Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Vai trò của chùa Phật Tích đối với sự phát triển Phật giáo thời Lý (từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIII)
lượt xem 9
download
Đề tài khảo cứu sự du nhập, tiếp biến văn hóa Phật giáo, văn hóa Ấn Độ với văn hóa bản địa của người Việt những năm đầu Công nguyên qua việc nghiên cứu chùa Phật Tích; khẳng định vai trò, giá trị của chùa Phật Tích đối với sự phát triển lịch sử Phật giáo Việt Nam... Mời các bạn cùng tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Vai trò của chùa Phật Tích đối với sự phát triển Phật giáo thời Lý (từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIII)
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------- DƢƠNG VĂN ĐỨC VAI TRÕ CỦA CHÙA PHẬT TÍCH ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO THỜI LÝ (TỪ THẾ KỶ XI ĐẾN THẾ KỶ XIII) LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC Hà Nội -2020 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------- DƢƠNG VĂN ĐỨC VAI TRÕ CỦA CHÙA PHẬT TÍCH ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO THỜI LÝ (TỪ THẾ KỶ XI ĐẾN THẾ KỶ XIII) Chuyên ngành: Tôn giáo học Mã số: 60 22 03 09 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG: NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN THỊ KIM OANH TS. NGUYỄN TIẾN THIỆN Hà Nội - 2020 2
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được công bố trên bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Dƣơng Văn Đức 3
- LỜI CẢM ƠN Tác giả xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo trong Bộ môn Tôn giáo học đã giảng dạy, trang bị kiến thức giúp tác giả nắm vững những vấn đề lý luận và phương pháp luận để hoàn thành tốt luận văn này. Đặc biệt, tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Tiến Thiện - người thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tác giả trong suốt quá trình làm luận văn. Con xin đê đầu đảnh lễ và tri ân chư tôn Hòa Thượng, chư Thượng tọa lãnh đạo Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã quan tâm, tạo nhiều thuận duyên cho con trong suốt quá trình học tập, bên cạnh đó nhờ sự động viên và trợ duyên quý báu của gia đình cũng như đàn na thí chủ. Kính chúc Chư Liệt vị pháp thể khinh an, đạo lộ tấn pháp, chúng sinh dị độ, Phật đạo viên thành! Xin chân thành cảm ơn! Tác giả luận văn Dương Văn Đức 4
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1 Chương 1: TỔNG QUAN VỀ VỊ TRÍ ĐỊA LÝ, ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, XÃ HỘI VÙNG ĐẤT PHẬT TÍCH VÀ LỊCH SỬ KHỞI DỰNG CHÙA PHẬT TÍCH ......... 7 1.1. Đặc điểm tự nhiên xã Phật Tích. ................................................................. 7 1.1.1. Vị trí địa lý - điều kiện tự nhiên. ............................................................. 7 1.1.2. Đường đi đến xã Phật Tích ....................................................................... 8 1.2. Vị thế danh lam xã Phật Tích ...................................................................... 9 1.3. Lịch sử xã Phật Tích ................................................................................... 11 1.4. Tình hình đời sống dân cƣ, kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội xã Phật Tích. ........................................................................................................... 13 1.4.1. Tình hình đời sống dân cư, kinh tế xã Phật Tích. .................................. 13 1.4.2. Về tình hình chính trị, văn hóa, xã hội .................................................. 14 1.5. Vị thế di tích chùa Phật Tích ..................................................................... 15 1.6. Lịch sử chùa Phật Tích ............................................................................... 17 1.7. Quy mô kiến trúc khảo cổ và hiện nay tại chùa Phật Tích ..................... 18 1.7.1. Quy mô kiến trúc chùa Phật Tích hiện nay. .......................................... 18 1.7.2. Quy mô kiến trúc khảo cổ chùa Phật Tích. ........................................... 25 1.8. Những di tích bảo vật quốc gia tại chùa Phật Tích ................................. 43 1.8.1. Tượng Phật A Di Đà .............................................................................. 43 1.8.2. Hàng linh thú ......................................................................................... 44 1.8.3. Tượng nhục thân Chuyết Công hòa thượng .......................................... 45 1.9. Lễ hội. ........................................................................................................... 46 Chương 2: NHỮNG KHÍA CẠNH THỂ HIỆN VAI TRÕ CỦA CHÙA PHẬT TÍCH ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM THỜI KỲ NHÀ LÝ (TỪ THẾ KỶ XI ĐẾN THẾ KỶ XIII) ................................................................................ 49 2.1. Chùa Phật Tích đối với sự phát triển Phật giáo thời Lý. ........................ 49 2.1.1. Nơi hội tụ các luồng tư tưởng và dấu ấn tam giáo đồng nguyên .......... 49 2.1.2. Buổi đầu du nhập Đạo Phật đến thế kỷ X ............................................. 51 2.2. Chùa Phật Tích là trung tâm Phật giáo thời Lý ...................................... 57 5
- 2.2.1. Đôi nét về lịch sử Phật giáo thời Lý ...................................................... 57 2.2.2. Chùa Phật Tích trở thành trung tâm Phật giáo thời nhà Lý ................... 59 2.3. Dấu ấn kiến trúc và điêu khắc thời Lý tại chùa Phật Tích. .................... 66 2.3.1. Pho tượng A Di Đà: ............................................................................... 69 2.3.2. Đầu tượng tiên nữ .................................................................................. 71 2.3.3. Tượng nữ thần đầu người mình chim (Kinnari) .................................... 72 2.3.4. Lá đề chạm rồng .................................................................................... 72 2.3.5. Bệ chân cột trang trí các nhạc công thiên thần (Gandharva) ................ 73 2.3.6. Tượng thần hộ pháp (Dvarapala) ........................................................... 73 2.3.7. Hàng linh thú: ........................................................................................ 74 2.4. Tinh thần dung thông các thiền phái tại chùa Phật Tích ........................ 79 Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ, BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY 92 3.1. Đánh giá vai trò của chùa Phật Tích đối với Phật giáo thời Lý ............. 92 3.2. Tồn tại .......................................................................................................... 95 3.3. Định hƣớng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di tích trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. ....................................................................................... 96 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 100 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 104 PHỤ LỤC 6
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Nghị quyết Trung ương 5, Khóa VIII đã đề ra nhiệm vụ xây dựng chính sách văn hóa đối với tôn giáo “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của Đảng”. Văn kiện Đại hội XII cũng nhấn mạnh: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo... Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước”. Luật Di sản văn hoá được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khoá X kỳ họp thứ 9 thông qua đã khẳng định “Di sản văn hoá Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của Di sản văn hoá nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta”. Đó là những chính sách đúng đắn đối với các tôn giáo, nhằm phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, bền vững của dân tộc ta được hun đúc đối với sự phát triểnlịch sử dân tộc là một trong những nhiệm vụ trong tâm hiện nay của Đảng. Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo. Trong đó Phật giáo cũng được quan tâm bảo tồn, gìn giữ và phát huy. Các vấn đề về di tích lịch sử, di tích kiến trúc - nghệ thuật, di tích khảo cổ và danh lam thắng cảnh Phật giáo được nhận thức về vai trò, ý nghĩa ngày càng được nâng cao. Bảo vệ di tích, phát huy giá trị của di tích phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đấu tranh chống vi phạm đã trở thành nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân. Trong suốt chặng đường dựng nước và giữ nước, từ buổi đầu dành độc lập, tự chủ phải kể đến vai trò của Phật giáo thời Lý, như là một hiện tượng hoàn bị nhất, từ sự dung hòa các lớp văn hóa, tín ngưỡng du nhập với văn hóa, tín ngưỡng bản địa cách kỳ diệu, uyển chuyển thành một sắc thái đặc trưng của phong cách Phật giáo Việt Nam, đối với tiến trình lịch sử của dân tộc, từ một tôn giáo ngoại lại Phật giáo đã trở thành quốc giáo. Triều đại nhà Lý tồn tại hơn 200 năm (1009-1225) với chín đời vua. Trong lịch sử Việt Nam, 1
- triều Lý là một triều đại lớn và để lại nhiều dấu ấn sâu sắc trên các lĩnh vực khác nhau, nổi bật và gắn liền là những dấu ấn Phật giáo, sự kế thừa từ buổi dầu du nhập và tiền để tiếp tục phát triển Phật giáo thời Trần. Vai trò của Phật giáo đối với những quyết sách quân sự, chính trị, kinh tế, xã hội dựng nền độc lập, tự chủ buổi đầu và những thăng trầm qua các thời đại Lý - Trần. Đó cũng là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của Phật giáo. Nhắc đến thời kỳ nhà Lý, là phải nhắc đến thời kỳ Phật giáo được hưng thịnh nhất, hàng trăm ngôi chùa được xây dựng, các hệ thống kinh, luật, luận và tư tưởng, chính sách ủng hộ hoằng dương Phật pháp. Nhưng một trong những ngôi chùa được đầu tư kiến thiết với quy mô lớn phải kể đến chùa Phật Tích tọa lạc trên núi Phật Tích (còn gọi là núi Lạn Kha) – xã Phật Tích – Huyện Tiên Du – Tỉnh Bắc Ninh,với tên chữ là “Vạn Phúc Tự”. Với ý nghĩa, vai trò quốc tự Phật Tích là trung tâm Phật giáo thời kỳ nhà Lý. Và việc nhận thấy rõ tầm quan trọng của việc bảo tồn những giá trị di sản vật thể và phi vật thể đặc biệt khu di tích lịch sử Quốc gia Chùa Phật Tích trong lịch sử dân tộc và lịch sử Phật giáo Việt Nam từ buổi đầu dựng nước và giữ nước. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài của luận văn, trên cơ sở lược khỏa tổng quan các tài liệu bàn về: Vai trò của Chùa Phật Tích đối với sự phát triển Phật giáo Việt Nam nói chung và Phật giáo Thời Lý (Từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIII) nói riêng. 2. Tình hình nghiên cứu Chùa Phật Tích với vị thế là ngôi chùa cổ, có vai trò quan trọng đối với Phật giáo thời Lý nói riêng, dòng chảy Phật giáo Việt Nam nói chung, vì vậy, các vấn đề xoay quanh chùa Phật Tích được đề cập đến ở nhiều công trình nghiên cứu khác nhau, ở nhiều góc độ khác nhau: Tài liệu gốc chúng tôi tiếp cận nghiên cứu có thể kể đến như: Hồ sơ xếp hạng di tích Quốc gia đặc biệt chùa Phật Tích, Hồ sơ là sự tổng hợp tất cả các thông tin về chùa Phật Tích. Trong đó các tài liệu cổ xưa cũng được tập hợp đầy đủ. Tài liệu của các nhà nghiên cứu có đề cập đến liên quan trực tiếp như: Thích Đức Thiện (2014), Di sản Phật Tích, Nxb Mỹ Thuật. 2
- Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh năm 2013 tái bản cuốn sách Di tích Lịch sử - văn hóa tỉnh Bắc Ninh, cuốn sách gồm hai phần nội dung chính: giới thiệu toàn bộ các di tich lịch sử văn hóa tỉnh Bắc Ninh theo địa danh, địa giới hành chính và phần phụ lục ảnh. Cuốn sách là kết quả của việc sử dụng các tư liệu thực tiễn kết hợp với tư liệu lưu trữ của Bảo tàng và các cơ quan chuyên môn tại tỉnh Bắc Ninh và các cơ quan lưu trữ khác. Nhận thức được vai trò của chùa Phật Tích với sự phát triển lịch sử Việt Nam nói chung, lịch sử Phật giáo Việt Nam nói riêng, Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Nghiên cứu Phật học phối hợp với Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học: Phật Tích đối với sự phát triển lịch sử. Hội thảo đã nhận được sự quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu, khoa học quan tâm đến lĩnh vực này, các kết quả nghiên cứu được thể hiện trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Phật Tích đối với sự phát triển lịch sử. Ngoài ra trong các công trình nghiên cứu Phật giáo Việt Nam nói chung, có nhiều tác phẩm đề cập ít nhiều đến các khía cạnh liên quan của chùa Phật Tích: lịch sử, mỹ thuật, lễ hội,…, như: Thích Đức Thiện – Nguyễn Quốc Tuấn (Đồng chủ biên), Phật giáo thời Lý với 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, Nxb Chính trị Quốc gia, Nguyễn Bá Lăng (1972), Kiến trúc Phật giáo, Nxb Vạn Hạnh, Kiều Thu Hoạch (1965), Tìm hiểu Thơ văn các nhà sư thời Lý – Trần, Tạp chí Văn học. Ở khía cạnh khác, các công trình nghiên cứu về vùng đất kinh Bắc xưa cũng không thể không đề cập đến các vấn đề có liên quan đến chùa Phật Tích: Ty Văn hóa và Thông tin (1982), Địa chía Hà Bắc, Thư viện tỉnh Bắc Ninh; Đỗ Trọng Vĩ (1997), Bắc Ninh dư địa chí, Nxb Văn hóa Thông tin, Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh Bắc Ninh (1997), Văn hiến Kinh Bắc, tập 1; Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh Bắc Ninh (2002), Văn hiến Kinh Bắc, tập 2. Nhìn chung với vai trò đặc biệt của mình, chùa Phật Tích được đề cập đến ở nhiều khía cạnh khác nhau, trong nhiều công trình nghiên cứu khác nhau, tuy nhiên một công trình nghiên cứu đầy đủ về vai trò của chùa Phật Tích đối với sự phát triển 3
- Phật giáo thời Lý thì còn bỏ ngỏ, luận văn sẽ là công trình bù đắp vào khoảng trống nói trên. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Khảo cứu sự du nhập, tiếp biến văn hóa Phật giáo, văn hóa Ấn Độ với văn hóa bản địa của người Việt những năm đầu Công nguyên qua việc nghiên cứu chùa Phật Tích. - Khẳng định vai trò, giá trị của chùa Phật Tích đối với sự phát triểnlịch sử Phật giáo Việt Nam. - Trên cơ sở nghiên cứu chùa Phật Tích đối với sự phát triển lịch sử dân tộc ta, luận văn đề xuất định hướng, giải pháp thiết thực, hữu hiệu góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di tích trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại và hội nhập quốc tế hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn tập trung giải quyết một số vấn đề như sau: - Luận văn nghiên cứu các thư tịch cổ, tài liệu nghiên cứu về chùa Phật Tích thời kỳ đầu Công nguyên khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam. - Nghiên cứu tổng quan về chùa Phật Tích qua các thời kỳ lịch sử ( thời Lý.) - Nghiên cứu khảo sát thực trạng chùa Phật Tích hiện nay (kiến trúc, điêu khắc, tài liệu cổ vật, hoạt động tâm linh, lễ hội...). - Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di tích chùa Phật Tích trong thời kỳ hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn đi sâu nghiên cứu về chùa Phật Tích đối với sự phát triển Phật giáo Thời kỳ Nhà Lý (thế kỷ XI – XIII). 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi thời gian: Nghiên cứu chùa Phật Tích đối với sự phát triểnlịch sử Phật giáo và phát triển đến thời kỳ nhà Lý (Bởi theo sử liệu từ thời Lý Thánh Tông chùa được xây dựng thành Đại danh Lam và dấu tích vật chất vẫn còn giữ được đến nay). - Phạm vi không gian: Ngoài nghiên cứu khảo sát chùa Phật Tích, luận văn 4
- còn mở rộng phạm vi nghiên cứu một số ngôi chùa từng là đại danh lam cổ tự như: chùa Dâu, Chùa Dạm, chùa Bách Môn, ...trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu * Phương pháp thu thập tài liệu - Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Đề tài của luận văn là đề tài mang tính lịch sử, tính hồi cố, chủ yếu sử dụng tài liệu lịch sử học, khảo cổ học, phật học, xã hội học... để khái quát, bàn luận những vấn đề nghiên cứu. Tài liệu lịch sử hay sử liệu cũng hết sức phong phú, đa dạng, theo quan điểm hiện đại là tất cả những gì chứa đựng những lượng thông tin về lịch sử, giúp người nghiên cứu khai thác, gạn lọc để tái hiện và nghiên cứu quá khứ lịch sử. Không những tài liệu chữ viết, mà tài liệu vật chất, những di tích di vật, những huyền thoại và truyền thuyết dân gian, những phong tục, tập quán cho đến tiếng nói tín ngưỡng... tất cả đều được coi là nguồn sử liệu. Do vậy, vấn đề thu thập tài liệu và phân loại tài liệu là phương pháp nghiên cứu quan trọng. Vận dụng phương pháp này, nghiên cứu sinh đã tập hợp các tư liệu thành văn và không thành văn, phân loại các tài liệu theo lĩnh vực, tiêu chí sau: - Các tài liệu chính sử đã công bố: lịch sử Việt Nam, lịch sử Phật giáo Việt Nam... - Các trước tác: tư tưởng, đạo đức, văn chương, nghệ thuật, ... của các nhà cầm quyền, các nhà tu hành, các tác gia thời nhà Lý. - Các tài liệu của các nhà khoa học nghiên cứu về chính trị, văn hóa, Phật giáo thời nhà Lý. - Các tài liệu của các khoa học nghiên cứu về chùa Phật Tích. - Các tài liệu có liên quan đã hoặc chưa được công bố mà học viên sưu tầm, phát hiện. Đây vừa là một nội dung phương pháp vừa là một thao tác nghiên cứu cần thiết để thực hiện đề tài của bản luận văn. * Phương pháp liên ngành: Khi nghiên cứu một hiện tượng Phật giáo, người nghiên cứu có thể sử dụng các kết quả nghiên cứu, các phương pháp, các khái niệm, phạm trù của các ngành khoa học xã hội và nhân văn liên quan đến hiện tượng đó vào việc nghiên cứu của 5
- mình. Luận văn sẽ vận dụng phương pháp này vào nghiên cứu biểu hiện của quan hệ giữa Phật giáo thời đại Lý, mà cụ thể là vai trò của chùa Phật Tích đối với sự phát triển Phật giáo thời kỳ nhà Lý. * Phương pháp phân tích và tổng hợp Đây là phương pháp nghiên cứu phổ biến trong các khoa học mà khoa học luận phương Tây đã đề xướng. Phương pháp phân tích là phân chia sự vật thành các bộ phận, các yếu tố để nghiên cứu, còn phương pháp tổng hợp là tìm ra các mối liên hệ giữa các yếu tố, các bộ phận đã được phân tích. Từ đó xác định cái nhìn khái quát đối với sự vật. Cái khái quát mà người nghiên cứu thu được là kết quả nhận thức khoa học, không phải là cái cụ thể giản đơn của vấn đề nghiên cứu. Học viên vận dụng phương pháp này vào nghiên cứu đề tài luận văn để phân tích là vai trò của chùa Phật Tích đối với sự phát triển Phật giáo thời kỳ nhà Lý. Sau đó tổng hợp lại để thấy được ảnh hưởng của Phật giáo đối với toàn bộ nền văn hóa, kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng của vương triều Lý một cách tổng quát. Ngoài ra, trong luận văn, học viên còn sử dụng các phương pháp khác như: Tiếp cận lịch sử; So sánh và đối chiếu; Logic và lịch sử; ... để nghiên cứu, bổ sung cho các phương pháp đã nêu trên. 6. Những đóng góp của luận văn - Luận văn nghiên cứu chùa Phật Tích đối với sự phát triểnlịch sử Phật giáo và phát triển đến thời kỳ nhà Lý, trên cơ sở đó đề xuất với cấp có thẩm quyền, cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan chuyên môn định hướng, giải pháp thiết thực, hữu hiệu góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di tích nói chung, chùa Phật Tích nói riêng trong thời kỳ hiện nay. - Luận văn có thể là tài liệu tham khảo, nghiên cứu cho các cho các đề tài khoa học khác có liên quan về các lĩnh vực: lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo... 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn gồm 3 chương, 16 tiết 6
- Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ VỊ TRÍ ĐỊA LÝ, ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, XÃ HỘI VÙNG ĐẤT PHẬT TÍCH VÀ LỊCH SỬ KHỞI DỰNG CHÙA PHẬT TÍCH 1.1. Đặc điểm tự nhiên xã Phật Tích. 1.1.1. Vị trí địa lý - điều kiện tự nhiên. Phật Tích là một xã thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Mã hành chính: 9349. Phía Tây xã Phật Tích giáp xã tri Phương và Hoàn Sơn có các ngọn đồi: Mâm Xôi, Con Lợn, Con Nghê, Con Phượng… đồi đất không cao, ẩn hiện những cây tràm, vườn tram, cây chè xum xuê cổ thụ. Phía Đông xã Phật Tích giáp xã Việt Đoàn, khu vực xóm Núi Đất (Làng Ngõ Xá) có một gò đất, gò đất nằm thoai thoải, trông xa giống như một hạt ngọc. Phía Nam Phật Tích giáp xã cảnh Hưng và Minh Đạo. Đoạn đê sông Đuống từ xã Minh Đạo đến xã Tri Phương là đường phân gianh giữa xã Phật Tích và xã Cảnh Hưng. Thủa xưa, sông ngòi nước ta chưa được định hình, những nhánh sông lớn, sông nhỏ hầu như không có đê bao bọc vì thế hang năm mỗi mùa mưa về, cả một vùng rộng lớn ngập chìm dưới nước. Khi mùa khô nước rút nhanh xuống các lòng sông, còn trơ lại lớp phù sa phủ dày khắp các gò bãi, đồng ruộng… Dân số khoảng 5945 người với diện tích đất tự nhiên là 543,81 ha. Trong đó đất nông nghiệp chiếm 293,45 ha, được chia như sau: Đất ven đê: Do phù sa sông Đuống bồi đắp, quá trình bồi tụ hàng ngàn năm, lớp phủ thực vật bị phân giải thành than bùn. Lớp phù sa bồi lấp thành những cánh đồng bát ngát phì nhiêu. Đặc tính của loại đất này là mùn cao, ít chua, lượng đạm khá, dễ tiêu, thành pần cơ giới nhẹ. Phù hợp với việc canh tác, cấy lúa, trồng hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày. Đất phù sa ngập nước xen kẽ đồi núi: Do đặc điểm của địa hình, đồi núi xen kẽ tạo hình lòng chảo, nước ứ đọng, tập trung ở các lang Ngô Xá, Cổ Miếu, Phúc Nghiêm. 7
- Đất đồi núi Feralíttích: Thành phần sa thạch và phiến thạch sét, đặc tính dễ xói mòn, rửa trôi, dẫn đến bạc màu. Loại đất này phù hợp với việc trồng cây ăn quả và trồng rừng: Trám vàng, thông, bạch đàn… Vấn đề trị thủy là vấn đề nan giải. Dưới thời Nguyễn, dòng sông Thiên Đức bị bồi lấp gây lụt lội triền miên. Năm 1837 tổng đốc Tôn Thất Bật tâu vua “Cửa sông Thiên Đức lối nước chảy bồi lấp gần thành bình địa. Phía ngoài cửa sông ấy tiếp giáp với sông Nhị Hà lại có đất bãi tầm xa nối liền ở giữa sông đã lâu năm, trước mấy lần khơi thông, lối nước chảy cũ vừa khơi ra lại tắc liền”. Năm 1851 Nguyễn Tư Giảm được cử làm Hiệp Lý Đê Chính đã đem tài năng xin được khơi thẳng một đoạn sông nhưng không được chấp nhận. Tháng 7/1858 nước sông Thiên Đức lên co, gây lụt lội hai huyện Đông Ngàn và Tiên Du. Năm 1861 vua Tự Đức mới đồng ý cho di dân 15 xã ngoại đê và nắn dòng khơi sông đắp đê, xây thêm các cống thoát nước. Năm 1872, thổng Thụ Chiền lại một lần nữa được phép thực hiện dự án nạo vét lòng sông Thiên Đức, đắp đê ngăn nước lũ đoạn từ Nghĩa Chỉ (Minh Đạo) chạy sát xã Phù Lập (Sộp) nối vào thôn Cao Đường (Tri Phương). Ven theo chân đê, len lỏi giữa cánh đồng làng Phật Tích và Vĩnh Phú có dòng Tào Khê (Khe cựu) rộng chừng 15m – 20m “là hạ lưu của sông Tiêu Tương, huyện Đông Ngàn chảy qua các xã Dương Húc, Đại Vi, Đại Sơn, Vĩnh Phú, Phật Tích, Nội Viên, Chi Nê xuống xã Lam Miệt của huyện Quế Dương, dài 4 dặm, rộng 3 trượng, bình thường nước sâu ba bốn thước, khoảng giữa hạ thu nước sáu, bảy, tám thước”. Dòng Tào Khê là nguồn cung cấp nước tưới, tiêu cho đồng ruộng khu vực phía Nam xã Phật Tích. 1.1.2. Đường đi đến xã Phật Tích Từ thủ đô Hà Nội ngược phái về phía Bắc theo Quốc lộ 1A hướng Hà Nội – Lạng Sơn đi khoảng 20km đến thị xã Từ Sơn rẽ phải theo tỉnh lộ, qua cầu Đồng Xép đi 5km là đến di tích. Hoặc từ Hà Nội đi theo Quốc lộ 1B hướng Hà Nội – Lạng Sơn đi 20km đến cầu Đồng Xép rẽ phải đi 5km là đến di tích. 8
- Đường thủy: Từ Hà Nội xuôi theo dòng sông Đuống qua hết địa phận Hà Nội, đi tới bến phà Tri Phương, bên kia là xã Đình Tổ, bên này là xã Tri Phương và Phật Tích, lên bến phà thuộc địa phận Tri Phương lên bờ đê đi khoảng 2km là đến di tích. Nói chung, đường đi đến xã Phật Tích đều thuận lợi cho mọi phương tiện giao thông đương bộ. 1.2. Vị thế danh lam xã Phật Tích Ngược dòng lịch sử, thời các vua Hùng dựng nước, Tiên Du nằm trong bộ Vũ Ninh, vùng đất trù phú của nước Văn Lang xưa. Đến buổi ngàn năm Bắc thuộc miền này là địa vực của huyện Long Biên. Đến khi đất nước độc lập, lịch sử đặt cho nó cái tên Tiên Du phản ánh một vùng đất kỳ vĩ và lãng mạn. Tiên Du là chiếc nôi ra đời của thiên anh hùng ca ông Gióng, một mô hình anh hùng cứu nước điển hình mà mọi người Việt hôm nay vẫn còn xúc động tự hào. Phật Tích - Tiên Du là vùng đất cổ, một địa danh đầy ắp những huyền tích ly kỳ. Trong hệ thống Trong hệ thống đồi núi của xã Phật Tích, đẹp nhất là núi Lạn Kha (còn gọi là núi Tiên Du). Núi Lạn Kha nằm trong địa phận làng Phật Tích nên người dân quanh vùng thường lấy tên làng đặt ten cho núi Phật Tích (Núi Lạn Kha) là đoạn cuối của dãy Nguyệt Hằng Sơn có tên nôm là Núi Chè (Trà Sơn) Núi Chè không ao, nhưng ở đó mọc lên muôn ngàn mỏm đá đứng với thông reo vi vút, chứa đựng nhiều huyền tích, huyền thoại kỳ thú. Trên đỉnh núi có khối đá vuông rất lớn, theo các cụ cao niên kể lại đó là bàn cờ tiên gắn liền với sự tích Tiều phu Vương Chất gặp Tiên. Non cao, non Xỉ, non Nghè là các ngọn của núi Phật Tích. Non Xỉ được giải thích câu chuyện tranh chấp uy tín giữa bà Chúa Chè (Đặc Thị Huệ) và Trạng Bựu. Non Nghè nơi nhân dân xây dựng Nghề Thần Cao Sơn. Núi Bát Vạn nằm ở phái Bắc xã Phật Tích, tiếp giáp xã Việt Đoàn và Liên Bão. Tương truyền rằng: Cao Biền là tướng giặc phương Bắc, sang đánh dẹp phương Nam, vốn giỏi phép thuật, ông phát hiện trên đỉnh Non Tiên (núi Phật Tích) có huyệt đế vương. Để dân Nam không thể xưng vương mà chống lại triều đình Phương Bắc, Cao Biên đã cho mở ở dưới chân núi làng Trùng Minh một lò gạch, 9
- nung 8 vạn bảo tháp và yểm trên núi Trùng Minh để trấn long mạch, nên gọi là núi Bát Van. Sử chép “Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp, tiếp chiến ở núi Bát Vạn, đắp thành dưới chân núi, khi chết người địa phương lập đền thờ”. Nguyễn Thủ Tiệp, người Phúc Kiến (Trung Quốc), cha là Nguyễn Nê, làm quan đời Tấn (936 – 946) đến chức Kiêu Kỵ Đại Tướng Quân Đô Đốc Quản Bình Dương Hầu. Nhân lúc nước Nam có loạn, Nguyễn Nê mang 1.000 lừa và 8 vạn tinh binh. Lúc bấy giờ Thiên Sách Vương (tức Ngô Xương Ngập) bỏ triều cống. Nguyễn Nê đem đại quân đến xã Thanh Quả, truyền quân hạ trại, sau lấy người con gái xã Thanh Quả là Nguyễn Thị Mối, sinh được 3 người con trai là Nguyễn Khoan, Nguyễn Thủ Tiệp và Nguyễn Siêu đều tinh bẩm phi thường. Nguyễn Nê muốn mưu tính việc lớn, bèn ân uy, giáo dưỡng kiêm thi. Lớn lên 3 ông đều trở thành tướng giỏi đánh đâu được đấy. Ngày 03 - 3 năm Giáp Thìn, Nguyễn Nê không bệnh mà chết, tướng sỹ là Đỗ Hiệu, Trần Mưu đưa về táng dưới núi Thanh Xuân (tỉnh Phúc Kiến - Trung Quốc) con trai là Nguyễn Khoan, Nguyễn Thủ Tiệp và Nguyễn Siêu ở ại quê mẹ - đất Nam thay nhau nắm giữ binh quyền. Ngô Quyền xưng vương, phong cho Nguyễn Khoan làm Điều hạt Tướng quân, Nguyễn Thủ Tiệp làm Tứ Xuyên Đô Quân, chiếm cứ vùng đất Tiên Du. Ngày nay tại thôn Phúc Nghiêm – xã Phật Tích vẫn còn đền thờ Tướng quân Nguyễn Thủ Tiệp cùng nhiều giai thoại xung quanh những nhân vật truyền thuyết, thêm khẳng định về vùng đất ngàn năm văn vật nơi đây. Xung quanh truyền thuyết tên làng, tên núi, tên chùa, làng Phật Tích nay còn lưu truyền nhiều câu chuyện mang đậm tính huyền thoai có màu sắc đọa giáo, Phật giáo: Bà chúa Vĩnh, tích chùa Kim Ngưu, chuyện am Mở Mang vị tăng sĩ Ấn Độ Khâu Đà La - Man Nương và đền Nguyên Phi Ỷ Lan thôn Vĩnh Phú, truyền thuyết lăng Quốc Hoa Công Chúa thôn Cổ Miếu, truyền thuyết Từ thức gặp Tiên. Với vị trí địa linh, cảnh quan có nhiều lợi thế khiến cho làng quê, thôn, xóm trù mật, dân cư đông đúc. Từ trước đời thuộc Tùy – Đường, Phật Tích đã trở thành một trung tâm Phật giáo của người Việt cổ, là nơi hành đạo của nhiều cao tăng, đạo sỹ; chùa tháp được xây dựng khá nhiều. Từ ngôi tháp đổ lộ ra pho tượng A Di Đà vì vậy làng có tên Phật Tích. 10
- 1.3. Lịch sử xã Phật Tích Năm 1975 đoàn khảo cổ học do giáo sư sử học Trần Quốc Vượng làm trưởng đoàn, cùng một số cán bộ bảo tàng Sở văn hóa thông tin tỉnh Hà Bắc đã tiến hành điều tra, khảo cứu một số di chỉ dọc bờ sông Tiêu Tương cổ và núi Lạn Kha, núi Hiên Vân, núi Hổ đã phát hiện nhiều hiện vật. các loại công cụ chết tác bằng đá, vòng khuyên, hoa tai, chuỗi hạt, những mảnh gốm hoa văn hình sóng nước, hình xoắn ốc khắc vạch, vân thừng… bằng phương pháp khoa học Viện khảo cổ đã xác định tương đương với thời đại Đông Sơn, có niên đại cách ngày nay trên 3.5000 năm. Điều đó khẳng định: Vào thời đại đá chuyển tiếp sang thời đại đồ đồng đã có con người đến các địa bàn này cư trú, khai phá rừng núi như các địa danh rừng Nìa, rừng Sộp, rừng Nỗ… xây nhà dựng cửa, lập xóm làng. Ban đầu các cư dân đã chọn các đồi gò, sườn đồi, chân núi, nhưng khu đất cao, thuận lợi cho phòng ngự, sản xuất, săn bắn, trồng tỉa… Những dấu tích cổ xưa ngày nay phần nào còn được phản ánh bằng các tên làng: kè Mưỡn, kè Ngò, kè Sộp… tên gọi các cánh đồng ở Phật Tích: Trùng Mẹo, đồng Xi, đồng Dé… Đặc biệt mới đây lại phát hiện thêm những lưỡi Bôn, chiếc Rìu có vai bằng đá cứng, Rìu lưỡi xéo bằng đồng có lỗ tra cán ở khu vực thùng lò gạch xã Tri Phương, di chỉ bãi Tháp Đại Trung (Đại Đồng). Tất cả các hiện vật đều được xác định có từ thời đại Hùng Vương. Căn cứ vào các tài liệu của ngành khỏa cổ học và ngành khoa học lịch sử, khẳng định: Ngay từ thời Hùng Vương dựng nước. Phật Tích đã là một trong những điểm quần cư sớm của con người. Thuở ấy, cư dân sống thanh bình trong quốc gia Văn Lang, không chia ra cấp bậc, uy quyền, không có ai xâm lấn, Vua – Tôi cùng cầy cấy yêu thương nhau. Trải qua nhiều năm, nhà nước Văn Lang của các vua Hùng, nhờ phát triển nông nghiệp và thủ công nghiệp lại có quân mạnh, tướng hùng trở thành quốc gia giàu mạnh. Năm Quý Mão (258 TCN) Thục Phán thấy nước Văn Lang giàu có, liền mang quân đánh Hùng Vương, thống nhất các bộ tộc Vua Hùng vào bộ tộc mình, cho xây thành, đắp lũy, đóng đô ở Phong Khê (nay là Cổ Loa), đổi hiệu là nước Âu Lạc, xưng là An Dương Dương. 11
- Theo Đại Nam Nhất Thống Chí - Phạm Trọng Điềm, Nxb Thuận Hóa 2006; Đại Việt địa dư toàn biên – Phan Huy Chú - nxb Văn hóa, 1997; Địa chí Hà Bắc – nxb thông tin truyền thông; Bắc Ninh dư địa chí – Đỗ Trong Vĩ – nxb Thông tin truyền thông; Lịch sử Đảng bộ xã Phật Tích –nxb thông tin truyền thông. Lịch sử xã Phật Tích được thống nhất qua các thời kỳ như sau: Thời thuộc Hán (207 TCN) Hai Bà Trưng (năm 40 SCN) Phật Tích là địa vực ủa huyện Long Biên, quận Giao Chỉ; năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1417) thuộc Phủ Bắc Giang, châu Vũ Ninh. Thời Trần vững mạnh (1226-1400) nhà ước phong kiến lập thêm cấp Phủ; thời lê Thánh Tông (niên hiệu Quang Thuận 1460 – 1469) huyện Tiên Du thuộc phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc. Năm Minh Mệnh thứ hai (1821) trấn Kinh Bắc đổi thành trấn Bắc Ninh. Thời Nguyễn Năm Minh mệnh thứ 12 (1831) trấn Bắc Ninh đổi thành tỉnh Bắc Ninh. Năm 1895 thực dân Pháp chai tỉnh Bắc Ninh thành 2 tỉnh, phía Nam sông Cầu là tỉnh Bắc Ninh, phía Bắc sông Cầu là tỉnh Bắc Giang. Các làng xã Phật tích thuộc huyện Tiên Du – phủ Từ Sơn – Tỉnh Bắc Ninh. Huyện Tiên Du có 9 tổng là: Phù Đổng, Dũng Vi, Đại Vi, Đông Sơn (Thụ Phúc), Trụ Triền, Nội Duệ, Khắc Niệm, Chi Nê, Nội Viên. Lỵ sở đóng ở xã Đông Sơn – tổng Đông Sơn. Năm Minh Mệnh thứ 14 (1833) chuyển về xã Hồi Bão, tổng Nội Duệ. Tổng Thụ Triền có 7 xã, thôn: Thụ Phúc (Chiềng), Phù Lập (Sộp, Trung, Thượng), Trung Minh (Trùng Quang) có 2 xóm: Ngò (Ngô Xá) và Phúc Nghiêm, xã Cổ Miếu (Mưỡn), Vĩnh Phú, Cao Đình và Phật Tích. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, đơn vị hành chính cấp tổng bị bãi bỏ. Năm 1948 xã Phượng Hoàng được thành lập bao gồm 5 thôn: Phật tích, Trùng Quang (Phúc Nghiêm), Ngô Xá (Ngô) Cổ Miếu Mướn) và Vĩnh Phú. Năm 1963 hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang hợp lại thành tỉnh Hà Bắc. Ngày 14-3-1963 Hội đồng Chính phủ ra quyết định số 25/QĐ sáp nhập huyện Tiên Du và Từ Sơn thành huyện Tiên Sơn. Huyện Tiên Sơn có 27 xã, 1 thị trấn; xã Phượng 12
- Hoàng đổi tên là xã Phật Tích. Năm 1997 tỉnh Bắc Ninh được tái lập (theo Nghị quyết tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX nước Cộng hòa XHCN Việt Nam). Ngày 9/8/1999 Chính phủ ra Nghị quyết số 68/1999 NĐ-CP tách huyện Tiên Sơn thành hai huyện Tiên Du và Từ Sơn. Huyện Tiên Du chính thức hoạt động có 15 xã và 1 thị trấn, trung tâm huyện lỵ đóng tại chân núi Lim (Hồng Vân Sơn) thị trấn Lim. Xã Phật Tích là 1 trong 16 xã, thị trấn của huyện Tiên Du - tỉnh Bắc Ninh. 1.4. Tình hình đời sống dân cƣ, kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội xã Phật Tích. 1.4.1. Tình hình đời sống dân cư, kinh tế xã Phật Tích. Xã Phật Tích có tỉnh lộ 270 (180 cũ) và 295 chạy qua, hai tuyến đường giao thông gặp nhau ở địa phận xóm Núi Đất tạo thành ngã ba. Một nhánh 270 nối Phật Tích với quốc lộ 1 - cách thị trấn Lim trung tâm huyện lỵ Tiên Du 6,5km, đường 295 từ xóm Núi Đất chạy qua làng Phật Tích và Vĩnh Phú; nối Phật Tích với trung tâm huyện lỵ Tiên Du, đoạn chạy qua Phật Tích chừng 2 km. Ở vào vị trí thuận lợi, cách đây hàng ngàn năm, Phật Tích đã một thời là tủng tâm quân sự, văn hóa quan trọng. Phật Tích là địa bàn cư trú lâu đời của dân nông nghiệp trồng lúa nước, cư dân sống quần tụ thành từng xóm, làng gắn bó với nhau bằng mối quan hệ “Trong họ, ngoài làng”, nhà nọ liền kề nhà kia, xóm này nằm cạnh xóm kia, “Tối lửa tắt đèn có nhau”. Trải qua hàng ngàn năm, bằng khối óc thông minh và bàn tay lao động vùng lấp trũng cải tạo đồng ruộng, chế ngự thiên nhiên để lao động sản xuất, từ một năm cấy một vụ, năng suất chỉ đạt 30-60kg thóc/sào, chuyển sang cấy một năm hai vụ, năng suất đạt 150kg – 200kg thóc/ sào. Ngoài ra người nông dân còn làm thêm được vụ xuân, trồng các loại cây lương thực khác như: Ngô, khoai, sắn, các loại cây màu: Lạc, đỗ… rau xanh. Chăn nuôi gia súc, gia cầm, góp phần thu nhập nâng cao đời sống nhân dân. Dựa vào nền kinh tế sản xuất nông nghiệp, mang tính thời vụ, những lúc nông nhàn, nhân dân đã biết tranh tủ thời gian rỗi để làm nghề phụ Làm đậu, xay sát, làm hàng xáo, thợ xây, thợ nề… Một số làng trước đây có nghề thủ công phát 13
- triển lâu đời như: Làng Phật Tích, Vĩnh Phú có nghề trồng dâu nuôi tằm, làm hương đen, đan sọt. Làng Cổ Miếu có nghề đục cối, làng Ngô x/á có nghề đan thuyền… Ngày nay một số nghề thủ công vẫn còn được giữ gìn tồn tại và phát huy, nghề đan dế xoong nồi, làm bột lọc gạo nếp, gạo tẻ, nấu chè, bánh khoai. Làng Ngô Xá phát triển nghề đan thuyền nan, phục vụ cho sản xuất đánh cá, được nhân dân trong vùng tín nhiệm, ưu chuộng. Thu nhập từ phát triển kinh tế vườn đồi, phát triển trang trại, trồng các loại cây ăn quả, góp một phần không nhỏ nâng cao đời sống nhân dân. Phật Tích còn nổi tiếng với các sản vật chè xanh, trám đen, trám trắng… những sản phẩm từ lúa gạo, hoa màu, các sản phẩm nghề phụ, nghề thủ công chủ yếu được trao đổi bán mua giữa người dân với nhau, giữa làng này với làng kia, tạo thành một hệ thống chợ làng, chợ chùa, họp lúc sáng, khi trưa hoặc lúc xế chiều. Trước đây, cửa chùa Phật Tích có chợ, bán mua các sản phẩm của địa phương, quang cảnh sầm uất. Cảnh chùa Phật tích vui thay Tam quan có chợ, mỗi ngày một phiên. * Truyền thống khoa bảng Trong chặng đường 844 năm cử nghiệp Hán học (1075 – 1919) quê hương Phật Tích đã cung cấp cho đất nước nhiều trí thức tài đức, hiểu rộng, biết nhiều. Làng xã Phật Tích xưa nổi tiếng có truyền thống khoa bảng, các dòng họ lớn đều có người đỗ đạt làm quan. Dòng họ Nguyễn Đức làng Phật Tích thời hậu Lê có tới 4 người thi đỗ tiến sỹ. Dòng họ Đỗ có 8 vị kế tiếp nhau làm quan thái y, số người của các dòng họ đỗ cử nhân, tú tài, hương cống, sinh đỗ làm đến các chức quân sát sứ, đốc học thì có rất nhiều. Làng Phật Tích hiện còn 2 tấm bia khắc tên tuổi các vị đại khoa. 1.4.2. Về tình hình chính trị, văn hóa, xã hội Trải qua hàng nghìn năm, người dân Phật Tích đã xây dựng cho mình một truyền thống lao động cần cù, sáng tạo; đấu tranh kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm. Truyền thống lịch sử quý báu đó đã được nhân lên gấp bội kể từ khi có Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo. 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam Học: Tương đồng và khác biệt trong quan niệm 12 con giáp giữa Việt Nam và Trung Quốc
112 p | 76 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Thờ kính tổ tiên trong đạo công giáo Việt Nam
115 p | 178 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: So sánh xu hướng phát triển thương mại điện tử Việt Nam và Trung Quốc
101 p | 78 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
107 p | 106 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Những điểm mới về chính sách đối ngoại của Việt Nam trong các văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ XII (2016)
91 p | 102 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: So sánh văn hóa Phùng Nguyên và văn hóa Tam Tinh Đôi (Tứ Xuyên)
118 p | 50 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Khai thác giá trị làng nghề khu vực Bắc Quảng Nam nhằm phát triển du lịch cộng đồng
132 p | 25 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Văn hóa ẩm thực đối với phát triển du lịch thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
180 p | 36 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Tác động của đầu tư nước ngoài đối với cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam
91 p | 68 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Văn hóa người Hà Nhì Đen (Nghiên cứu so sánh nhóm cư trú ở Y Tý, Bát Xát, Lào Cai, Việt Nam và nhóm ở Má Ga Tý, Kim Bình, Vân Nam, Trung Quốc)
130 p | 69 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Vai trò của ngành dệt may đối với nền kinh tế Việt Nam
101 p | 84 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: So sánh chính sách của nhà nước Việt Nam và Trung Quốc đối với các cộng đồng dân cư khu vực biên giới Việt – Trung từ 1986 đến nay
112 p | 47 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Quan hệ Liên bang Nga - Việt Nam giai đoạn 1991 - 2016
104 p | 59 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Cộng đồng người Bố Y ở phía Bắc Việt Nam trong cái nhìn so sánh về văn hóa với cộng đồng người Bố Y ở Tây Nam Trung Quốc
119 p | 39 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Từ vay mượn trong tiếng Việt sử dụng trên mạng internet
76 p | 61 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam
96 p | 49 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: So sánh việc đào tạo giáo viên tiếng Trung, tiếng Việt cho người nước ngoài
103 p | 51 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: So sánh chương trình đào tạo chuyên ngành Quản lý văn hóa giữa trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội Việt Nam và Học viện Nghệ thuật Quảng Tây Trung Quốc
108 p | 55 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn