intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Triết học: Ảnh hưởng của tư duy kinh nghiệm đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:106

31
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là nghiên cứu, làm rõ bản chất của tư duy kinh nghiệm, phân tích những ảnh hưởng của nó đến công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những tác động tiêu cực của tư duy kinh nghiệm trong đời sống nhận thức và thực tiễn xã hội hiện nay ở nước ta. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Ảnh hưởng của tư duy kinh nghiệm đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN  TRẦN THỊ THUẬN VŨ ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ DUY KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY Chuyên ngành: Triết Học Mã số : 62.22.80 LUẬN VĂN TH.S TRIẾT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN PGS.TS.Vũ Văn Viên HÀ NỘI - 2008
  2. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................. 3 1.Tính cấp thiết của đề tài ..................................................... 3 2. Tình hình nghiên cứu đề tài .............................................. 4 2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước ..................................................................................................... 4 2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước .................................................................................................... 7 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn ............. 8 3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn .................................................................................................. 8 3.2. Nhiệm vụ của luận văn ..................................................................................................................... 9 4.Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn 9 4.1. Cơ sở lý luận .................................................................................................................................... 9 4.2. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................................. 9 5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn........................ 10 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ..................... 10 7. Kết cấu luận văn............................................................... 10 Chƣơng I ............................................................................... 11 BẢN CHẤT, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ ........................... 11 CỦA TƢ DUY KINH NGHIỆM......................................... 11 1.1.Tư duy và tư duy kinh nghiệm .................................................................................................... 11 1.1.1. Khái niệm “Tư duy” .................................................................................................................... 11 1.1.2. Bản chất của tư duy kinh nghiệm ................................................................................................ 14 1.2. Đặc điểm và vai trò của tư duy kinh nghiệm ................................................................................. 26 1.2.1. Đặc điểm của tư duy kinh nghiệm ............................................................................................... 26 1.2.2. Vai trò của tư duy kinh nghiệm ................................................................................................... 36 THỰC TRẠNG ẢNH HƢỞNG CỦA TƢ DUY KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƢỚC TA HIỆN NAY VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC TƢ DUY CỦA NGƢỜI VIỆT NAM .. 44 2.1. Thực trạng ảnh hưởng của tư duy kinh nghiệm đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay .... 44
  3. 2 2.1.1. Một số ảnh hưởng tích cực .......................................................................................................... 44 2.1.2.Một số ảnh hưởng tiêu cực ........................................................................................................... 54 2.2. Một số giải pháp nhằm khắc phục những ảnh hưởng của tư duy kinh nghiệm, nâng cao năng lực tư duy của người Việt Nam ....................................................................................................................... 83 2.2.2. Kết hợp giữa nâng cao năng lực phương pháp luận biện chứng duy vật với nâng cao năng lực tư duy lôgíc ................................................................................................................................................ 85 KẾT LUẬN ........................................................................... 96 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................ 99
  4. 3 MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang tiến hành trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế sâu sắc. Loài người đang bước vào kỷ nguyên của nền văn minh trí tuệ, nền kinh tế tri thức, ở đó, đòi hỏi con người phải có năng lực tiếp nhận, xử lý thông tin để sản xuất ra tri thức mới. Do đó, năng lực tư duy, trí tuệ trở thành yếu tố quyết định sức mạnh của mỗi nền kinh tế, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Sự phát triển của cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại đã làm biến đổi một cách sâu sắc mọi mặt của đời sống xã hội. Khoa học, công nghệ đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, nối dài khả năng của con người trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới hiện thực. Để nhanh chóng hội nhập và nắm bắt được những thành tựu khoa học, vận dụng nó có lợi cho phát triển kinh tế- xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi chúng ta phải có năng lực tư duy lý luận. Bởi vì, chỉ có năng lực tư duy lý luận mới giúp con người đủ khả năng nắm bắt được bản chất, qui luật vận động của thế giới tự nhiên và xã hội, nắm được những tri thức khoa học, công nghệ và quản lý làm công cụ để vận dụng vào hoạt động thực tiễn một cách hiệu quả. Sau hơn 20 năm thực hiện đổi mới, mặc dù đã đạt được một số thành tựu đáng kể trong nhận thức cũng như thực tiễn phát triển kinh tế- xã hội, song trước những thách thức lớn của xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, so với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, chúng ta còn nhiều bất cập ở nhiều lĩnh vực, trước hết là trên lĩnh vực nhận thức. Đánh giá tổng kết hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhiều nghiên cứu đã nhận định: tư duy của ta còn chậm đổi mới, chưa theo kịp với đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Về trình độ, năng lực tư duy còn có sự bất cập giữa yêu cầu của đổi mới và khả năng đáp ứng. Trên thực tế, tư duy kinh nghiệm đang chi phối mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Một mặt, nó cũng có những tác động tích cực
  5. 4 nhất định đối với đời sống, sản xuất xã hội của nhân dân ta. Song mặt khác, tư duy kinh nghiệm ảnh hưởng tiêu cực không nhỏ đến cách nghĩ, cách làm, là nguyên nhân chủ yếu của những yếu kém trong quản lý nhà nước về kinh tế, giáo dục, pháp luật… của chúng ta trong thời gian qua. Đồng thời, ảnh hưởng của tư duy kinh nghiệm cũng dẫn đến những yếu kém về tư duy kinh tế, ý thức chấp hành kỷ cương, pháp luật và hạn chế về năng lực tư duy khoa học của người Việt Nam. Những tác động tiêu cực của tư duy kinh nghiệm đã trở thành lực cản đối với quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế và phát triển, chấn hưng đất nước. Vì vậy, việc nghiên cứu tư duy kinh nghiệm, đánh giá tác động của nó đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay làm cơ sở để tìm ra những giải pháp phát huy vai trò tích cực, đồng thời khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tư duy kinh nghiệm, nâng tầm tư duy người Việt Nam lên trình độ lý luận khoa học, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Vì những lý do nói trên, chúng tôi chọn vấn đề: “Ảnh hưởng của tư duy kinh nghiệm đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận văn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Là một trong những vấn đề cơ bản của nhận thức luận, vấn đề tư duy, các loại hình tư duy nói chung như tư duy kinh nghiệm, tư duy lý luận... và vai trò của chúng luôn là một đề tài lôi cuốn sự quan tâm của nhiều tác giả nghiên cứu trong và ngoài nước. 2.1. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc Liên quan đến chủ đề nghiên cứu của luận văn có nhiều công trình của các tác giả trong nước về một số nhóm vấn đề sau:
  6. 5 Nhóm vấn đề về tư duy, đổi mới tư duy, có nhiều công trình, bài viết của các tác giả đã đăng tải trên các sách, tạp chí, các đề tài, hội thảo khoa học... Trước hết phải kể đến các báo cáo của Trung ương Đảng, các bài viết của các nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng và các nhà nghiên cứu như: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới 1986- 2006 của Ban chỉ đạo tổng kết lý luận Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Đổi mới tư duy và phong cách- Nguyễn Văn Linh; Bàn về đổi mới tư duy- Đào Duy Tùng; Đổi mới phong cách tư duy- Phạm Như Cương; Đổi mới tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta- Nguyễn Duy Quý, Nxb Chính trị quốc gia; Quán triệt tư duy duy vật biện chứng là nội dung quan trọng của việc đổi mới tư duy- Dương Phú Hiệp; Đổi mới tư duy lý luận- tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới- Lại Văn Toàn; Một số vấn đề về đổi mới tư duy kinh tế ở Việt Nam- Lê Đăng Doanh; Tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế xã hội- Phan Đình Diệu và nhiều bài viết khác trên các tạp chí Triết học, Lý luận chính trị, Cộng sản, các đề tài khoa học các cấp của các tác giả Lê Hữu Tầng, Nguyễn Trọng Chuẩn, Đặng Xuân Kỳ, Phạm Ngọc Quang, Hoàng Chí Bảo, Trần Xuân Sơn, Vũ Văn Viên, Ngô Đình Xây... Các công trình trên đã làm rõ thực trạng của tư duy lý luận ở nước ta trước đổi mới và hiện nay, những nguyên nhân của tình trạng lạc hậu về tư duy lý luận, do đó làm rõ tính tất yếu khách quan của đổi mới tư duy và đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục tình trạng lạc hậu về tư duy lý luận ở nước ta hiện nay. Về vấn đề bản chất của tư duy, các loại hình tư duy và phương pháp tư duy cũng đã được các nhà nghiên cứu khai thác nhằm làm cơ sở để phát triển năng lực tư duy của người Việt Nam góp phần nâng cao hiệu quả của công cuộc đổi mới tư duy ở nước ta hiện nay. Một số công trình tiêu biểu về vấn đề này như: Tư duy khoa học trong giai đoạn cách mạng công nghệ, Nxb Chính trị quốc gia, 1998 của Lê Hữu Nghĩa và Phạm Duy Hải; Về phương pháp nhận thức khoa học, Nxb Chính trị quốc gia – Ngô Đình Xây; Phương pháp nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa học và kỹ thuật, 1996- Vũ Cao Đàm; Lôgíc phi cổ điển-
  7. 6 chuẩn mực lôgíc hiện đại và tiên tiến nhất của tư duy, T/c Triết học, số 4/1990; Về mối quan hệ giữa lôgíc học biện chứng và lôgíc học hình thức, T/c Triết học số 4/ 1997- Tô Duy Hợp; Lôgíc hình thức và tư duy chính xác, T/c Triết học số 4/1991; Về thực chất của tư duy khoa học hiện đại, T/c Triết học số 3/1992 và Tư duy lôgíc- bộ phận hợp thành của tư duy khoa học, T/c Triết học số 12/1996 của Vũ Văn Viên... Các nghiên cứu đã đưa ra và giải đáp các vấn đề : bản chất của tư duy là gì, các hình thức và các quy luật của tư duy đang nhận thức, tư duy thông thường và tư duy khoa học; các loại hình tư duy và tư duy khoa học, đặc điểm của các loại hình tư duy, cơ sở khách quan của mỗi phương pháp tư duy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Nhóm vấn đề về kinh nghiệm, tư duy kinh nghiệm, nhận thức kinh nghiệm, mối liên hệ giữa kinh nghiệm và lý luận, tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận..., có các công trình của các tác giả: Hoàng Chí Bảo- Từ tư duy kinh nghiệm đến tư duy lý luận, T/c Thông tin lý luận số 6/1988 đã nêu lên một số đặc trưng cơ bản của tư duy kinh nghiệm và hạn chế của nó trong đời sống nhận thức nước ta; Bùi Đình Luận- Về ranh giới giữa kinh nghiệm và lý luận trong nhận thức khoa học và thực tiễn, T/c Triết học số 2/1992 đã phân biệt được ranh giới giữa tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận, chỉ ra vai trò của tư duy kinh nghiệm trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn; Vũ Anh Tuấn- Nhận thức kinh nghiệm- những biểu hiện đặc thù và ảnh hưởng của nó trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cải tạo, xây dựng xã hội ta hiện nay, Luận án PTS, Hà Nội, 1994 cũng đã phân tích được những đặc trưng cơ bản của kinh nghiệm, nhận thức kinh nghiệm và những biểu hiện của nó trong đời sống xã hội ta, đồng thời khẳng định tính tất yếu của việc phát triển tư duy lý luận ở nước ta hiện nay; Trần Văn Phòng- Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa ở đội ngũ cán bộ nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Luận án PTS, Hà Nội, 1994 đã nêu được thực chất của bệnh kinh nghiệm và những biểu hiện của nó ở đội ngũ cán bộ nước ta đồng thời đưa ra một số giải pháp khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
  8. 7 ta... và nhiều công trình khác. Các công trình nói trên phần lớn đã đề cập và giải quyết vấn đề đặc trưng của kinh nghiệm, nhận thức kinh nghiệm song hoặc mới chỉ là những nét khái quát, hoặc chủ yếu là qua khảo sát thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam từ những năm bắt đầu đổi mới. Về thực trạng và những giải pháp khắc phục hạn chế của tư duy ở Việt Nam có các công trình của các tác giả: Lê Hữu Nghĩa- Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán bộ ta, T/c Triết học số 2/1988; Nguyễn Ngọc Long- Chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều trong quá trình đổi mới tư duy lý luận. Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tư duy lý luận, Học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội, 1988... đã nêu lên thực trạng một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán bộ ta hiện nay, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những yếu kém về tư duy và nâng cao năng lực tư duy của cán bộ trong quá trình đổi mới tư duy. Về nhóm vấn đề truyền thống, giá trị truyền thống, tư duy truyền thống có một số công trình sau: Giá trị truyền thống trước những thách thức của thời đại, Nxb Chính trị quốc gia, 2002- Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Huyên chủ biên; Về giá trị truyền thống Việt Nam, Nxb Thông tin lý luận, 1993- Nhiều tác giả; Tư duy truyền thống với quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá, T/c Triết học số 8/2001 – Vũ Văn Viên... Các nghiên cứu này đã thể hiện nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề truyền thống, bản sắc văn hoá, kết hợp giữa truyền thống và hiện đại trong giữ gìn bản sắc văn hoá Việt Nam, đặc biệt là về đặc trưng tư duy Việt Nam truyền thống, những giá trị và hạn chế của nó trong thời đại khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế hiện nay. 2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nƣớc Vấn đề tư duy, kinh nghiệm, tư duy kinh nghiệm đã được nghiên cứu trong suốt lịch sử phát triển tư tưởng. Từ Aristốt, Bêcơn, Hium, Lôccơ, Cantơ, Avênariut... cho đến triết học Mác đều đã đề cập và tìm cách luận giải về bản chất tư duy, tư duy kinh nghiệm, quan hệ giữa kinh nghiệm và lý luận từ những
  9. 8 lập trường khác nhau. Triết học tư sản hiện đại với đại biểu của các trào lưu triết học như: triết học hiện tượng (Huséc), triết học thực dụng (J.Dewey), triết học hiện sinh (J.P. Sartre), triết học thực chứng (Popper) nghiên cứu về kinh nghiệm như là hoạt động có tính bản năng tự nhiên hoặc là trải nghiệm của cá nhân chứ chưa khái quát những biểu hiện về mặt xã hội của nó cũng như quá trình hình thành kinh nghiệm trong sự tác động của con người với hiện thực. Các nhà triết học mác xít ( đại diện là các nhà triết học Liên xô) đã nghiên cứu kinh nghiệm một cách hệ thống hơn với tư cách là một hình thức, một cấp độ, một phương pháp trong quá trình tư duy và nhận thức khoa học trong mối liên hệ với lý luận như là cái riêng và cái chung, cái hiện tượng và cái bản chất... Về những vấn đề có liên quan, một số công trình như Lôgíc học, Nxb Giáo dục, 1974- Đ.P.Gorki; Lôgíc học biện chứng, Nxb Văn hoá thông tin, 2002- E.V. Ilenkop; Bách khoa toàn thư triết học, mục “tư duy”, Nxb Tư tưởng M, 1964- A.Lêonchiep... có những nghiên cứu về bản chất tư duy, tư duy khoa học, các loại hình tư duy, truyền thống, giá trị truyền thống, năng lực tư duy, các phương pháp tư duy, tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận. Những nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước hết sức phong phú về những vấn đề có liên quan đến chủ đề nghiên cứu của luận văn. Kế thừa những tư tưởng đó, đồng thời cập nhật những yêu cầu mới về nhận thức và thực tiễn ở Việt Nam thời gian qua, trong phạm vi một luận văn thạc sĩ, tác giả tiếp tục nghiên cứu và trình bày một cách có hệ thống về tư duy kinh nghiệm từ bình diện triết học, những đặc điểm của nó, trên cơ sở đó phân tích ảnh hưởng của tư duy kinh nghiệm đến công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn Mục đích của luận văn là nghiên cứu, làm rõ bản chất của tư duy kinh nghiệm, phân tích những ảnh hưởng của nó đến công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những tác động tiêu cực của
  10. 9 tư duy kinh nghiệm trong đời sống nhận thức và thực tiễn xã hội hiện nay ở nước ta. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ cụ thể sau: - Từ lập trường duy vật biện chứng làm rõ bản chất và những đặc điểm của tư duy kinh nghiệm. - Phân tích những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của tư duy kinh nghiệm đến quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay. - Đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế của tư duy kinh nghiệm, phát triển năng lực tư duy nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn 4.1. Cơ sở lý luận Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là những nguyên lý của nhận thức luận mác xit. Luận văn dựa trên cơ sở các quan điểm lý luận của Đảng thể hiện trong các Văn kiện đại hội Đảng, cương lĩnh xây dựng đất nước, các Nghị quyết Trung ương, đồng thời luận văn còn tham khảo các quan điểm trong các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về các vấn đề có liên quan. 4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử và lôgíc, phương pháp đi từ trìu tượng đến cụ thể.
  11. 10 5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Làm rõ những đặc điểm của tư duy kinh nghiệm, ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của nó đối với công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta. - Đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những mặt hạn chế của tư duy kinh nghiệm để nâng cao năng lực tư duy của người Việt Nam đáp ứng các yêu cầu của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ nét hơn về bản chất của tư duy kinh nghiệm trong lý luận nhận thức mác xít. Qua đó, luận văn góp phần nhận diện những đặc điểm của tư duy kinh nghiệm, vị trí, vai trò cũng như những hạn chế của nó trong việc nhận thức và cải tạo hiện thực của con người nói chung, đối với công cuộc đổi mới của đất nước ta nói riêng. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập và nghiên cứu lý luận nhận thức và những vấn đề đặt ra về đổi mới tư duy đáp ứng cho công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
  12. 11 Chƣơng I BẢN CHẤT, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA TƢ DUY KINH NGHIỆM 1.1.Tƣ duy và tƣ duy kinh nghiệm 1.1.1. Khái niệm “Tư duy” Tư duy là vấn đề xuyên suốt lịch sử triết học. Việc trả lời câu hỏi “tư duy là gì”, “bản chất của tư duy là gì”, vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại là giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Xung quanh việc làm sáng tỏ các vấn đề về quan hệ giữa tư duy và tồn tại, tư duy và thực tiễn, tư duy và cảm tính, khả năng đạt được chân lý khách quan của tư duy, vấn đề bản chất của tư duy đã được giải quyết theo các lập trường khác nhau trong suốt lịch sử triết học, do đó việc đưa ra một định nghĩa ở tầm triết học về tư duy là một vấn đề hết sức phức tạp. Xuất phát từ lập trường triết học duy vật biện chứng mác xít, các nhà triết học, lôgíc học đã đưa ra một số định nghĩa khác nhau về khái niệm “tư duy”: A.Leonchiep cho rằng: “Tư duy là trình độ cao của nhận thức mà con người có được, là quá trình phản ánh thực tế khách quan. Tư duy tạo ra tri thức về những thuộc tính, mối liên hệ và quan hệ cơ bản của thực tế khách quan, trong quá trình nhận thức nó thực hiện sự chuyển đổi nhận thức từ “hiện tượng đến bản chất”,… Tư duy là sự phản ánh hiện thực một cách gián tiếp hoá, qua nhiều khâu trung gian, … Tư duy là hoạt động tích cực nhào nặn các tài liệu kinh nghiệm cảm tính [73, tr.514]. A.G.Spirkin quan niệm: “Tư duy là hình thái cao của sự phản ánh thực tế khách quan một cách tích cực, đó là sự nhận thức gián tiếp hoá, khái quát hoá và có mục đích do chủ thể đặt ra nhằm nắm được những mối liên hệ, quan hệ cơ bản của các sự vật và hiện tượng, tạo ra các ý niệm mới và đi sâu vào bản
  13. 12 chất của các sự kiện và quá trình. Tư duy xuất hiện và thực hiện trong quá trình người ta đặt ra và giải quyết các vấn đề thực tiễn và lý luận” [76, tr.391]. Trong mục từ “tư duy”, Từ điển Triết học, Nxb Tiến bộ, Mat-xcơ- va, năm 1975, tr.634 viết: “ Tư duy- sản phẩm cao nhất của cái vật chất được tổ chức một cách đặc biệt là bộ não, là quá trình phản ánh tích cực thế giới khách quan trong các khái niệm, phán đoán, lý luận, v.v…” [60, tr.634]. Tương tự như vậy, Từ điển Triết học, Nxb Tiến bộ, Mat-xcơ-va, năm 1984, tr.422 viết: “ Tư duy là quá trình tích cực qua đó thế giới khách quan được phản ánh trong các khái niệm, phán đoán, lý thuyết,.v.v…, và nó gắn với việc giải quyết các vấn đề; là sản phẩm cao nhất của dạng vật chất được tổ chức một cách đặc biệt, đó là bộ não” [75, tr.422]. Từ điển Bách khoa Xô viết, Nxb Tiến bộ, Mat-xcơ-va năm 1986, tr.851 viết: “ Tư duy là trình độ cao của nhận thức mà con người có được, của quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Nó tạo ra tri thức về các khách thể, các thuộc tính và quan hệ của thế giới thực tại mà trình độ nhận thức cảm tính trực tiếp không thể nắm bắt được” [74, tr.851]. N.I.Kandakop khẳng định: “ Tư duy là trình độ cao trong sự phát triển của hoạt động tinh thần, lý luận của con người, đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin xác định như là “quá trình sản xuất ý niệm, biểu tượng, ý thức”…Khác với nhận thức cảm tính là trình độ nhận thức chỉ phản ánh các hiện tượng, cái vẻ bên ngoài và những thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng; tư duy phát triển dưới các hình thức trìu tượng như các khái niệm, phán đoán, suy lý, giả thuyết, lý thuyết… Tư duy là trình độ nhận thức gián tiếp hoá chứ không phải là trình độ nhận thức trực tiếp các sự vật, hiện tượng của thực tế khách quan,… Tư duy không chỉ là trình độ nhận thức gián tiếp hoá mà còn là trình độ nhận thức khái quát hoá các sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài,…” [71, tr.366-368].
  14. 13 Còn V.A.Lektorski cho rằng: “ Tư duy là quá trình giải quyết các vấn đề, đó là quá trình chuyển dịch từ các điều kiện tạo lập vấn đề đến việc thu nhận các kết quả giải quyết vấn đề đặt ra. Tư duy định hướng hoạt động kiến tạo tích cực nhằm kiến tạo lại những dữ liệu ban đầu bằng các thao tác phân tích, tổng hợp, bổ sung” [72, tr.626]. Như vậy, A. Leonchiep nhấn mạnh năng lực tư duy tạo ra bước nhảy vọt của nhận thức từ “hiện tượng đến bản chất” của sự vật, hiện tượng bằng cách nhào nặn các tài liệu kinh nghiệm, thực tiễn. A.G.Spirkin quan tâm đến tính sáng tạo có mục đích của tư duy trong quá trình con người đặt ra và giải quyết các vấn đề thực tiễn và lý luận nhằm đi sâu vào bản chất của đối tượng mà tư duy phản ánh. Còn N.I.Kandakop vạch rõ ranh giới giữa nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) và nhận thức lý tính (tư duy trìu tượng), nhấn mạnh năng lực trìu tượng hoá, khái quát hoá của tư duy, những năng lực mà nhận thức cảm tính không thể có được. Mặc dù nhấn mạnh những đặc trưng cơ bản khác nhau của tư duy, song các tác giả đều nhất trí với nhau ở lập trường duy vật biện chứng khi khẳng định đặc trưng cơ bản của tư duy là năng lực phản ánh mang tính nhận thức của con người. Đặc điểm của năng lực phản ánh ở trình độ tư duy là phản ánh gián tiếp, trìu tượng hoá, khái quát hoá và mang tính tích cực của chủ thể nhận thức. Nội hàm của hai khái niệm “tư duy” và “nhận thức” có sự thống nhất và khác biệt. Nhận thức là một quá trình bắt đầu từ thực tại khách quan đến giai đoạn tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Quá trình nhận thức bao gồm hai giai đoạn: nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Tư duy chính là giai đoạn cao của nhận thức- nhận thức lý tính, nhận thức bằng khái niệm. Trong giai đoạn này, diễn ra các thao tác trừu tượng hoá, khái quát hoá, đồng thời thông qua các thao tác đó, tri thức của con người được liên kết lại nhằm mục đích nắm bắt những dấu hiệu, thuộc tính bản chất của đối tượng.
  15. 14 Trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tiếp thu có lựa chọn những điểm hợp lý ở những định nghĩa đã nêu và dựa trên nguyên tắc lôgíc của việc định nghĩa một khái niệm, chúng tôi đưa ra khái niệm sau về tư duy để làm công cụ cho giải quyết những vấn đề tiếp theo của luận văn: Tư duy là quá trình phản ánh hiện thực một cách gián tiếp, mang tính trừu tượng hoá, khái quát hoá và sáng tạo của chủ thể nhận thức, nhằm mục đích nhận thức những mối liên hệ bản chất của hiện thực khách quan. Xét theo trình độ phát triển, có thể phân tư duy thành: tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận. 1.1.2. Bản chất của tư duy kinh nghiệm Tư duy kinh nghiệm là một khái niệm có quan hệ chặt chẽ với khái niệm kinh nghiệm. Vì vậy, để hiểu rõ bản chất của tư duy kinh nghiệm, chúng ta cần nắm rõ bản chất của kinh nghiệm, tri thức kinh nghiệm. Đây là vấn đề quan trọng của nhận thức luận và đã dành được sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều nhà triết học trong lịch sử. Chủ nghĩa duy vật trước Mác, từ Đêmôcrít, đến F.Bêcơn, Lốccơ, Điđrô, cho đến Phoibắc, đều thống nhất khi cho rằng kinh nghiệm đồng nhất với cảm giác. Kinh nghiệm có nguồn gốc khách quan, được hình thành nhờ sự tác động của thế giới khách quan vào giác quan của con người. Kinh nghiệm chỉ phản ánh được những thuộc tính bề ngoài, hình thức của thế giới vật chất. Song mọi tri thức đều được bắt nguồn từ kinh nghiệm. Chủ nghĩa duy tâm lại coi kinh nghiệm là một dạng thức chủ quan, thần bí. Platon cho rằng kinh nghiệm là một dạng thức tinh thần thuần túy, phản ánh những tri thức không chân thực. Beccơly coi kinh nghiệm là những phức hợp cảm giác. Hêghen khẳng định kinh nghiệm thuộc về lĩnh vực tâm lý, là sự tha hoá của ý niệm tuyệt đối, phản ánh ý niệm tuyệt đối thông qua giới tự nhiên.
  16. 15 Aristốt có một cái nhìn khác về kinh nghiệm khi cho rằng kinh nghiệm là cái được sản sinh từ bên ngoài, chỉ nhận thức được các hình thức của vật chất, giống như chất sáp in dấu của nhẫn vàng. Đềcáctơ- đại diện cho chủ nghĩa duy lý khẳng định kinh nghiệm chỉ là những quan điểm mơ hồ, dễ nhận thức sai lầm về thế giới đối tượng. Các nhà bất khả tri luận lại cho rằng kinh nghiệm là sự tổng hợp tri giác chủ quan cảm tính (Hium). I.Kant thì cho rằng kinh nghiệm được hình thành từ hai giai đoạn cảm tính, giác tính, thể hiện trình độ lôgíc thông thường, không đầy đủ, chỉ ra những đặc tính riêng lẻ của sự vật. [ Các khái quát trên theo 67,28]. Các nhà triết học tư sản cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, đã đặt ra và nghiên cứu một cách sâu sắc hơn vấn đề kinh nghiệm. Khái niệm kinh nghiệm được giải thích một cách khác nhau thông qua bốn trào lưu triết học tiêu biểu: [theo 17] Trong hiện tượng học, Huséc coi kinh nghiệm là cái trực quan cảm tính biểu hiện trong quan hệ “cái sống thực tâm lý” và “cái sống thực luận lý” đối với thế giới bên ngoài. J.P.Sactre - đại biểu của triết học hiện sinh đã coi kinh nghiệm là thế giới nội tâm của những cảm xúc, là một dạng hoạt động mang tính bản ngã tự nhiên của mỗi “cá sinh”, là sự thể nghiệm trực tiếp của chủ thể. Triết học thực dụng với đại biểu là J.Dewey đồng nhất kinh nghiệm với kinh nghiệm sống của cá nhân, là dạng thích ứng theo bản năng một cách có lợi nhất cho hoạt động sống của mỗi cá nhân. Triết học thực chứng mới coi kinh nghiệm là những cảm giác, cảm xúc cá nhân của con người không mang nội dung khách quan. Các quan điểm về kinh nghiệm của triết học tư sản hiện đại hoặc mới chỉ ra một số đặc tính của kinh nghiệm, hoặc coi kinh nghiệm là nguồn gốc của tri thức nhưng giải thích bản chất kinh nghiệm một cách duy tâm là hoạt động bản
  17. 16 năng tự nhiên, là tri thức chủ quan của chủ thể nhận thức mà chưa lột tả được bản chất của kinh nghiệm trong hoạt động nhận thức của con người. Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã vạch ra nguồn gốc, bản chất, vai trò và ý nghĩa của kinh nghiệm trong quá trình nhận thức thế giới khách quan của con người. Khẳng định nguồn gốc khách quan cũng như vai trò, hạn chế của kinh nghiệm trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người, C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết: “Nếu như người ta thu được mọi tri thức và cảm giác, v.v., của mình từ thế giới cảm tính và từ kinh nghiệm trong thế giới cảm tính thì do đó cần phải tổ chức thế giới xung quanh sao cho người ta nhận thức và lĩnh hội được ở đó cái gì thực sự hợp với tính người,…” [5, tr.199]. Làm rõ hơn tư tưởng này về bản chất của kinh nghiệm, Ph.Ăngghen khẳng định: “sự quan sát dựa vào kinh nghiệm, tự nó không bao giờ có thể chứng minh đầy đủ tính tất yếu” [6, tr.718]. Chỉ ra hạn chế của kinh nghiệm, nhưng Ph.Ăngghen cũng khẳng định vai trò của nó trong quá trình phát triển nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người: “Hiện nay, không nhất thiết là mỗi cá thể riêng biệt cứ phải trải qua tất cả để có kinh nghiệm mà trên một mức độ nào đó, kinh nghiệm cá biệt của nó có thể được thay thế bằng kết quả của những kinh nghiệm của hàng loạt tổ tiên nó” [6, tr.767]. Đồng thời, ông đã chỉ ra mối liên hệ biện chứng giữa kinh nghiệm và lý luận với tư cách là những trình độ của nhận thức và nếu tuyệt đối hoá kinh nghiệm, “chỉ dựa vào thực nghiệm” mà “coi khinh tư duy” thì người ta đã “ngăn chặn con đường của mình tiến từ sự hiểu biết cái cá biệt đến sự hiểu biết cái toàn thể, đến sự thấu suốt mối liên hệ phổ biến của sự vật”[6, tr.491]. Theo Ph.Ăngghen, đó là con đường tất yếu dẫn đến chủ nghĩa thần bí. Phát triển những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về bản chất của kinh nghiệm, trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, V.I.Lênin đã khẳng định sự tham gia của tư duy trừu tượng vào kinh nghiệm khi phê phán quan điểm “quy luật không hề thuộc phạm vi của kinh
  18. 17 nghiệm” của Bôgđanop. Ông viết: “Như vậy là cái quy luật thu qua thì đông tới, đông đi thì xuân đến, không phải là do kinh nghiệm đem đến cho ta mà là do tư duy tạo ra làm một phương tiện để tổ chức, để làm cho hài hoà, sắp xếp… cái gì với cái gì…” [29, tr.201]. Song, V.I.Lênin cũng khẳng định điều kiện để kinh nghiệm tham gia nhận thức quy luật là: “kinh nghiệm của những cá nhân được tổ chức về mặt xã hội” [30, tr.609]. Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng, chúng tôi đưa ra một số khái quát chung về kinh nghiệm như sau: Kinh nghiệm là những tri thức được rút ra một cách trực tiếp trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người nhằm cải tạo thế giới. Kinh nghiệm được hình thành nhờ tác động của thế giới khách thể vào chủ thể nhận thức trong quá trình hoạt động của con người cải tạo và nhận thức thế giới khách quan. Trong quá trình đó, con người trực tiếp thu nhận, tích luỹ và từ đó hình thành những thông tin nhất định về khách thể. Những thông tin này mới chỉ phản ánh được một số thuộc tính đơn giản của đối tượng. Trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người, cùng với những kỹ năng hoạt động, những thông tin này được lặp đi, lặp lại và củng cố, tập hợp thành những tri thức mang tính trực tiếp, đó là kinh nghiệm. Như vậy, xét về mặt hình thức thì kinh nghiệm là một dạng của ý thức, tư duy, nó thuộc về cái chủ quan, là tính thứ hai, về mặt nội dung, kinh nghiệm mang nội dung khách quan, là sự phản ánh thế giới khách quan. Vì thế kinh nghiệm không phải là cái thụ động mà với tư cách là một hình thức của ý thức, tư duy, kinh nghiệm là sự phản ánh tích cực của con người về thế giới khách quan trong hoạt động thực tiễn của mình. Kinh nghiệm là một trình độ phản ánh hiện thực khách quan của con người. Những tri thức kinh nghiệm là những tri thức chân thực về thế giới khách quan, nó bao gồm cả những thuộc tính mang tính bản chất cũng như những mối liên hệ bản chất của sự vật, hiện tượng trong những phạm vi nhất định của hoạt động thực tiễn.
  19. 18 Kinh nghiệm không phải là những tài liệu cảm tính như cảm giác, tri giác… mà là kết quả của tư duy trìu tượng - của giai đoạn nhận thức lý tính, Vì vậy, tri thức kinh nghiệm có nội dung sâu xa hơn rất nhiều so với những tri thức cảm tính. Chẳng hạn, hiện tượng chân trời có màu vàng rực báo hiệu cho những người đi biển biết chuẩn bị có bão. Để hình thành kinh nghiệm về hiện tượng chuẩn bị có bão, đã có sự tham gia của lý tính, của tư duy trừu tượng có sự giúp đỡ của phép qui nạp, từ đó suy ra cứ có hiện tượng chân trời màu vàng rực là sắp có bão. Như vậy, dựa vào một hiện tượng tự nhiên này, do tính lặp đi lặp lại của nó, người ta hình thành một tri thức mang tính tất yếu về một hiện tượng tự nhiên khác. Ở một mức độ nào đó, hiện tượng này đã mang tính qui luật, song cơ chế tác động của qui luật đó diễn ra như thế nào thì bản thân kinh nghiệm chưa giải quyết được, mà phải nhờ đến lý luận khoa học. Về trình độ phản ánh, những tri thức kinh nghiệm thường hạn hẹp, nông cạn hơn những tri thức lý luận. Những tri thức kinh nghiệm thường chưa phản ánh đầy đủ các tính chất của sự vật, hiện tượng so với tri thức lý luận. Đôi khi, tri thức kinh nghiệm còn thiếu chính xác. Bởi vì, sự hình thành tri thức kinh nghiệm thường là kết quả của quá trình quy nạp giản đơn, nên nó không thể thoát khỏi những hạn chế của phép quy nạp- đó là tính đúng đắn của kết luận có thể không chính xác mặc dù tư duy người ta qui nạp dựa trên những tiền đề chính xác. Tri thức kinh nghiệm được hình thành, thông qua quan hệ trực tiếp giữa chủ thể nhận thức và khách thể hiện thực trong hoạt động thực tiễn bằng quan sát, thực nghiệm và những trao đổi thông tin có tính trực tiếp khác. Tri thức kinh nghiệm mới chỉ dừng lại ở sự phản ánh những sự kiện cục bộ, riêng lẻ, sự phản ánh một mặt, một khía cạnh hay một mối liên hệ nào đó của sự vật, hiện tượng. Ngay cả khi cùng phản ánh nhiều sự kiện, nhiều mặt, nhiều mối liên hệ, thì tri thức mà nó đem lại vẫn mang đặc trưng ở mức độ kinh nghiệm. Bản thân tri thức kinh nghiệm chưa thể bao quát đối tượng, chưa phải là tri thức chỉnh thể về sự vật, chỉ là sự phản ánh tổng số giản đơn những liên hệ chứ
  20. 19 chưa phản ánh mối liên hệ tất yếu, mới phản ánh những lớp thuộc tính nhất định chứ chưa phản ánh tính bản chất phổ biến của sự vật, hiện tượng. Trong quá trình nhận thức kinh nghiệm, tư duy kinh nghiệm, mức độ trừu tượng hoá và khái quát hoá của tư duy còn hạn chế, nên tri thức kinh nghiệm thường phản ánh bản chất của sự vật kém hơn tri thức lý luận - là những tri thức được hình thành từ trình độ khái quát hoá và trừu tượng hoá cao của tư duy. Do đó, tri thức kinh nghiệm thường thiếu đầy đủ so với tri thức lý luận khoa học về trình độ phản ánh cái bản chất, cái quy luật của sự vật, hiện tượng. Những tri thức kinh nghiệm mang đậm dấu ấn trực tiếp, trực giác và mảnh đoạn; mà chưa mang tính hệ thống và phổ quát về quy luật của sự vật, hiện tượng như tri thức lý luận khoa học. Đằng sau những sự kiện, thuộc tính mà kinh nghiệm phản ánh, còn ẩn dấu những quan hệ phức tạp hơn, sâu xa hơn mà con người không thể tiếp cận một cách trực tiếp được - đó là mảnh đất của lý luận khoa học. Tuy nhiên, kinh nghiệm là điểm xuất phát, tiền đề quan trọng không thể thiếu trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn. Kinh nghiệm trước hết là nguồn tư liệu cần thiết để cho quá trình nhận thức tiếp tục đạt tới trình độ cao hơn - trình độ lý luận. Kinh nghiệm càng phong phú, thì càng tạo ra nhiều dữ kiện cho việc khái quát lý luận. Trong quá trình nhận thức, kinh nghiệm đóng vai trò làm chiếc cầu chuyển tải những thông tin, tri thức từ thế giới đối tượng vào tư duy, được tư duy hệ thống hoá tạo nên những tri thức lý luận và ngược lại nó cũng đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm tra tính đúng đắn của các giả thuyết khoa học lý luận trong thực tiễn. Có thể nói rằng, tri thức kinh nghiệm cung cấp chất liệu, là cơ sở để hình thành lý luận khoa học. Trong lịch sử, lý luận khoa học là kết quả của sự tổng kết, khái quát một cách sáng tạo những kinh nghiệm hiện có. Mặc dù lý luận không phải bao giờ cũng hình thành trực tiếp từ kinh nghiệm và bản thân lý luận cũng có tính vượt trước hiện thực, song suy đến cùng thì không có lý luận thuần tuý cũng như không có
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2