Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vai trò của gia đình với xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay
lượt xem 8
download
Nội dung chính của luận văn là: Trên cơ sở phân tích vai trò và thực trạng thực hiện vai trò của gia đình Việt Nam trong xây dựng lối sống con người Việt Nam trong những năm đổi mới, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy tốt hơn nữa vai trò của gia đình trong hoạt động này. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vai trò của gia đình với xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------- ĐẶNG THỊ NGA VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH VỚI XÂY DỰNG LỐI SỐNG CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Hà Nội - 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------- ĐẶNG THỊ NGA VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH VỚI XÂY DỰNG LỐI SỐNG CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Chuyên ngành: Triết học Mã số: 60.22.03.01 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Dƣơng Văn Duyên Hà Nội - 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của TS. Dương Văn Duyên. Các số liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Những kết quả trình bày trong luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác. Tác giả luận văn
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: LỐI SỐNG VÀ VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG XÂY DỰNG LỐI SỐNG CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY ............. 8 1.1. LỐI SỐNG VÀ XÂY DỰNG LỐI SỐNG CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY ......................................................................................... 8 1.1.1. Lối sống ........................................................................................... 8 1.1.2. Xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay………….18 1.2. GIA ĐÌNH VIỆT NAM VÀ VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG XÂY DỰNG LỐI SỐNG CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY .. 36 1.2.1. Gia đình Việt Nam hiện nay ......................................................... 36 1.2.2. Vai trò của gia đình trong giáo dục lối sống của con người Việt Nam hiện nay ........................................................................................ 444 Tiểu kết chương 1...................................................................................... 544 CHƢƠNG 2: VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH VỚI XÂY DỰNG LỐI SỐNG CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ............................................................................................................ 555 2.1. THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG XÂY DỰNG LỐI SỐNG CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY ...................... 555 2.1.1. Những kết quả đạt được .............................................................. 555 2.1.2 Những hạn chế của gia đình trong xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay ................................................................................ 833 2.2. NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG XÂY DỰNG LỐI SỐNG CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY ..... 922
- 2.2.1. Nâng cao nhận thức toàn xã hội về vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống con người Việt Nam hiện nay ........................................ 922 2.2.2. Phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của các gia đình là điều kiện quan trọng để xây dựng con người mới có lối hành xử phù hợp với tự nhiên, với gia đình và xã hội và lối tiêu dùng văn minh ..................... 9797 2.2.3 Nâng cao chất lượng giáo dục gia đình nhằm phát huy vai trò của nó trong xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay .......... 1011 Tiểu kết chương 2.................................................................................... 1066 KẾT LUẬN .............................................................................................. 10707 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................... 10909
- DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT. STT Chữ viết tắt Nguyên nghĩa 1. CNH – HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa 2. CNXH Chủ nghĩa xã hội 3. XHCN Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1: Cơ cấu lao động có việc làm theo khu vực kinh tế năm 2014 . 61 Biểu đồ 2.2: Cơ cấu nền kinh tế Việt Nam năm 2014 .................................. 62 Bảng: 2.1: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước những năm gần đây ...... 63
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Gia đình là tế bào của xã hội, là một thiết chế cơ bản trong cơ cấu tổ chức xã hội. Sự ổn định và phát triển của gia đình có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của xã hội. Gia đình không chỉ là nơi duy trì nòi giống, mà còn là chỗ dựa tinh thần hết sức quan trọng cho mỗi thành viên. Gia đình cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường giáo dục và hoàn thiện nhân cách của mỗi cá nhân, nhắc nhở các thành viên tôn trọng kỷ luật lao động, tạo dựng kỹ năng sống cho các thành viên. Do vậy, giáo dục trong gia đình là rất quan trọng, thông qua gia đình mà lối sống của mỗi con người được định hình cụ thể trong xã hội. Lối sống là một hình thức biểu hiện của văn hóa. Nói đến lối sống là nói đến cả khía cạnh văn minh nhân loại và truyền thống của một dân tộc và nó chịu sự quy định của phương thức sản xuất xã hội và toàn bộ những điều kiện sống của con người. Lối sống của con người Việt Nam được hình thành do điều kiện địa lý, kinh tế, chính trị, trước hết là tâm lý và văn hóa dân tộc Việt Nam. Do vậy, lối sống của người Việt Nam là sự hóa thân của các đặc điểm truyền thống dân tộc mang những nét riêng bản sắc của con người và văn hóa Việt Nam. Gia đình là môi trường văn hóa đầu tiên, nơi mà mỗi cá nhân khi chào đời và quá trình phát triển, liên tục được tiếp nhận những tình cảm tốt đẹp từ các thành viên khác. Gia đình giáo dục các thành viên thông qua các mối quan hệ đặc biệt. Đó là quan hệ ruột thịt giữa mẹ, con, quan hệ huyết thống giữa cha, con, tình cảm của anh chị em ruột, của bố mẹ, ông bà. Quá trình xã hội hóa cá nhân bắt đầu từ khi các thành viên xác định vị trí, vai trò của mình trong các mối quan hệ ấy. Gia đình thông qua thái độ, tâm lý, tình cảm và mối liên hệ thường xuyên, bền bỉ đã truyền thụ cho mỗi cá nhân những khuôn mẫu 1
- và chuẩn mực xã hội để ứng xử đúng trong gia đình và ngoài xã hội. Qua mối quan hệ đặc biệt, thái độ, tình cảm tâm lý gia đình từng bước uốn nắn những hành vi lệch lạc, ngăn chặn những hành vi trái với chuẩn mực xã hội ở từng thành viên. Việc giáo dục và hình thành lối sống của con người thông qua gia đình có tính chất đặt nền móng, mang tính truyền thống gia phong, thực hiện bước đi đầu tiên. Gia đình là xuất phát điểm và nền tảng của giáo dục con người, là trường học đầu tiên của con người. Do vậy, việc phát huy tầm quan trọng của gia đình trong việc hình thành lối sống mang nét đặc trưng của con người Việt Nam “vừa hồng, vừa chuyên” hiện nay là hết sức cần thiết. Ở nước ta, công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo là một sự nghiệp cách mạng to lớn, sâu sắc và toàn diện nhằm mục tiêu xây dựng xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc trưng quan trọng nhất của quá trình đổi mới là sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình chuyển đổi về kinh tế đã làm biến đổi mạnh mẽ và toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội. làm thay đổi bộ mặt xã hội và nhiều thiết chế cơ sở. Là tế bào của xã hội, gia đình Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng rất lớn từ quá trình chuyển đổi ấy. Trước hết, cơ sở và điều kiện kinh tế của gia đình và xã hội thay đổi và ngày càng được nâng cao. Sự sôi động của kinh tế thị trường đã khơi dậy những tiềm năng tiềm ẩn của các gia đình, khai thác và phát huy có hiệu quả sức sáng tạo to lớn của các gia đình trên nhiều lĩnh vực khác nhau, tạo điều kiện để gia đình đóng góp tích cực vào sự ổn định và phát triển chung của đất nước. Nhưng kinh tế thị trường với những mặt trái của nó cũng tác động tiêu cực đến gia đình. Hệ luỵ của cơ chế cạnh tranh trong kinh tế thị trường là nạn thất nghiệp, thiếu việc làm, sự “vạn năng”của đồng tiền và gia tăng các tệ nạn xã hội,… đã khiến cho gia đình có những xáo trộn trong việc thực hiện các 2
- chức năng của mình. Phân hoá giàu nghèo cũng tạo nên những gia đình yếu thế; sự hối hả của công việc khiến các thành viên trong gia đình dành ít thời gian cho nhau hơn dẫn đến ít hiểu và chia sẻ với nhau dẫn tới dễ xung đột, thậm chí là đổ vỡ. Do đó, xây dựng một lối sống tích cực là nhu cầu khách quan và yêu cầu ấy đặt ra vấn đề nâng cao vai trò của gia đình trong giáo dục lối sống tích cực cho mỗi con người Việt Nam hiện nay càng trở nên bức thiết. Gia đình Việt Nam hiện nay cần xây dựng dựa trên sự kế thừa các yếu tố của gia đình truyền thống và tiếp nhận có chọn lọc các giá trị cốt lõi của gia đình hiện đại. Để có thể làm được điều đó, cần phải củng cố thiết chế gia đình, điều kiện khách quan để xã hội hóa cá nhân trong gia đình, thiết lập mạng lưới giữa gia đình, nhà trường, xã hội trong việc giáo dục để hình thành lối sống tốt đẹp cho mỗi cá nhân. Với nhận thức đó, tôi chọn: “Vai trò của gia đình với xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Vấn đề gia đình với xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay, từ lâu đã được các nhà Giáo dục, Tâm lý học, Xã hội học nghiên cứu tiêu biểu là công trình của tập thể tác giả Xô Viết “Lối sống xã hội chủ nghĩa’’, trong công trình này các tác giả đã đề cập đến nhiều khái niệm lối sống, nội dung và bản chất của lối sống xã hội chủ nghĩa, cơ sở kinh tế chính trị của lối sống. Trong những năm 80 ở nước ta cũng đã xuất hiện những công trình đề cập đến vấn đề lí luận về lối sống như tác giả Hà Xuân Trường với bài báo: “Từng bước xây dựng nền văn hóa mới”, tác giả Vũ Khiêu với “Lối sống là gì?”, Phong Châu và Nguyễn Trọng Thụ: “Về lối sống của chúng ta”và những 3
- vấn đề về lối sống cũng được tác giả Lê Hoa trình bày trong “Bàn về lối sống và nếp sống xã hội chủ nghĩa”. Đây cũng là nghiên cứu lí luận, đưa ra hệ thống các khái niệm, các mặt nghiên cứu về lối sống ở Việt Nam theo mô hình xã hội chủ nghĩa thời bao cấp (trước năm 1986). Tác giả Huỳnh Khái Vinh cũng có công trình nghiên cứu của mình: “Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn mực giá trị xã hội”. Trong cuốn sách này, tác giả đưa ra phạm trù lối sống rất sâu sắc. Trong sự tác động của các nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội và xu hướng chuyển đổi lối sống ở nước ta trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thì tác giả Trần Độ (chủ biên), Nxb Văn hóa (năm 1985), cũng đề cập đến: “Bàn về lối sống và nếp sống xã hội chủ nghĩa”. Trong đó, phần thứ nhất của cuốn sách bàn về nếp sống và lối sống xã hội chủ nghĩa. Phần thứ hai, các tác giả tập trung bàn về các giải pháp xây dựng lối sống, nếp sống xã hội chủ nghĩa. Trong các công trình nêu trên, các tác giả đã đề cập đến vấn đề cơ sở lí luận nghiên cứu lối sống theo các quan điểm khác nhau và mới trên bình diện lí thuyết, phương pháp luận nghiên cứu về lối sống, xây dựng về lối sống mới xã hội chủ nghĩa. Vấn đề gia đình Việt Nam đã nhận được sự quan tâm của chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong các đại hội Đảng đều có một phần nói về gia đình.Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: “Nêu cao trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành viên của mình có lối sống văn hóa, làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội”. Trong những năm gần đây, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến gia đình: “Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình”do GS Lê Thi (chủ biên) Nxb KHXH, (Hà Nội, năm 1994); “Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hóa”của TS Lê Ngọc Văn - Nxb Giáo dục, (Hà Nội, năm 4
- 1996); “Vai trò gia đình trong sự hình thành nhân cách con người Việt Nam” của GS Lê Thi (chủ biên) - Nxb Phụ nữ, (Hà Nội, năm 1997). Trong các tư liệu này, các tác giả đã cung cấp cho các bậc cha mẹ những hiểu biết về gia đình, trang bị những kiến thức khoa học để nuôi dạy con cái thành những công dân tốt có ích cho xã hội với những nội dung chăm sóc gia đình hết sức cơ bản: Đức, trí, thể, mỹ và lao động. Dưới góc độ chuyên ngành, có một số luận văn, luận án nghiên cứu các vấn đề Gia đình, Phụ nữ; Gia đình - Giáo dục gia đình, Luận án T.s của Đặng Thị Linh: “Vấn đề phụ nữ trong gia đình Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp” (Hà Nội, năm 1997); Luận án T.S của Nghiêm Sỹ Liêm “Vai trò của Gia đình Việt Nam hiện nay trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay” (Hà Nội, năm 2001); Luận án TS của Dương Thị Minh “Gia đình Việt Nam vai trò người phụ nữ hiện nay” (Hà Nội, năm 2003) Các công trình này góp phần làm rõ thêm về mặt lý luận cũng như thực tiễn vai trò của gia đình trong việc hình thành nhân cách của con người. Tuy nhiên, căn cứ vào sự phát triển của thời đại hiện nay thì vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay là một vấn đề mới, chưa có các công trình chuyên sâu nghiên cứu mặc dù đây là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự văn minh và phát triển của xã hội. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích: Trên cơ sở phân tích vai trò và thực trạng thực hiện vai trò của gia đình Việt Nam trong xây dựng lối sống con người Việt Nam trong những năm đổi mới, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy tốt hơn nữa vai trò của gia đình trong hoạt động này. - Nhiệm vụ: bao gồm: + Làm rõ một số vấn đề lý luận chung về lối sống, vai trò giáo dục lối sống của gia đình trong hình thành lối sống của con người Việt Nam 5
- + Nêu lên thực trạng vai trò của gia đình trong giáo dục lối sống của con người Việt Nam những năm đổi mới vừa qua. + Đề xuất một số giải pháp để phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước về gia đình, gia đình với xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay. - Phương pháp nghiên cứu sử dụng trong luận văn: phương pháp luận chung là Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghỉ duy vật lịch sử. Ngoài ra, còn sử dụng tổng hợp các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, lôgic, so sánh, điều tra xã hội học,… 5. Đối tƣợng và phạm vi - Đối tượng: vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu: xem xét một số phương diện về vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống của con người việt Nam trong thời kỳ đổi mới. 6. Đóng góp mới cho luận văn - Khái quát vai trò của gia đình trong xây dựng lối sống của con người Việt nam hiện nay. - Đề xuất những giải pháp có tính khả thi, góp phần nâng cao hiệu quả trong việc xây dựng lối sống của con người Việt Nam trong giai đoạn đổi mới. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề về mặt lí luận gia đình với xây dựng lối sống của con người Việt Nam. 6
- - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm tới vấn đề này. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 2 chương 4 tiết. 7
- CHƢƠNG 1: LỐI SỐNG VÀ VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG XÂY DỰNG LỐI SỐNG CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. LỐI SỐNG VÀ XÂY DỰNG LỐI SỐNG CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1.1. Lối sống 1.1.1.1. Khái niệm Lối sống là phạm trù bao quát một bình diện rộng lớn của con người và xã hội. Do đó, có nhiều ngành khoa học nghiên cứu với nhiều cách tiếp cận khác nhau như: triết học, xã hội học, kinh tế chính trị học, văn hoá học....Một trong những người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “lối sống”như một khái niệm khoa học là một học giả người Đức - Max Weber (1864- 1920). Đến nay, mặc dù đã có nhiều tác giả, nhiều tài liệu đề cập đến khái niệm lối sống nhưng vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về vấn đề này. C.Mác và Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”có viết: “Không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của cá nhân. Mà hơn thế, nó là một phương thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của hoạt động sống của họ, một phương thức sinh sống của họ”. [34, tr.30]. Như vậy, C. Mác đã khẳng định, sản xuất là yếu tố quyết định sự tồn tại của cá nhân và phương thức sản xuất là hình thức hoạt động cơ bản của con người, là phương thức sinh sống của con người, là mặt cơ bản của lối sống. Theo C. Mác, lối sống chính là phương thức, là dạng hoạt động của con người, nó chịu sự quyết định của phương thức sản xuất. Tuy chịu sự quyết định của phương thức sản xuất, nhưng lối sống không phải là sản phẩm thụ động của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và những điều kiện sống khác. Bởi lẽ, phạm vi của lối sống rộng hơn phương thức sản xuất. Ngoài những 8
- hoạt động vật chất, con người còn có hoạt động chính trị, xã hội, nghệ thuật,... Do vậy, phạm vi của lối sống tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội gắn với hoạt động mọi mặt của con người nhưng nó là một hiện thực khách quan, độc lập với ý thức và tình cảm con người. Trong khi đó, lối sống phản ánh hoạt động chủ thể, bao gồm: nhận thức, tình cảm, động cơ, hành vi, ứng xử, thể chế xã hội...và cả những mối liên hệ giữa chúng. Nhiều mặt của lối sống có tính chất độc lập tương đối so với sự phát triển của cơ sở hạ tầng xã hội. Lối sống của con người là kết quả hoạt động và tổ chức của con người trong quá trình thích nghi và biến đổi hoàn cảnh sống mà con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, vừa là chủ thể sáng tạo ra hoàn cảnh sống của chính nó. Lối sống là biểu hiện của cái xã hội trong cái cá nhân, cho nên nó có tính linh hoạt và cơ động cao. Có thể nói, “lối sống là sự khúc xạ hình thái kinh tế - xã hội trong nhận thức, tình cảm, thái độ và hoạt động xã hội, tổ chức đời sống và sinh hoạt cá nhân của con người” [52, tr.28]. C.Mác cho rằng, ở những hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, sẽ có lối sống khác nhau. Đặc biệt, trong những hình thái kinh - tế xã hội có giai cấp, nhất là có đối kháng giai cấp thì lối sống mang tính giai cấp. Theo từng cách tiếp cận lối sống trên phương diện phương thức hoạt động và tổng thể những quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của những cá nhân trong một hình thái kinh tế - xã hội, TS. Rútkêvich cho rằng: “Lối sống là một tổng thể, một hệ thống những đặc điểm chủ yếu nói lên hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định” [53, tr.45]. Còn G.Glezerman cho rằng: “Lối sống là tổng hoà những nét cơ bản, nói lên đặc điểm của hoạt động sống của xã hội, các cá nhân trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định” [52, tr 18]. 9
- Dựa vào phạm trù hình thái kinh tế - xã hội, một phạm trù bao quát tất cả những điều kiện và những nhân tố quyết định lối sống, để xác định nội dung lối sống, TS triết học V.I.Tônxtưkhơ có định nghĩa: “Lối sống là những hình thức cố định, điển hình của họat động sống cá nhân và tập đoàn của con người; những hình thức ấy nói lên đặc điểm về sự giao tiếp, hành vi và nếp nghĩ của họ trong các lĩnh vực lao động, hoạt động xã hội - chính trị, sinh hoạt và giải trí” [53, tr 17- 18]. Cùng với quan điểm xem xét lối sống là một phương thức hoạt động, I.V.Bextugiep cho rằng: “Lối sống được kiến giải như một phương thức hoạt động sống của con người, thì điều hợp lý là lấy các hoạt động sống quan trọng nhất làm nền tảng cho cơ cấu của lối sống, các lĩnh vực đó ta đều biết là: lao động, sinh hoạt, hoạt động chính trị - xã hội và văn hoá xã hội”[Trích dẫn 18, tr.19]. Ở góc độ khác, M.N. Rutkêvich còn khẳng định, lối sống chịu sự quyết định của phương thức sản xuất, khái niệm “lối sống”và khái niệm “phương thức sản xuất”liên hệ chặt chẽ với nhau. Ông viết: “Lối sống là một trong những khái niệm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nó liên quan chặt chẽ với một khái niệm có ý nghĩa mấu chốt đối với nó là phương thức sản xuất của cải vật chất”[53, tr 12]. Theo hướng này, Z.Dunốp khẳng định “lối sống trước hết là những điều kiện trong đó con người tự tái sản xuất về mặt sinh học cũng như mặt xã hội. Đó là toàn bộ những hình thức hành vi hàng ngày, ổn định và điển hình của con người”[Trích dẫn 52, tr.19]. Định nghĩa này cho thấy lối sống chịu sự quy định của điều kiện vật chất, mà nó chính là nền tảng để thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người và xã hội. Ở Việt Nam, cũng có những định nghĩa khác nhau về lối sống, “lối sống”là một danh từ ghép. Lối là lề lối, thể thức, kiểu cách, phương thức. Sống là sinh hoạt, là quá trình hoạt động sinh vật của con người và xã hội. Hiện nay, nhiều từ điển Việt và Việt - Hán đã và đang lưu hành chỉ đề cập 10
- khái niệm “lối sống giản dị” làm ví dụ minh hoạ cho từ “lối” và “nếp sống”khi đề cập khái niệm “sống”. Có tác giả cho rằng, từ lối sống và nếp sống là kết quả của việc tạo từ trong ngôn ngữ tiếng Việt và là cách dùng thuật ngữ khác nhau để dịch một thuật ngữ nước ngoài (Nga). Và “Sách cổ, sách chữ Hán, sách chữ Nôm không có hai thuật ngữ này. Trong thời kỳ cận đại và hiện đại (sau cách mạng tháng Tám) đã bắt đầu hình thành khái niệm về cách thức, lề lối, nề nếp của con người trong sự sống. Các khái niệm trên có thể mượn dịch hoặc phỏng theo từ nước ngoài” [21, tr.21]. Hiện nay khái niệm lối sống được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau: triết học, xã hội học, tâm lý học.... Trong các văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam, khái niệm “lối sống” được đề cập lần đầu tiên ở Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng. Và tiếp tục được sử dụng trong các kỳ đại hội tiếp theo. Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ Năm, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã nhấn mạnh: “Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hoá dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng... Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền” [10, tr.46- 47]. Có thể nói, chưa bao giờ lối sống được Đảng ta quan tâm sâu sắc như hiện nay. Tháng 7 năm 2004, Hội nghị lần thứ mười, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX họp tổng kết, đánh giá tình hình 5 năm thực hiện Nghị quyết năm, Ban chấp hành Đảng khóa VIII, Đảng ta đã 17 lần đề cập đến khái niệm lối sống. Nhận thức tầm quan trọng của vấn đề lối sống, các đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước cũng bắt đầu tập trung nghiên cứu vấn đề này. Mới đây, quan điểm của các nhà khoa học thuộc đề tài cấp Nhà nước KX.06-13 được nêu trong Báo cáo tổng kết chương trình KX-06 (1991-1995) cũng đưa ra quan niệm: “Lối sống, trong chừng mực nhất định, là cách ứng xử của con người 11
- cụ thể, những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của môi trường sống. Môi trường là cái khách quan quy định, là điều kiện khách quan trực tiếp tác động và ảnh hưởng đến lối sống của con người, lối sống của các nhóm xã hội và cộng đồng dân cư”[48, tr.12]. Định nghĩa này tiếp cận lối sống như một phương thức hoạt động thực của con người trong một môi trường nhất định. Và lối sống tuy bị quy định khách quan bởi môi trường sống nhưng khi trở thành văn hóa, lối sống cùng với truyền thống văn hóa cải biến môi trường tự nhiên sao cho phù hợp với hệ thống nhu cầu sống của con người. Do vậy, ở định nghĩa này nó có ưu điểm là làm sáng rõ mối quan hệ biện chứng giữa lối sống và môi trường. Trên cơ sở tiếp cận quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về lối sống, GS Vũ Khiêu trong tác phẩm “Văn hoá Việt Nam, xã hội và con người”đã quan niệm lối sống theo nghĩa rộng: “Lối sống là phạm trù xã hội khái quát toàn bộ hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, nhóm xã hội, các cá nhân trong điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định và biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống: trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa người với người, trong sinh hoạt tinh thần và văn hoá” [26, tr.514]. Xét lối sống gắn liền với hoạt động sống của con người và với một hình thái kinh tế - xã hội, GS Thanh Lê quan niệm: “Lối sống là một hệ thống những nét căn bản nói lên hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các tập đoàn xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định” [31, tr.24]. Ở góc độ xem xét tổng hoà các mặt cơ bản, khắc hoạ những đặc điểm cá nhân, tập thể, giai cấp và cộng đồng, GS.TS Nguyễn Văn Huyên cho rằng: “Lối sống là tổ hợp các mô hình, cách thức và phong thái sống của con người thể hiện trong mọi phương thức cũng như lĩnh vực hoạt động, từ sản xuất, tiêu dùng đến thái độ hành vi, cách tư duy, lối ứng xử 12
- giữa con người với con người, giữa chủ thể với đối tượng, giữa điều kiện với phương tịên và mục đích sống” [24, tr 29]. GS.TS Đỗ Huy khẳng định: “Lối sống là tổng hoà những dạng hoạt động sống điển hình của con người trong điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định” [23, tr353]. Cùng với quan điểm này, TS Nguyễn Viết Chức trong quyển: “Xây dựng tư tưởng đạo đức, lối sống văn hoá ở thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” đã định nghĩa: “Lối sống là tổng hoà những dạng hoạt động sống điển hình và tương đối ổn định của con người được vận hành theo một bảng giá trị xã hội nào đó, trong sự thống nhất với các điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định” [8, tr.66- 67]. GS.TS Huỳnh Khái Vinh trong bài “Kế thừa và phát triển nếp sống thanh lịch của người Hà Nội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” cũng cho rằng: Lối sống là một khái niệm có tính đồng bộ và tổng hợp. Nó bao gồm các mối quan hệ khác nhau của con người, kể cả đặc trưng sinh hoạt của họ trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Như vậy, điểm giống nhau cơ bản của các tác giả khi định nghĩa về lối sống là ở chỗ, cho rằng lối sống bao gồm tất cả các lĩnh vực hoạt động sống cơ bản của con người, từ lao động, sinh hoạt, hoạt động xã hội - chính trị và giải trí. Từ đó, chúng ta có thể khái quát về lối sống ở những đặc trưng cơ bản sau đây: + Thứ nhất, nói đến lối sống là nói đến tổng hoà các hoạt động sống ổn định của con người gắn liền với dân tộc, giai cấp, nhóm xã hội và các cá nhân trong cộng đồng. Vì vậy có thể phân loại lối sống theo ba cấp độ: lối sống của dân tộc, lối sống của giai cấp (nhóm xã hội), lối sống của cá nhân. 13
- + Thứ hai, lối sống chịu sự quy định của phương thức sản xuất và các điều kiện sống của con người. + Thứ ba, đặc trưng bản chất của lối sống trong toàn bộ hoạt động sống là hoạt động lao động sản xuất, bởi nó là hoạt động có tính chất nền tảng, có tính người trong việc sáng tạo ra các giá trị vật chất cũng như các giá trị tinh thần. + Thứ tư, tổng hoà các khuôn mẫu ứng xử, các thể chế xã hội được vận hành theo một bảng giá trị xã hội nào đó trong điều kiện kinh tế xã hội nhất định, đó chính là nội dung và phạm vi của lối sống. + Thứ năm, lối sống nói chung mang tính văn hoá, bởi vì trong các hành động xã hội, các quan hệ xã hội, thể chế xã hội, các khuôn mẫu ứng xử... trong lối sống đều mang ý nghĩa văn hoá, hướng tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Như vậy, lối sống được kiến giải như một phương thức hoạt động sống của con người thì điều hợp lí là lấy các lĩnh vực hoạt động sống quan trọng nhất làm nền tảng cho cơ sở của lối sống các lĩnh vực đó ta đều biết là: lao động, sinh hoạt, hoạt động chính trị - xã hội và văn hóa - xã hội. Từ sự phân tích ở trên, có thể khái quát một cách chung nhất như sau: Lối sống là tổng hợp những dạng hoạt động sống ổn định của cộng đồng (dân tộc, giai cấp, nhóm xã hội…) và các cá nhân, được vận hành theo những chuẩn mực giá trị xã hội nào đó trong sự thống nhất với các điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Khái niệm trên bao gồm mấy vấn đề cơ bản sau: + Một là, lối sống bao gồm tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con người trong một xã hội nhất định, lối sống biểu hiện qua quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người với con người trong lao động sản xuất, trong lĩnh vực chính trị, trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa, trong ứng xử giao tiếp hàng ngày. Lối sống là phương thức sống của con người trong một chế độ 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ Triết học: Vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay (qua thực tế ở Hà Nội) - Đặng Thị Kim Anh
21 p | 276 | 69
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Triết lý nhân sinh trong Tây du ký
116 p | 489 | 55
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác - Lênin cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc
123 p | 191 | 52
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Quan điểm triết học Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa con người và tự nhiên với việc bảo vệ môi trường sinh thái ở Đà Nẵng hiện nay
26 p | 367 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, thực trạng và giải pháp phát triển
85 p | 168 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Nghệ thuật và vai trò của nghệ thuật trong việc hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam giai đoạn hiện nay
91 p | 87 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ, Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng triết học khoa học của Thomas Samuel Kuhn trong tác phẩm Cấu trúc các cuộc cách mạng khoa học
76 p | 46 | 9
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại
25 p | 97 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Sự phê phán của C.Mác đối với tư tưởng triết học của Pru-đông trong tác phẩm “sự khốn cùng của triết học
81 p | 67 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vấn đề đạo đức trong triết học của Immanuel Kant và ý nghĩa thời đại
110 p | 10 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Toán học: Một số tính chất của đồng điều địa phương cho môđun Compắc tuyến tính
42 p | 108 | 6
-
tr.Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Phát huy giá trị truyền thống của gia đình Nghệ An trong giai đoạn hiện nay
15 p | 89 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng tam quyền phân lập trong triết học khai sáng
98 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm tự do trong triết học hiện sinh - Giá trị và hạn chế
115 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh
100 p | 3 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Triết lý nhân sinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
127 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng triết học về khoa học của Karl Popper trong một số tác phẩm
108 p | 5 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng Nguyễn Phước Đức Đạt qua tác phẩm
107 p | 6 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn