intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Triết học: Phật giáo đồng hành cùng dân tộc và Chủ nghĩa xã hội

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:109

45
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn khái quát một số vấn đề lý luận chung về đạo đức và phân tích những nội dung cơ bản về tư tưởng giáo dục trong Giới luật Phật giáo; trình bày thực trạng và những yêu cầu về đạo đức thanh niên ở nước ta hiện nay; phân tích một số ảnh hưởng của Giới luật Phật giáo trong giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Phật giáo đồng hành cùng dân tộc và Chủ nghĩa xã hội

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------- HOÀNG VĂN NAM (Thích Trí Như) ẢNH HƯỞNG CỦA GIỚI LUẬT PHẬT GIÁO TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Hà Nội - 2010
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------- HOÀNG VĂN NAM (Thích Trí Như) ẢNH HƯỞNG CỦA GIỚI LUẬT PHẬT GIÁO TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Tôn giáo học Mã số: 60 22 80 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Giáo viên hướng dẫn: TS. Dương Văn Duyên Hà Nội - 2010
  3. 108 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................ 1 2. Tình hình nghiên cứu ..................................................................... 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận văn ................................. 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................. 5 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................... 6 6. Đóng góp của luận văn ................................................................... 6 7. Ý nghĩa của luận văn ...................................................................... 6 8. Kết cấu của luận văn ...................................................................... 6 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC, TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC TRONG GIỚI LUẬT PHẬT GIÁO ....... 7 1.1. Một số vấn đề lý luận chung về đạo đức .................................... 7 1.2. Tư tưởng giáo dục đạo đức trong Giới luật Phật giáo. ............ 19 1.2.1. Khái quát một số nét chung về Giới luật Phật giáo ................ 19 1.2.2. Nội dung tư tưởng giáo dục đạo đức trong Giới luật Phật giáo . 24 1.2.3. Ý nghĩa của Giới luật trong giáo dục đạo đức con người ....... 38 Chương 2: THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG CỦA GIỚI LUẬT PHẬT GIÁO TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY ..................................... 48 2.1. Thực trạng và những yêu cầu về đạo đức đối với thanh niên Việt Nam hiện nay ............................................................................ 48 2.2.1. Thực trạng đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay................ 48 2.1.2. Yêu cầu đạo đức đối với thanh niên Việt Nam giai đoạn hiện nay .......................................................................................... 62 2.2. Một số ảnh hưởng của Giới luật Phật giáo trong giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay .................................................. 67
  4. 109 2.2.1. Ảnh hưởng của Giới luật Phật giáo tới giáo dục tư tưởng đạo đức thanh niên ................................................................................ 67 2.2.2. Ảnh hưởng của Giới luật Phật giáo trong giáo dục niềm tin và lý tưởng đạo đức cho thanh niên ..................................................... 73 2.2.3. Ảnh hưởng của Giới luật Phật giáo trong giáo dục nghĩa vụ và hành vi đạo đức thanh niên ............................................................ 82 2.3. Một số khuyến nghị nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực của Giới luật Phật giáo trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay .................................................................................... 90 KẾT LUẬN ............................................................................................. 97 TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................... 99
  5. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Phật giáo ra đời ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ VI trước Công nguyên. Người sáng lập là thái tử Tất Đạt Đa (Sidahrtha), họ Gôtama (Gautama), con vua Tịnh Phạn (một vương quốc Bắc ấn Độ) Phật giáo với tư cách là một tôn giáo đặc biệt không đề cập đến thần sáng tạo ra thế giới và con người. Khác với các tôn giáo khác (Kitô giáo: thượng đế, Đạo Islam: Thánh Allah, Đạo giáo: Trời đại la sinh ra ba Thánh, Đạo Do Thái: yaroeh (tồn tại mãi), Đạo Bàlamôn: Brahman…). Sự xuất hiện Phật giáo là nhằm phủ nhận thế giới quan của đạo Bàlamôn, chống lại sự bất bình đẳng của tôn giáo này, nó đã thể hiện tính tiến bộ, nhân văn nhất định. Phật giáo đã chứa đựng sự kết hợp hai tư cách: tôn giáo và triết học. Với sự hoà quện cả hai tư cách tôn giáo và triết học, Phật giáo đã sớm được truyền bá rộng rãi và có ảnh hưởng sâu sắc tới văn hoá các nước châu Á: Trung quốc, Nhật Bản, Triều Tiên… và Việt Nam. Hiện nay, Phật giáo còn được truyền bá và phát triển trên phạm vi toàn thế giới. Phật giáo được truyền bá vào nước ta từ những năm đầu Công nguyên theo hai con đường là từ Ấn Độ và từ Trung Hoa. Phật giáo đã tồn tại ở nước ta hơn 18 thế kỷ, một chiều dài lịch sử khá đủ để dân tộc ta khẳng định và gạn lọc, khẳng định những gì tích cực và hay đẹp, gạn lọc những gì không hợp. Sự thật hiển nhiên, những tư tưởng nhân văn cao đẹp của Phật giáo trong kinh sách, nhất là trong giới luật đã ảnh hưởng không nhỏ tới lối sống, đạo đức của nhân dân Việt Nam trong mấy nghìn năm từ rất nhiều thế hệ và thuộc mọi tầng lớp. Giới luật là một trong những nội dung quan trọng nhất trong giáo lý của Phật giáo. Giới luật hàm chứa những nội dung tư tưởng giáo dục đạo đức, nhân cách cao đẹp không chỉ đối với người tu hành mà còn ảnh hưởng
  6. 2 tốt đối với nhiều người trong xã hội. Đặc biệt, đối với nước ta trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, dưới sự tác động của kinh tế thị trường, những luồng tư tưởng văn hóa ngoại lai xâm nhập làm thay đổi đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ các tầng lớp trong xã hội cả theo hướng tích cực và tiêu cực. Thanh niên là một tầng lớp quan trọng trong xã hội, là tương lai của đất nước, là những người đóng góp quan trọng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thanh niên cũng là thế hệ trẻ trung, năng động và dễ bị sức cuốn của những luồng tư tưởng văn hóa ngoại lại, dễ bị tiêm nhiễm những thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội như: lười lao động, trộm cắp, cờ bạc, nghiện hút… Vì vậy, việc giáo dục một lối sống có đạo đức cho thanh niên ngày nay là rất cần thiết cho toàn xã hội, để họ xứng đáng là những người sung sức trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, nghiên cứu ảnh hưởng của Giới luật Phật giáo đối với đạo đức thanh niên ở nước ta hiện nay không chỉ có ý nghĩa giáo dục truyền thống đạo đức, định hướng lý tưởng sống mà còn hướng tới một xã hội chân, thiện, mỹ, theo đúng tinh thần hành đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam: “Phật giáo đồng hành cùng dân tộc và Chủ nghĩa xã hội”. 2. Tình hình nghiên cứu Nghiên cứu về Phật giáo và Giới luật Phật giáo trong lịch sử và hiện tại ở Việt Nam đã có khá nhiều công trình, có thể kể đến một số công trình điển hình sau đây: Các bộ phái Phật giáo tiểu thừa, tác giả André Bareau, Pháp Hiền dịch, Nxb.Tôn giáo, Hà Nội, năm 2003; Kimura Taiken với tác phẩm Nguyên Thủy Phật giáo tư tưởng luận, tác giả Thích Quảng Độ dịch, Nxb.Tôn giáo, năm 2007; Lưu Vô Tâm với tác phẩm Phật học khái lược, Nxb.Tôn giáo, Hà Nội, năm 2002; Thích Minh Chánh với Luật học toát yếu, Nxb. Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1986; Thích Thiện Chơn với Giới học, Nxb. Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2009; Thích Tuệ Đăng với Giới luật học cương yếu, Nxb.
  7. 3 Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2000…. Nhìn chung các công trình kể trên đề cập đến các nội dung nghiên cứu về lịch sử Phật giáo, nguồn gốc ra đời, giáo lý của Phật giáo nguyên thủy, các vấn đề về giới luật trong Phật giáo dành cho người xuất gia cũng như người tại gia một cách rất cụ thể dưới góc độ tiếp cận của thần học và tôn giáo. Nghiên cứu về đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay có một số công trình tiêu biểu sau: Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay vấn đề và giải pháp của tác giả Nguyễn Duy Quý chủ biên; Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Phúc đồng chủ biên; Một số vấn đề lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội của tác giả Huỳnh Khái Vinh chủ biên; Lý tưởng đạo đức và việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh niên trong điều kiện hiện nay của Đoàn Văn Khiêm; Giáo dục nhân cách cho tuổi trẻ của Phan Hà Sơn, Phát triển lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho thanh niên Việt Nam hiện nay của Nguyễn Đức Tiến….Các công trình trên đã khái quát được những nội dung chính về tình hình, thực trạng cũng như xu hướng biến đổi của đạo đức thanh niên nước ta hiện nay. Những giá trị đạo đức thanh niên trong bối cảnh đổi mới của đất nước cũng như mặt hạn chế trong đạo đức thanh niên trước tác động của cơ chế thị trường, thông qua đó đề xuất các giải pháp khác nhau nhằm xây dựng và hoàn thiện đạo đức thanh niên trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Nghiên cứu về đạo đức Phật giáo có các công trình sau: “Đạo đức Phật giáo trong thời hiện đại” của Trần Văn Giàu, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1993; Đặng Thị Lan với “Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người Việt Nam”, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, năm 2006; Tạ Chí Hồng với “Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong đời sống đạo đức của xã hội Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội, năm 2004; Hoàng Thị Lan với “Ảnh hưởng của đạo đức tôn giáo đối với đạo đức trong xã hội
  8. 4 Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội, năm 2004; Nguyễn Phan Quang với “Có một nền đạo lý ở Việt Nam”, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1996; … Trong đó tiêu biểu là công trình “Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người Việt Nam”, của Đặng Thị Lan, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, năm 2006. Công trình này về cơ bản hệ thống hóa được một phần nào đó những tư tưởng cơ bản của đạo đức Phật giáo: những giá trị, chuẩn mực đạo đức Phật giáo và sự ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo với đạo đức truyền thống Việt Nam, đạo đức Phật giáo với việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của đạo đức Phật giáo. Có thể đánh giá đây là một công trình nghiên cứu công phu và có chất lượng, tác giả đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề dưới góc độ tiếp cận của triết học và tôn giáo học để chỉ ra những tác động tích cực và tiêu cực của Phật giáo trong đời sống đạo đức con người Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề đạo đức Phật giáo với đạo đức thanh niên Việt Nam và cụ thể hơn là ảnh hưởng của Giới luật Phật giáo với giáo dục đạo đức thanh niên nước ta hiện nay mới chỉ được tác giả đề cập đến trong công trình của mình một cách khái quát nhất, chưa có sự phân tích theo hướng chuyên sâu. Ngoài ra, trên một số tạp chí nghiên cứu mà điển hình là Tạp chí Triết học, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Tạp chí Công tác tôn giáo, Tạp chí lý luận chính trị cũng có một số bài đề cập tới Phật giáo, Giới luật Phật giáo và đạo đức Phật giáo, đạo đức thanh niên Việt Nam. Đặng Thị Lan với Đạo đức Phật giáo với đạo đức truyền thống Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, số 2 năm 2002; Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến việc giáo dục đạo đức con người Việt Nam hiện nay, Tạp chí Giáo dục Lí luận, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Phân viện Hà Nội, số
  9. 5 11/ 2002; Tìm hiểu về tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, số 1/ 2003; Phật giáo với đạo đức, tâm lí, lối sống người Việt, Tạp chí Giáo dục Lí luận, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Phân viện Hà Nội, số 5/2003; Từ bi - giá trị nhân bản của đạo Phật, Kỉ yếu Hội nghị Khoa học nữ lần thứ 8. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,… Điểm qua tình hình nghiên cứu như vậy đã cho thấy vấn đề “Ảnh hưởng của Giới luật Phật giáo trong giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay” là một chủ đề chưa được nghiên cứu. Vì vậy, chúng tôi hy vọng với đề tài này sẽ khai thác, bổ sung và khẳng định những giá trị giáo dục cao đẹp của Phật giáo, khẳng định vai trò Phật giáo trong lịch sử Việt Nam nói chung và trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay nói riêng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở lý luận mác xít luận văn phân tích làm rõ những ảnh hưởng của Giới luật Phật giáo trong giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: Thứ nhất: Luận văn khái quát một số vấn đề lý luận chung về đạo đức và phân tích những nội dung cơ bản về tư tưởng giáo dục trong Giới luật Phật giáo. Thứ hai: Trình bày thực trạng và những yêu cầu về đạo đức thanh niên ở nước ta hiện nay; phân tích một số ảnh hưởng của Giới luật Phật giáo trong giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Giới luật Phật giáo và đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay.
  10. 6 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu một số ảnh hưởng của Giới luật Phật giáo (chủ yếu là Giới luật dành cho tín đồ Phật tử) trong giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay trên các lĩnh vực: giáo dục tư tưởng đạo đức; giáo dục niềm tin và lý tưởng đạo đức; giáo dục hành vi và nghĩa vụ đạo đức. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn đựơc thực hiện trên cơ sở vận dụng các quan điểm mác xít về tôn giáo và đạo đức. Luận văn cũng tiếp thu những kết quả của các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về Giới luật Phật giáo, đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của Triết học và Tôn giáo học; phương pháp lôgíc và lịch sử, phân tích, tổng hợp, đối chiếu và so sánh. 6. Đóng góp của luận văn Phân tích, làm sáng tỏ một số ảnh hưởng của Giới luật Phật giáo trong giáo dục đạo đức thanh niên ở nước ta hiện nay. 7. Ý nghĩa của luận văn Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần vào việc tìm hiểu và phân tích được ảnh hưởng của Giới luật Phật giáo một cách có hệ thống. Ý nghĩa thực tiễn: Vận dụng những tư tưởng giáo dục trong Giới luật Phật giáo vào giáo dục thanh niên nước ta hiện nay. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy về tôn giáo nói chung và Phật giáo, đạo đức Phật giáo nói riêng, cho việc hoạch định chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước . 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục; nội dung chính của luận văn gồm 02 chương 05 tiết.
  11. 7 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC, TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC TRONG GIỚI LUẬT PHẬT GIÁO 1.1. Một số vấn đề lý luận chung về đạo đức Thuật ngữ đạo đức (moral) được hình thành rất sớm trong xã hội chiếm hữu nô lệ, khoảng thế kỷ thứ IV trước công nguyên, gắn liền với tên tuổi của nhà tư tưởng vĩ đại Aristot (384-322 trước công nguyên). Thời kỳ xa xôi người ta quan niệm đạo đức là những chuẩn mực chung nhằm điều chỉnh hành vi con người, sao cho tạo nên mối quan hệ hài hòa giữa con người với nhau, giữa con người với xã hội. Theo tiếng Hy Lạp cổ Ethos là luân lý; là thói quen; là phong tục tập quán, thông qua đó mà điều chỉnh hành vi con người. Ngoài ra Ethos còn có nghĩa là nơi cư ngụ, là quê hương, nguồn gốc, lai lịch, họ hàng. Trong Nho giáo, đạo đức được lý giải ở cương thường, hay mở rộng ra là luân thường. Đạo là chỉ những mối quan hệ nhằm duy trì một trật tự từ gia đình tới xã hội. Đó là mối quan hệ vua, tôi; cha mẹ, con cái; chồng, vợ; anh em; bạn bè. Trong 5 mối quan hệ trên, 3 mối quan hệ đầu là phục tùng, tạo thành tam cương: bầy tôi phải trung thành với vua, con cái phải phục tùng cha mẹ, vợ phải phục tùng chồng. Ta có thể hiểu “Đạo chính là đường đi lối lại của nề nếp, có phép tắc rõ ràng. Theo nghĩa đen và nghĩa bóng của từ, đạo là con đường đúng đắn từ nơi đi cho đến nơi tới. Đạo là hệ thống những nguyên lý, những phép tắc, những quy luật cơ bản của sự vận động”[15;109]. Đức là những quy định, những yêu cầu phải thực hiện cho đúng trách nhiệm của mỗi giới, mỗi người. Ví dụ như đối với nữ giới yêu cầu thực hiện tứ đức: công, dung, ngôn, hạnh. Đối với nam giới: Nhân, Lễ, Nghĩa,
  12. 8 Trí, Tín, Dũng, Liêm. Tất nhiên ở những nước khác nhau, sự ảnh hưởng của Nho giáo có khác nhau. Ở Trung Quốc thứ tự những phẩm chất được con người đề cao: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín; Ở Nhật Bản lại đề cao: Trung, Lễ, Dũng, Tín, Kiệm. Còn ở Triều Tiên đề cao: Trung, Hiếu, Tín, Nhân, Dũng. Theo Nho giáo, đạo đức là sự hướng dẫn, là sự định hướng để con người vươn tới những điều tốt đẹp. Đức là sự biểu hiện của đạo, là kết quả vận động của đạo. Đạo mà không đúng, đức cũng không có. “Đạo là cái vật phải theo, đức là vật có được do theo đạo”[15;121]. Đạo theo Nho giáo còn được hiểu là quy luật. Do vậy, trời có đạo của trời, đất có đạo của đất, người có đạo của người. Có thể nói, đạo đức là phép ứng xử có nhân phẩm giữa người này với người khác. Đạo đức luôn là mối quan hệ hai chiều, đòi hỏi mỗi người phải thực hiện theo đúng vị trí của mình trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình hay ngoài xã hội. Đạo đức là phương thức xác lập mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, là phương thức điều chỉnh quan hệ giữa cá nhân và xã hội. C.Mác cho rằng, đạo đức chính là lực lượng bản chất của con người trong sự phát triển của nó theo hướng ngày càng đạt tới giá trị đích thực của cái thiện. Đạo đức được đề cập trong Từ điển tiếng Việt là “những tiêu chuẩn, những nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội”[84;280]. Qua các ý kiến khác nhau, chúng tôi có thể khẳng định đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những hành vi và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và thông qua dư luận xã hội.
  13. 9 Đạo đức là một hiện tượng lịch sử, là sự phản ánh những mối quan hệ xã hội. Có đạo đức thời kỳ cộng sản nguyên thủy, đạo đức thời kỳ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Đạo đức có tính chất kế thừa. Một chế độ xã hội mất đi, thay thế bằng một chế độ khác, đạo đức xã hội cũ không mất đi ngay mà trong chế độ xã hội mới, đạo đức của nó kế thừa những giá trị đạo đức của xã hội cũ. Đạo đức xã hội có đạo đức thế tục, đạo đức tôn giáo. Đạo đức được cấu thành từ một số phương diện sau: Thứ nhất: Ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Đạo đức là sự thống nhất biện chứng giữa ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức (trong đó có hành vi đạo đức). Ý thức đạo đức là ý thức về hệ thống các quy tắc, các chuẩn mực hành vi đạo đức phù hợp với những quan hệ đạo đức đã và đang tồn tại trong xã hội, bao gồm cảm xúc và tình cảm đạo đức của con người. Từ tình cảm, xúc cảm đạo đức hình thành niềm tin của con người vào những điều tốt đẹp, thông qua đó mà hướng dẫn hành động của mỗi người sao cho phù hợp với những yêu cầu chung của xã hội. Nói về ý thức đạo đức trong "Giáo trình triết học Mác - Lênin" khẳng định: Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện ác, tốt xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc và những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân và xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội. Ý thức đạo đức bao gồm: Bộ phận đầu tiên là: những vấn đề nhận thức luận. Cơ sở triết học của đạo đức, chức năng, các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức. Bộ phận này bao gồm những vấn đề mang tính chất lý luận.
  14. 10 Bộ phận thứ hai: Tập hợp những chuẩn mực như thói quen, phong tục, tập quán, nếp sống..v.v. Những chuẩn mực này tồn tại trong xã hội, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Để có ý thức đạo đức con người phải có tri thức đạo đức. Tri thức đạo đức là những hiểu biết về phương diện đạo đức của con người. Tri thức đạo đức có được thông qua việc nghiên cứu lý luận đạo đức như các phạm trù, các quy luật hình thành đạo đức. Những kiến thức này được hình thành trong nhà trường, thông qua nghiên cứu sách vở. Bộ phận thứ hai là những tri thức đạo đức thông thường, được hình thành do tiếp xúc trong xã hội, hay do cha mẹ, ông bà, thầy cô dạy bảo. Bộ phận này còn được hình thành thông qua thực tiễn đạo đức. Từ thực tiễn cuộc sống đạo đức hàng ngày mà con người hình thành những tri thức, những hiểu biết đạo đức của mình. Từ những tri thức đạo đức, xã hội và mỗi con người hình thành lý tưởng đạo đức của mình. Lý tưởng là mục đích cao nhất, tốt nhất, khát vọng lớn nhất về đạo đức mà con người mong muốn đạt được. Lý tưởng đạo đức là cái cần và mong muốn đạt được một cách hoàn mỹ về mặt đạo đức. Mỗi chế độ xã hội có sự phát triển kinh tế - xã hội khác nhau. Trong xã hội có đối kháng và sự khác biệt về giai cấp thì cũng có nhiều lý tưởng đạo đức, nhưng lý tưởng đạo đức của giai cấp thống trị về kinh tế sẽ giữ vai trò thống trị trong xã hội. Lý tưởng đạo đức của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là xóa bỏ mọi tình trạng bất công, áp bức bóc lột, là xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ văn minh, xây dựng một xã hội đầy tình người trong mọi quan hệ xã hội, con người tôn trọng lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau. Lý tưởng đạo đức không phải là cái cao xa, không thể với tới, mà là cái phản ánh nguyện vọng của con người, do vậy nó từng bước được thực hiện trong cuộc sống.
  15. 11 Lý tưởng đạo đức có loại khẳng định, có loại phủ định. Cái khẳng định là những cái con người mong muốn như mọi người làm việc thiện, làm việc tốt, con người được sống yên vui, hạnh phúc. Lý tưởng phủ định là những điều mà con người không mong muốn như: bất công, trộm cắp, bạo lực tàn bạo…v.v. Những điều đó, người lương thiện không ai muốn có ở trong xã hội. Muốn cho hành vi đạo đức đúng đắn chúng ta phải có lý tưởng đạo đức đúng đắn. Muốn cho lý tưởng đạo đức đi vào trong cuộc sống biến thành hành vi đạo đức trong xã hội đòi hỏi chúng ta phải bồi dưỡng, xây dựng tình cảm đạo đức tốt đẹp ở trong mỗi con người. Tình cảm đạo đức là tình cảm bậc cao của con người, là thái độ, cảm xúc của con người trước những vấn đề đạo đức trong xã hội. Con người có sự đồng cảm với những khó khăn bất hạnh trong cuộc sống của những người khác, lúc đó họ sẽ suy nghĩ những biện pháp, cách thức giúp đỡ người đó. Con người có thái độ lên án, căm ghét những việc làm ác, những sự bất công trong xã hội, lúc đó mới dẫn dắt họ tới thái độ và hành động phản kháng tình trạng đó ở trong xã hội. Tình cảm đạo đức có một sức mạnh to lớn trong việc huy động mọi khả năng, mọi tiềm lực để vượt qua những khó khăn thách thức để làm việc thiện, tránh những việc làm ác ở trong xã hội. Tình cảm đạo đức vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan. Những hiện tượng đạo đức trong xã hội mang tính chất khách quan. Ví dụ như ăn trộm, ăn cắp, giết người vô tội đều bị coi là việc ác; giúp đỡ người khác, thương những người nghèo khổ đều được coi là việc thiện. Song tính chủ quan là quan niệm về những hiện tượng đó ở trong xã hội, tác động của nó gây ra lại mang tính chất chủ quan, phụ thuộc vào tri thức và lợi ích của mỗi người.
  16. 12 Muốn có tình cảm đạo đức đúng đắn ở mỗi người, đòi hỏi chúng ta phải giáo dục, phải có sự trải nghiệm trong cuộc sống. Làm thế nào cho mỗi người chúng ta đều có một tấm lòng cảm động trước những việc làm tốt, việc làm đúng, những tấm gương hy sinh dũng cảm của đồng bào chiến sỹ trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù, căm phẫn trước những việc làm ác, những kẻ tàn bạo, những hành động trộm cắp, cướp giật. Để thực hiện lý tưởng đạo đức trong xã hội, cần phải xây dựng những chuẩn mực đạo đức cho phù hợp với điều kiện cụ thể của quốc gia dân tộc, của mỗi địa phương, mỗi ngành nghề, mỗi công việc. Chuẩn mực đạo đức là những quy tắc xác định mẫu hành vi đạo đức cần phải theo, dựa trên lợi ích của một giai cấp, một dân tộc, một thời đại. Chuẩn mực đạo đức trong thời đại ngày nay là yêu hòa bình, yêu tự do, tôn trọng con người, căm thù trước những hành vi trộm cắp dù là dân tộc khác nhau, tôn giáo khác nhau, giai cấp khác nhau đều tuân theo những chuẩn mực đạo đức chung đó. Tính dân tộc của những chuẩn mực đạo đức luôn là một trong những yếu tố tạo nên bản sắc đặc thù của dân tộc đó. Các dân tộc khác nhau có trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau, có chế độ chính trị khác nhau, có nền văn hóa khác nhau nên có những chuẩn mực đạo đức khác nhau, thậm chí còn trái ngược nhau. Những chuẩn mực đạo đức của dân tộc Việt Nam hiện nay là tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết, tinh thần cộng đồng và tính nhân văn. Những chuẩn mực này được hình thành do điều kiện sản xuất lúa nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm của người dân Việt Nam. Tính giai cấp của chuẩn mực đạo đức phụ thuộc vào lợi ích của các giai cấp. Yêu nước trong thời kỳ phong kiến theo lập trường của giai cấp phong kiến. Yêu nước Việt Nam hiện nay là phải gắn với xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Yêu nước trong thời đại ngày nay
  17. 13 phải thể hiện trong lao động sản xuất, trong học tập để xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Yêu nước hiện nay phải thể hiện trong đấu tranh bảo vệ sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ quan điểm đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo vệ sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta. Trong một xã hội có nhiều công việc khác nhau, nhiều ngành nghề khác nhau, ở mỗi một ngành nghề, một công việc đó lại có những biểu hiện về chuẩn mực đạo đức khác nhau. Xã hội cần xây dựng những chuẩn mực đạo đức để làm cơ sở cho mọi người lấy đó làm tiêu chuẩn rèn luyện phấn đấu, lấy đó làm cơ sở để đánh giá mỗi con người. Ví dụ cùng là tinh thần yêu nước nhưng người công nhân phải thể hiện trong sản phẩm lao động của mình, phải lao động có trách nhiệm với năng suất cao, chất lượng tốt, phải thích ứng được cơ chế thị trường. Người cán bộ công chức nhà nước phải thể hiện trong trách nhiệm trước công việc của mình, phải hoàn thành những trách nhiệm công việc mà xã hội giao cho, phải xem xét giải quyết những công việc cho nhân dân như giải quyết công việc của chính mình. Tinh thần yêu nước của người bác sỹ phải thể hiện trong công việc hàng ngày, phải hết lòng chăm sóc bệnh nhân, phải thực hiện "lương y như từ mẫu", không được gây phiền hà, khó dễ cho bệnh nhân. Tinh thần yêu nước của lực lượng vũ trang, công an, quân đội phải thể hiện trong công việc bảo vệ an ninh, trật tự xã hội, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Tinh thần yêu nước của học sinh, sinh viên phải thể hiện trong ý thức học tập, tinh thần vượt khó để nắm vững kiến thức khoa học, không ngừng sáng tạo để có một kiến thức vững vàng phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau này. Trên cơ sở ý thức đạo đức, con người ta hành động thể hiện ra bên ngoài, tạo thành hành vi đạo đức. Thực tiễn đạo đức (hành vi đạo đức) là hành động của con người do ảnh hưởng niềm tin, của ý thức đạo đức, là
  18. 14 quá trình hiện thực hóa niềm tin, lý tưởng đạo đức thành hiện thực trong đời sống xã hội. Ý thức đạo đức và hành vi đạo đức có quan hệ gắn bó với nhau. Có ý thức đạo đức đúng đắn, mới có hành vi đạo đức đúng. Ngược lại, hành vi đạo đức lại tác động trở lại ý thức đạo đức. Những hành vi đạo đức đúng đắn được xã hội thừa nhận, khen thưởng động viên, sẽ làm tăng nhiệt tình trách nhiệm của chủ thể đạo đức. Ngược lại, những hành vi đạo đức đúng đắn không được xã hội cổ vũ động viên, những việc làm sai trái không bị phê phán, lên án sẽ làm thui chột nhiệt tình, ý thức trách nhiệm của chủ thể đạo đức trong xã hội. Ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức có quan hệ biện chứng và bổ sung cho nhau. Trên cơ sở những giá trị đạo đức như: Phong tục tập quán, những chuẩn mực đạo đức trong xã hội, mỗi cá nhân hình thành quan niệm về cái thiện, cái ác, cái đúng, cái sai, về hạnh phúc và bất hạnh. Từ đó mà hình thành những hành vi đạo đức như tôn sư, trọng đạo, kính trọng cha mẹ, vâng lời thầy cô, thương yêu đồng loại, thành những hành động nghĩa hiệp như giúp đỡ bạn bè trong lúc gặp hoạn nạn, khó khăn…. Từ những tình cảm, những nhận thức về trách nhiệm trước quê hương, đất nước mà mỗi người thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm như: nghĩa vụ lao động, bảo vệ Tổ quốc… Tất nhiên, những nghĩa vụ này vừa là nghĩa vụ công dân, đồng thời là nghĩa vụ đạo đức của mỗi người trong xã hội. Nếu không có ý thức đạo đức đúng đắn sẽ không thể thực hiện hành vi đạo đức đúng đắn. Ngược lại, qua thực tiễn đạo đức mỗi người có thể củng cố ý thức đạo đức, tăng cường niềm tin vào những điều tốt đẹp hoặc có sự bổ sung, sửa đổi những nhận thức không phù hợp. Ví dụ qua những hành động nghĩa hiệp giúp đỡ những người còn khó khăn, tình bạn, tình người được phát
  19. 15 triển từ đó sẽ củng cố niềm tin của con người vào những việc làm từ thiện trong xã hội. Thứ hai: Quan hệ đạo đức. Quan hệ đạo đức là hệ thống xác định mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội trên phương diện đạo đức. Quan hệ giữa con người với con người như quan hệ giữa cha mẹ với con cái; vợ chồng, anh em, bạn bè… Quan hệ giữa cá nhân và xã hội như quan hệ giữa cá nhân mỗi người với tập thể, quan hệ giữa mỗi người với làng, xã, quan hệ giữa mỗi công dân với đất nước. Những quan hệ này đều là quan hệ hai chiều. Một mặt cá nhân phải có trách nhiệm với cộng đồng, với xã hội như trách nhiệm tôn trọng những quy định chung của tập thể, của làng xã, trách nhiệm của mỗi công dân với đất nước. Mặt khác, tập thể, cộng đồng, xã hội phải bảo vệ lợi ích chính đáng cho mỗi người. Những quan hệ đạo đức do điều kiện kinh tế - xã hội quy định. Do vậy, một khi điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì trước sau những quan hệ đạo đức trong xã hội sẽ thay đổi theo. Ví dụ trước đây trong quan hệ vợ chồng, người vợ phải tuyệt đối phục tùng chồng “phu xướng, phụ tùy” thì nay là bình đẳng, tôn trọng nhau. Hiện nay, Việt Nam đang phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng, do vậy quan hệ đạo đức trong xã hội và trong gia đình có những thay đổi trên nhiều phương diện. Trong quan hệ gia đình, cha mẹ và con cái, vợ và chồng ngày càng bình đẳng hơn. Cha mẹ tôn trọng những nguyện vọng chính đáng của con cái. Vợ chồng tôn trọng ý kiến, nguyện vọng của nhau, cùng nhau giải quyết mọi việc trong gia đình. Tuy nhiên, do tác động của cơ chế thị trường, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình có xu hướng lỏng lẻo hơn, “Thiếu trách nhiệm, thiếu gương mẫu trong quan hệ vợ
  20. 16 chồng, quan hệ giữa cha mẹ với con cái và ngược lại”[95;204]. “Hôn nhân dựa trên tính toán vị kỷ, trên cơ sở đồng tiền, địa vị xã hội có xu hướng gia tăng”[95;202-203]. Trong xã hội, tính tích cực xã hội, tính năng động sáng tạo, ý thức, trách nhiệm trong công việc ngày càng được nâng cao, tư tưởng ỷ nại trong thời kỳ bao cấp ngày càng được khắc phục. Điều đó được thể hiện ngày càng nhiều người Việt Nam đã dần dần thích ứng được với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế. Nhiều người vươn lên làm chủ khoa học kỹ thuật, quá trình sản xuất, kinh doanh. Những phong trào nở rộ trong xã hội như: đền ơn, đáp nghĩa, xây nhà tình nghĩa, xây nhà tình thương, trái tim cho em, tết cho người nghèo.v.v…Thật cảm động, không ít người giúp đỡ người khác hàng chục triệu đồng nhưng lại không muốn người khác biết danh tính của mình. “Sự nảy nở và xuất hiện những tấm gương người tốt ở khắp mọi nơi, những gương mặt ưu tú, điển hình trong thanh niên, sinh viên, học sinh, những người lao động giỏi trong nông dân, công nhân, trí thức, những cán bộ, nhân viên trong các cơ quan hành chính…những tấm gương sáng và những biểu hiện tốt đẹp đó vẫn là đường nét chủ đạo trong bức tranh đạo đức xã hội ta”[95;259-260]. Bên cạnh những tiến bộ đạo đức xã hội nêu trên, trong xã hội không ít những tiêu cực, quan hệ đạo đức xã hội bị xuống cấp. “Đạo đức của cán bộ, đảng viên và công chức không được coi trọng đúng mức, giáo dục và tự giáo dục đạo đức bị xem nhẹ, việc rèn luyện và đánh giá đạo đức đối với cán bộ trong công sở, cơ quan bị xem nhẹ. Đạo đức học đường, quan hệ thầy trò và môi trường giáo dục đạo đức, nhân cách trong gia đình – nhà trường và xã hội bị tổn thương bởi thương mại hóa giáo dục không được ngăn chặn và đẩy lùi”[95;260-261]. Thứ ba: Đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1