh qua dạy học chương Số phức lớp 12 – Ban nâng cao
12 p | 44 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Hóa học: Phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh chuyên Hoá - Trường THPT Chuyên Thái Bình qua dạy học bài tập phần Hoá học đại cương
126 p | 47 | 3
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Toán: Dạy học hệ phương trình vô tỉ ở trung học phổ thông
12 p | 41 | 2
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Vật lí: Tổ chức hoạt động học tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh trung học phổ thông trong dạy học chuyên đề Các định luật Chất khí
13 p | 30 | 2
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Vật lí: Xây dựng hệ thống bài tập và hướng dẫn hoạt động giải bài tập chương Động lực học chất điểm –Vật lí 10 nhằm bồi dưỡng học sinh giỏi Vật lí trung học phổ thông
12 p | 30 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn