intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Triết học: Phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:102

43
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là tìm hiểu thực trạng phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên trong một số trường cao đẳng, đại học ở Hà Nội hiện nay, từ đó đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc giáo dục đạo đức mới cho đội ngũ này ở Việt Nam hiện nay. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ --------------***-------------- ĐÀO THU HIỀN PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO THANH NIÊN SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Chuyên ngành: Triết học Mã số: 60 22 80 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THẾ KIỆT Hà Nội - 2008 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ --------------***-------------- ĐÀO THU HIỀN PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO THANH NIÊN SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2008 2
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Nguyễn Thế Kiệt. Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Hà Nội, ngày 1 2 tháng 4 năm 2008. Tác giả luận văn Đào Thu Hiền 3
  4. MỤC LỤC Mở đầu ........................................................................................................... 3 Chương 1. Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc và vai trò của nó trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay ....... 8 1.1. Tầm quan trọng và yêu cầu đạo đức mới của người thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay ................................................................................... 8 1.1.1. Tầm quan trọng của đạo đức mới ở người thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay ................................................................................................... 8 1.1.2. Yêu cầu của đạo đức mới ở người thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay ......................................................................................................... 22 1.2. Vai trò của giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay............................ . 24 1.2.1. Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam và giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên sinh viên Việt Nam ......................................................... 24 1.2.2. Tầm quan trọng của giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay ............................ 38 Chương 2. Phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay - Thực trạng và nguyên nhân (qua một số trường đại học ở Hà Nội) .......................... 42 2.1. Thực trạng của việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Hà Nội hiện nay ... 42 2.1.1. Thực trạng giáo dục ý thức đạo đức (đặc biệt là ý thức đạo đức truyền thống dân tộc) trong các trường cao đẳng, đại học hiện nay ................... 42 2.1.2. Thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống thông qua các phong trào chính trị - xã hội - thực tiễn ............................................................. 51 2.2. Nguyên nhân của thực trạng trên .............................................................. 55 2.2.1. Nguyên nhân của những thành tựu đã đạt được...................................... 55 2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế ............................................................ 57 Chương 3. Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên hiện nay .............................................................. 62 3.1. Phương hướng .......................................................................................... 62 4
  5. 3.1.1. Xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, tạo điều kiện phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong giáo dục đạo đức mới cho thanh niên sinh viên hiện nay .......................................................................................... 62 3.1.2. Bảo đảm sự thống nhất giữa kế thừa và đổi mới trong việc phát huy các giá trị đạo đức truyền thống ở các trường đại học hiện nay .................... 67 3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay ......................................................................................... 74 3.2.1. Xây dựng môi trường đạo đức lành mạnh trong gia đình, nhà trường, xã hội .......................................................................................................... 74 3.2.2. Đổi mới công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay .................................................................. 79 3.2.3. Tăng cường vai trò của pháp luật trong việc gìn giữ và phát huy các giá trị đạo dức truyền thống dân tộc ............................................................. 81 3.2.4. Nâng cao tính tự giác học tập, rèn luyện và tiếp thu các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc của thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay.......... 86 Kết luận ........................................................................................................... 89 Danh mục tài liệu tham khảo ......................................................................... 91 Phụ lục ............................................................................................................ 96 5
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong thời đại ngày nay, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ, trên quy mô lớn. Cùng với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và mạng thông tin toàn cầu, “ngôi nhà” thế giới dường như trở nên “nhỏ bé” hơn. “Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển” [13, tr.73]. Sự ảnh hưởng của quá trình này không chỉ về phương diện kinh tế. Bất luận tham gia chủ động hay buộc phải cuốn theo một cách bị động vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế thì văn hóa dân tộc đều phải tiếp xúc, giao thoa với các nền văn hóa khác trên thế giới, đều thôi thúc từng dân tộc suy nghĩ xem phải ứng xử với xu thế lịch sử này như thế nào. Mỗi nước, mỗi dân tộc phải biết lựa chọn, giữ gìn và phát huy những thế mạnh của mình để hoà nhập vào xu thế chung của thời đại, để phát triển bền vững đất nước. Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang đặt ra những yêu cầu to lớn về nhiều mặt, trước hết là chất lượng nguồn nhân lực. Con người cần có sự phát triển toàn diện cả về thể lực, trí lực và tâm lực, nhất là đối với thế hệ trẻ. Thanh niên sinh viên là lực lượng quan trọng, đóng vai trò to lớn đối với thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đây là lớp người năng động, dễ tiếp thu cái mới trong xã hội, họ cũng là tầng lớp chịu ảnh hưởng lớn những điều kiện kinh tế - xã hội mới, của cơ chế thị trường, của việc mở rộng giao lưu quốc tế. Song thực tế hiện nay, giới trẻ ít quan tâm đến truyền thống dân tộc mà có xu hướng thích chạy theo lối sống hiện đại kiểu phương Tây. Trong điều kiện kinh tế thị trường, thực trạng những 6
  7. biểu hiện đạo đức của lớp trẻ đang đặt ra hàng loạt các vấn đề bức xúc cần phải giải quyết. Vì thế, vấn đề đạo đức, lối sống của thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay không chỉ riêng với ngành giáo dục mà nhiều cấp, nhiều ngành đều hết sức quan tâm. Đại hội X của Đảng đã chỉ ra việc phải kế thừa, phát huy và phát triển giá trị văn hóa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam” [13, tr.106]. Ở đây, những giá trị truyền thống, đặc biệt là giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc sẽ là nền tảng vững chắc cho sự hình thành và phát triển toàn diện con người Việt Nam. Chính vì vậy, tác giả chọn vấn đề “Phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay ” làm đề tài nghiên cứu của luận văn. 2. Tình hình nghiên cứu Mảng đề tài về vấn đề đạo đức truyền thống đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Một số công trình tiêu biểu của một số tác giả như: Nguyễn Trọng Chuẩn (1995), “Đôi điều suy nghĩ về giá trị và sự biến đổi của giá trị khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường”, Tạp chí Triết học, số 1. Nguyễn Thế Kiệt (1995), “Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế thị trường trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay”, Tạp chí Triết học số 6. Nguyễn Văn Phúc (1998), “Về một số giải pháp xây dựng nhân cách đạo đức hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 4. Huỳnh Thái Vinh (1998), “Bồi dưỡng đạo đức sinh viên trong nền kinh tế thị trường”, Tạp chí Thông tin những vấn đề lý luận, số 16. Luận án tiến sĩ Triết học của Trần Sỹ Phán (1999) “Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân 7
  8. cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Luận văn thạc sĩ của Bạch Quốc Trám (1999), “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam trong sinh viên thời kinh tế thị trường”. Luận án tiến sĩ Triết học của Nguyễn Văn Lý (2000), “Kế thừa và đổi mới các giá trị truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”. Huỳnh Thái Vinh (2001), “Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Luận án tiến sĩ triết học của Trần Minh Đoàn (2002), “Giáo dục đạo đức cho thanh niên học sinh theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay”. Luận án tiến sĩ Triết học của Lê Thị Hoài Thanh (2003), “Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay”. Nguyễn Thế Kiệt (2006) “ Một số giá trị đạo đức Việt Nam từ truyền thống đến Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7. Như vậy, vấn đề về đạo đức truyền thống đã được nhiều người, nhất là các nhà khoa học quan tâm . Tuy nhiên, đây là vấn đề lớn, các giá trị đạo đức truyền thống trong điều kiện kinh tế thị trường đang biến đổi, diễn biến phức tạp, sự tác động của nó đối với việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên là vấn đề mới mẻ, cần phải tiếp tục đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu sâu sắc hơn. Đề tài “ Phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay” sẽ góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ này. 3. Mục đích, nhiệm vụ * Mục đích: Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên trong một số trường cao đẳng, đại học ở Hà Nội hiện nay, từ đó đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc giáo dục đạo đức mới cho đội ngũ này ở Việt Nam hiện nay. 8
  9. * Nhiệm vụ: - Phân tích tầm quan trọng và yêu cầu đạo đức mới của người thanh niên sinh viên hiện nay. - Làm rõ vai trò của giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay. - Đánh giá thực trạng của việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên trong một số trường đại học ở Hà Nội hiện nay - Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng, phạm vi Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề phát huy những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay đang học tại một số trường cao đẳng và đại học ở Hà Nội, tính trong khoảng thời gian từ năm 1986 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của luận văn là các quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề đạo đức, phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, vấn đề xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên. * Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp để thực hiện luận văn là tổng hợp các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó chủ yếu là phương pháp lịch sử và lôgic, phân tích và tổng hợp,...Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp điều tra xã hội học. 6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn - Góp phần luận chứng về mặt lý luận vấn đề phát huy giá trị đạo đức 9
  10. truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay. - Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy triết học, đạo đức học ở các trường cao đẳng và đại học. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn có 3 chương với 6 tiết. 10
  11. Chương 1 GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO THANH NIÊN SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. Tầm quan trọng và yêu cầu đạo đức mới của người thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay 1.1.1. Tầm quan trọng của đạo đức mới ở người thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay 1.1.1.1. Khái niệm đạo đức: Đạo đức là một trong những hình thái sớm nhất của ý thức xã hội, điều chỉnh hành vi của con người, là sản phẩm của qúa trình phát triển lịch sử của xã hội và góp phần phản ánh sự tồn tại của đời sống tinh thần. Ph. Ăngghen cho rằng: “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ” [38, tr.137]. Cùng với pháp luật, tôn giáo, phong tục, tập quán,... đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Sự đánh giá hành vi của con người theo khuôn phép, chuẩn mực và qui tắc đạo đức, biểu hiện thành các khái niệm về: thiện và ác, chính nghĩa và phi nghĩa, vinh và nhục, hạnh phúc và đau khổ,...Tuy nhiên, các khái niệm cùng các khuôn phép, chuẩn mực hành vi của con người thường thay đổi theo từng thời đại, với từng giai cấp, từng dân tộc. Ngày nay, đạo đức có thể được xem xét từ nhiều phương diện khác nhau. Có ba phương diện cần chú ý: - Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội - là toàn bộ những quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội nhằm đảm bảo quan hệ lợi ích của cá nhân và cộng đồng. 11
  12. Xét về mặt nội dung, đạo đức phản ánh tồn tại xã hội. Chế độ kinh tế - xã hội là nguồn gốc của quan điểm về đạo đức con người. Các quan điểm này thay đổi theo cơ sở đã sinh ra nó. Những thời đại khác nhau, những cộng đồng khác nhau có những hệ thống đạo đức khác nhau, chúng phản ánh những tồn tại xã hội khác nhau. Ví dụ: thích ứng với chế độ phong kiến, dựa trên cơ sở bóc lột những người nông nô bị cột chặt vào ruộng đất là đạo đức xã hội nông nô; thích ứng với chế độ tư bản, dựa trên cơ sở bóc lột người công nhân làm thuê là đạo đức tư sản; Chế độ XHCN tạo ra nền đạo đức biểu hiện mối quan hệ hợp tác trên tình đồng chí và quan hệ tương trợ lẫn nhau của người lao động đã được giải phóng khỏi ách bóc lột. - Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Loài người đã sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội: phong tục, tập quán, tôn giáo, pháp luật, đạo đức,... Những chuẩn mực (khuôn phép) và quy tắc đạo đức là yêu cầu của cả xã hội hoặc của một giai cấp nhất định đề ra nhằm điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân. Nó bao gồm hành vi của cá nhân đối với xã hội (đối với Tổ quốc, Nhà nước, giai cấp mình và giai cấp đối địch...) và đối với người khác. Những chuẩn mực và quy tắc nhất định được công luận của xã hội, hay của một giai cấp, dân tộc thừa nhận. Công luận xã hội hướng dẫn các cá nhân hoạt động trong khuôn khổ được phép và tránh những hành vi không được phép. Sự điều chỉnh đạo đức mang tính tự nguyện, và xét về bản chất, đạo đức là sự tự do lựa chọn của con người. - Đạo đức là một hệ thống các giá trị. Giá trị là đối tượng của giá trị học. Giá trị học phân loại các hiện tượng giá trị theo quan niệm đã được xây dựng nên một cách truyền thống về các lĩnh vực của đời sống xã hội; các giá trị vật chất và tinh thần; các giá trị sản xuất và tiêu dùng (các giá trị xã hội); các giá trị xã hội - chính trị, 12
  13. nhận thức, đạo đức, thẩm mỹ, tôn giáo. Đạo đức là một hiện tượng xã hội mang tính chuẩn mực, mệnh lệnh - đánh giá rõ rệt. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin , đạo đức được định nghĩa như sau: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. 1.1.1.2. Khái niệm đạo đức mới: Đạo đức mới là đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân, là đạo đức cộng sản. Xã hội loài người vận động và phát triển như một quá trình lịch sử - tự nhiên, từ thấp đến cao. Các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau trên cơ sở của cái tất yếu kinh tế. Phản ánh cái lôgic kinh tế - xã hội đó, đạo đức cũng có lôgic tương ứng, đạo đức xã hội cũng vận động phát triển, đỉnh cao là đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Đấu tranh xoá bỏ mọi sự khác biệt và đối kháng giai cấp, thủ tiêu hoàn toàn sự áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh - đó là sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản. Đạo đức cộng sản phản ánh những lợi ích căn bản của giai cấp này trong cách mạng vô sản, nó cũng là thứ vũ khí tinh thần mạnh mẽ của giai cấp công nhân sử dụng để xoá bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đây là lần đầu tiên và là lần cuối cùng đạo đức của một giai cấp lao động trở thành đạo đức cách mạng và chiếm địa vị thống trị trong đời sống đạo đức của xã hội. Nó thực hiện bước phủ định của phủ định, hình thành một vòng khâu phát triển làm nên bước tiến bộ toàn diện của đạo đức. Lênin cho rằng: “Đạo đức, đó là những gì góp phần phá huỷ xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản” [33] 13
  14. So với các nền đạo đức trước đây, đạo đức mới là một bước phát triển về chất. Nó chứa đựng và kế thừa tất cả những nội dung tốt đẹp nhất của các nền đạo đức trong các thời đại trước. Vì thế, đạo đức mới bao hàm rất nhiều yếu tố đạo đức chung của cả nhân loại, là nền đạo đức sẽ được xây dựng lên trong tương lai trên toàn thế giới cùng với sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. Như vậy, khái niệm đạo đức cộng sản là hoàn toàn mới trong lịch sử xã hội. Nó đối lập với đạo đức của giai cấp tư sản và các giai cấp bóc lột khác. Nó cũng khác với đạo đức của những người sản xuất nhỏ, xét về bản chất. Sự khác biệt của đạo đức mới so với các kiểu đạo đức trước đây, trước hết thể hiện ở tính cách mạng và khoa học của nó. Tính cách mạng và khoa học ấy không chỉ biểu hiện ở sự phản ánh sáng tạo thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động mà còn biểu hiện ở sự kế thừa có phê phán và chọn lọc những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc và những tinh hoa đạo đức của nhân loại. Hơn nữa, sự khác biệt ấy còn được biểu hiện ở những nguyên tắc đạo đức mới: Thứ nhất, chủ nghĩa tập thể là cơ sở của đạo đức mới. Tính tập thể, tính cộng đồng của con người xuất hiện rất sớm, do nhu cầu lao động sản xuất tạo ra vật phẩm nuôi sống con người. Xét cho cùng, mọi giá trị vật chất tinh thần đạo đức được bắt nguồn từ hoạt động lao động của con người. Tính tập thể của con người không chỉ biểu hiện ở những hoạt động cộng đồng có tính xã hội trực tiếp, mà ở ngay cả những hoạt động độc lập, có tính chất cá nhân. Tinh thần tập thể một khi được thừa nhận là một giá trị cao đẹp, được coi như một triết lý sống, một nguyên tắc sống thì phát triển thành chủ nghĩa tập thể. Chủ nghĩa tập thể là sự thống nhất tự giác giữa các cá nhân vì những lý tưởng cao quý của con người. Đó là sự thống nhất của tình đồng chí, tinh 14
  15. thần trách nhiệm, thái độ tôn trọng và chăm sóc lẫn nhau, nhằm bảo đảm cho các cá nhân phát triển cao nhất, phục vụ lợi ích xã hội. Chủ nghĩa tập thể là nguyên tắc, là cơ sở khoa học và là trung tâm của đạo đức mới. Ở đây, con người không chỉ nghĩ và hành động vì mình mà còn vì người khác, có tinh thần trách nhiệm và thái độ tôn trọng, chăm sóc lẫn nhau. Tập thể ở đây vừa là mục đích, vừa là phương tiện, là hình thức để cho các cá nhân phát triển. Dưới CNXH, chủ nghĩa tập thể trở thành quan hệ phổ biến, thể hiện trong mọi quan hệ xã hội và trong mọi hình thức của đời sống xã hội. Con người không chỉ nghĩ vì mình mà còn vì người khác với một tinh thần trách nhiệm, chăm sóc lẫn nhau, thực hiện mục tiêu chung phù hợp với sự tiến bộ xã hội, vì thế nó là cơ sở của chủ nghĩa nhân đạo cao nhất. Điều này được thể hiện ở những tình cảm đạo đức thông thường trong quan hệ người với người được nâng lên thành những tình cảm thiêng liêng, cao quí: đó là tình bạn, tình đồng chí, đồng đội, tình hữu ái giai cấp, mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người... Chủ nghĩa tập thể đối lập với chủ nghĩa cá nhân nhưng không thủ tiêu lợi ích cá nhân. Chúng ta phải tạo ra được một môi trường mà như Mác nói: Tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định rằng: “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét lợi ích cá nhân đúng đắn và đảm bảo cho nó thoả mãn bằng chế độ XHCN” [42, tr.291]. Người nói: “Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giầy xéo lên lợi ích cá nhân”. Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình”. [42]. Chống chủ nghĩa cá nhân là một cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp, phải hết sức kiên quyết, thực hiện điều này không đơn giản chút nào. Bởi lẽ, nếu quá nhấn mạnh lợi ích cá nhân, con người dễ sa vào chủ nghĩa cá nhân, ngược lại chống chủ nghĩa cá nhân không thận trọng sẽ xâm 15
  16. hại lợi ích chính đáng của cá nhân. Cả hai khuynh hướng này đều dẫn tới kết quả là cản trở mục tiêu giải phóng con người thực sự. Thứ hai, lao động tự giác, sáng tạo là cội nguồn của đạo đức mới. Lao động là hoạt động đặc trưng cơ bản đầu tiên của con người, để cải biến tự nhiên, xã hội và chính mình phù hợp với nhu cầu, lợi ích của con người, vì sự phát triển và tiến bộ xã hội. Trong cuộc sống, con người có nhiều chuẩn mực để đo phẩm giá của mình. Tuy nhiên, thái độ đối với lao động được coi là một trong những chuẩn mực quan trọng nhất. Người có thái độ lao động tự giác, có kỷ luật, chăm chỉ cần cù, sáng tạo, có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, chăm lo thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, yêu lao động của mình, biết coi trọng cả lao động trí óc và lao động chân tay,...sẽ là người được xã hội kính trọng và tôn vinh. Theo Lênin, CNXH bắt đầu từ chỗ nào mà những công nhân bình thường biết quan tâm với một tinh thần hy sinh và không quản nặng nhọc đến việc nâng cao năng suất lao động. Đây là vấn đề căn bản nhất cho thắng lợi của chế độ mới. Đạo đức mới hoàn toàn xa lạ với kiểu lao động hình thức, vô trách nhiệm, kém hiệu quả và vụ lợi. Thái độ lao động tự giác, có kỷ luật, sáng tạo thể hiện bản chất con người, lao động cho mình, cho xã hội mà mình làm chủ. Thứ ba, chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế. Lòng yêu nước là tình cảm xã hội tự nhiên của con người với đất nước mình. Lòng yêu nước không phải là đặc trưng riêng của một dân tộc nào. Mỗi con người sinh ra đều có cội nguồn, quê hương, đất nước. Mọi người đều yêu quê hương, đất nước mình. Đây là một thuộc tính tự nhiên có ý nghĩa phổ biến. Một khi lòng yêu nước phát triển thành một triết lý nhân sinh, triết lý xã hội, một lối sống, một trình độ nhận thức sâu sắc và có hệ thống, chi phối 16
  17. một cách có ý thức mọi hành vi và ứng xử của con người thì trở thành chủ nghĩa yêu nước. Nó bao hàm cả tư tưởng và tình cảm yêu nước, nó vừa là nguyên tắc đạo đức, vừa là nguyên tắc chính trị. Theo Lênin, chủ nghĩa yêu nước “là một trong những tình cảm sâu sắc nhất, đã được củng cố qua hàng nghìn năm tồn tại của các tổ quốc biệt lập” [32, tr.226]. Yêu nước là tình yêu đối với đất nước, lòng trung thành và khát vọng phục vụ những lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Yêu nước trên lập trường của giai cấp công nhân khác hẳn về chất với quan niệm của giai cấp bóc lột. Nội dung của nó thể hiện ở những điểm cơ bản sau: - Yêu nước là yêu CNXH, yêu nhân dân lao động. Quan niệm yêu nước của đạo đức mới là lòng tự hào dân tộc, tự hào về những gương anh hùng bất khuất trong chiến đấu và trong lao động sản xuất,...Chủ nghĩa yêu nước của giai cấp công nhân luôn gắn liền với lợi ích của nhân dân lao động, gắn liền với mục đích giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi áp bức bóc lột, phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá, làm cho người lao động làm chủ đất nước thực sự. - Yêu nước trên lập trường quốc tế của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân biểu hiện bản chất tốt đẹp của giai cấp công nhân nhằm đoàn kết giúp đỡ và giải phóng nhân dân lao động toàn thế giới khỏi mọi áp bức bóc lột. Thực tế, vấn đề dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế quan hệ biện chứng với nhau. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế trở thành một nguyên tắc của việc xây dựng đạo đức mới. Thứ tư, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Chủ nghĩa nhân đạo là một trào lưu xã hội tiến bộ, là tổng hợp những quan điểm nhằm bảo vệ phẩm giá, bảo vệ sự tự do và sự phát triển toàn diện, bảo vệ tính người của các quan hệ xã hội. 17
  18. Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản khác xa về chất so với chủ nghĩa nhân đạo tư sản, tư tưởng nhân đạo Kitô giáo, Phật giáo. Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản là sự kế thừa và phát triển trên quan điểm biện chứng những tính hoa lý tưởng nhân đạo trong lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản có nội dung toàn diện, triệt để và sâu sắc, nó thủ tiêu tất cả mọi áp bức bóc lột trong xã hội, mọi người đều được tự do, thực hiện đầy đủ quyền làm người. Đây là chủ nghĩa nhân đạo tự do và đầy đủ nhất đối với nhân loại, là chủ nghĩa nhân đạo hoàn bị nhất trong lịch sử. Trên nghĩa đó, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản là nội dung cơ bản của đạo đức mới, vì “cái gốc của đạo đức, của luân lý là lòng nhân ái”. 1.1.1.3. Tầm quan trọng của đạo đức mới ở người thanh niên sinh viên s Sinh viên và đặc điểm của thanh niên sinh viên: “Sinh viên” là thuật ngữ dùng để chỉ những người đang học tập ở các trường đại học và cao đẳng. Ở một số nước, nội hàm của khái niệm sinh viên được mở rộng hơn. Chẳng hạn, ở Pháp, thuật ngữ “sinh viên” không chỉ dùng để gọi những người đang học trong các trường đại học và cao đẳng, mà còn dùng cho cả những người đang học trong các trường trung học và trường dạy nghề. Nói đến thanh niên sinh viên là nói đến đội ngũ trí thức trong tương lai, là lực lượng trẻ, có sức khoẻ dồi dào, có trình độ văn hoá, nhạy cảm với cái mới, năng động, sáng tạo, ham học hỏi, ưa tìm tòi, khám phá, giàu ước mơ, thích giao tiếp, thích tham gia các hoạt động xã hội,...Với những đặc điểm tâm sinh lý ấy, thanh niên sinh viên trở thành nhóm xã hội hết sức đặc biệt. Họ là những chủ nhân tương lai của đất nước, là tầng lớp xã hội được gia đình, nhà trường, xã hội hết sức quan tâm. Trong cuộc sống xã hội, sinh viên giữ nhiều vị trí: là sinh viên, là người con, là người anh, người chị, người em, người bạn,...Tuy vậy, về vị trí thực trong xã hội chưa được xác định, bởi vì họ chưa có nghề nghiệp ổn định. Hoạt động chính của họ là học 18
  19. tập và bước đầu tham gia vào nghiên cứu khoa học, tham gia vào các hoạt động xã hội. Thanh niên sinh viên là tầng lớp trẻ tuổi. Phần lớn thanh niên sinh viên chưa được rèn luyện trong sản xuất và chiến đấu. Những hiểu biết của họ về quốc gia, dân tộc, về giai cấp, về truyền thống,....chỉ qua sách vở nên rất hạn chế, thậm chí rất ít biết. Khi tập trung về trường đại học ở các thành phố - nơi có đủ mọi tầng lớp xã hội, mọi kiểu quan hệ xã hội, diễn ra mọi hiện tượng sinh hoạt vật chất và tinh thần,...thanh niên sinh viên, đặc biệt là thanh niên sinh viên xuất phát từ nông thôn có sự xáo trộn, thay đổi lớn. Họ phải tự làm chủ bản thân để hoà nhập vào môi trường mới, làm chủ nguồn kinh tế thường là eo hẹp của mình để đảm bảo cuộc sống, làm chủ các mối quan hệ giao tiếp, làm chủ về sinh hoạt hàng ngày. Bấy nhiêu đặc điểm và nhân tố làm cho nhân cách, lối sống thanh niên sinh viên chưa ổn định, có nhiều dao động. Sinh viên Việt Nam trong những năm gần đây không ngừng tăng lên cả về số lượng lẫn chất lượng, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu xã hội. Nếu như năm 1997-1998 cả nước có 126 trường cao đẳng và đại học (không kể các trường thuộc khối an ninh, quốc phòng) thì đến năm học 2002-2003 số lượng các trường đại học đã lên tới 202 trường. Năm học 1997-1998, cả nước có 671.120 sinh viên, đến năm học 2002-2003 đã lên tới 1.020.667 sinh viên. Sinh viên nước ta hiện nay chiếm 0,96% dân số và chiếm 4% lực lượng thanh niên, đạt 188 sinh viên trên một vạn dân. Số sinh viên trong các trường ngoài công lập ngày càng tăng (chiếm 11%) [57, tr.10]. Trong sự phát triển đất nước, sinh viên giữ một vị trí quan trọng. Sau khi rời ghế nhà trường, họ có thể giữ những vai trò, những trọng trách ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong xã hội. Họ có thể sẽ là những nhà chính trị, nhà ngoại giao, nhà khoa học, kỹ sư, bác sỹ, nghệ sỹ, hay nhà doanh 19
  20. nghiệp,... Lúc đó, họ có một vị trí đích thực và đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển xã hội. Thật vậy, sinh viên là nguồn dự trữ, là tài sản quý báu của quốc gia. Ngay từ khi đất nước còn chiến tranh, đội ngũ sinh viên đã từng gắn bó và có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách mạng và thắng lợi của dân tộc. Ngày nay, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, đội ngũ sinh viên Việt Nam càng nêu cao vai trò, trách nhiệm của mình trước nhân dân, trước dân tộc. Tại Đại hội sinh viên toàn quốc lần thứ V, nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười đã khẳng định: “Sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng CNXH có thành công hay không, đất nước ta bước vào thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, chủ yếu do thế hệ thanh niên hiện nay quyết định, trong đó sinh viên là một bộ phận có vai trò hết sức quan trọng”. Theo các kết quả điều tra xã hội học gần đây của Viện Nghiên cứu Thanh niên, Trung tâm Nghiên cứu dư luận xã hội – Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương cho thấy, nhận thức về các vấn đề xã hội của thanh niên, sinh viên hiện nay ngày càng được mở rộng, phong phú, đa dạng và sâu sắc hơn [57, tr.23-24]. Họ không chỉ chú ý đến việc nâng cao trình độ khoa học – công nghệ mà còn có ý thức nâng cao sự hiểu biết của mình về lịch sử, truyền thống văn hoá dân tộc, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kiến thức về pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của công dân trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, đội ngũ sinh viên cũng có những hạn chế như: tính bồng bột, dễ phiêu lưu, liều lĩnh, dễ vô kỷ luật, vô chính phủ, thích cái lạ nhưng lại thiếu kinh nghiệm, khi gặp thất bại lại dễ hoang mang, nản chí và trượt dài. Do vậy, để hiểu rõ đặc điểm tâm – sinh lý lứa tuổi sinh viên là một vấn đề hết sức quan trọng, để có phương pháp giáo dục, vận động sinh viên một cách khoa học, thiết thực, phù hợp. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1