intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sỹ: Đảng bộ tỉnh Hà Nam lãnh đạo việc khôi phục và phát triển làng nghề thủ công từ năm 1997 đến năm 2014

Chia sẻ: Nam Trung | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:131

121
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trải qua quá trình phát triển của lịch sử, cho đến ngày nay, làng nghề là một bộ phận quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Nhờ thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với các ngành nghề nông thôn, nhiều làng nghề tiểu thủ công nghiệp ở nước ta từng bước được khôi phục và phát triển. Tham khảo luận văn Thạc sỹ "Đảng bộ tỉnh Hà Nam lãnh đạo việc khôi phục và phát triển làng nghề thủ công từ năm 1997 đến năm 2014" để hiểu hơn về vấn đề này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sỹ: Đảng bộ tỉnh Hà Nam lãnh đạo việc khôi phục và phát triển làng nghề thủ công từ năm 1997 đến năm 2014

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XàHỘI VÀ NHÂN VĂN           ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ NAM LÃNH ĐẠO VIỆC KHÔI PHỤC VÀ PHÁT  TRIỂN LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2014 LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
  2. HÀ NỘI, 2015        
  3.   BẢNG QUY ƯỚC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN BCH : Ban Chấp hành CN : Công nghiệp CNH ­ HĐH : Công nghiệp hoá ­ Hiện đại hoá HTX TTCN : Hợp tác xã Tiểu thủ công nghiệp KT ­ XH : Kinh tế ­ xã hội TTCN : Tiểu thủ công nghiệp UBND : Uỷ ban nhân dân
  4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Từ  xa xưa, các làng nghề  thủ  công luôn chiếm giữ  một vị  trí quan  trọng trong đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội  ở  các vùng quê Việt Nam.  Làng nghề  đã thu hút một lực lượng lớn lao động dư  thừa  ở  nông thôn,  cũng như tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người dân trong những   lúc nông nhàn. Sự tồn tại của các làng nghề  còn có vai trò quan trọng đối   với sự  ổn định xã hội, nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho người dân.  Bên cạnh đó, làng nghề  thủ  công còn là bộ  phận của nền văn hoá Việt  Nam, có những đóng góp quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển các giá  trị văn hoá dân tộc. Trong đó, có những sản phẩm của làng nghề  vượt qua   giá trị hàng hoá đơn thuần trở thành tác phẩm nghệ thuật, biểu trưng cho di   sản, truyền thống văn hoá của dân tộc. Có thể  nói, làng nghề  chính là một   nét đặc trưng của nông thôn Việt Nam, là cả môi trường kinh tế, văn hoá ­  xã hội và công nghệ truyền thống lâu đời.  Trong tiến trình lịch sử, làng nghề ở nước ta có lúc thịnh, lúc suy, phát   triển mạnh vào những năm 60 ­ 70 (thế kỷ XX), dưới hình thức các hợp tác  xã TTCN, sau đó phát triển chậm lại vào thập kỷ 80. Đến đầu những năm   90, nhiều làng nghề  đình đốn, thậm chí bị  suy thoái, mai một do tác động  của nền kinh tế thị trường. Cùng với đó, chúng ta mất đi thị trường truyền  thống tiêu thụ sản phẩm làng nghề bởi sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu. Đứng trước thực trạng trên, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến  công tác bảo tồn và phát triển các làng nghề thủ công. Tại Hội nghị lần V,  Ban Chấp hành Trung  ương Đảng khoá VII đã xác định:  “Phải có chính   sách mở rộng thị trường, khuyến khích khôi phục và phát triển làng nghề,   nâng cao độ tinh xảo, tính dân tộc độc đáo trong các chủng loại mặt hàng”   1
  5. [7, tr.17]. Chính những chủ  trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là  yếu tố quan trọng, thúc đẩy các làng nghề phát triển. Trải qua quá trình phát triển của lịch sử, cho đến ngày nay, làng nghề  là một bộ  phận quan trọng trong tiến trình CNH ­ HĐH nông nghiệp nông  thôn. Nhờ  thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, chính sách của Nhà  nước đối với các ngành nghề  nông thôn, nhiều làng nghề  tiểu thủ  công   nghiệp ở nước ta từng bước được khôi phục và phát triển. Do đó, cho phép  khai thác một cách hiệu quả hơn tiềm năng về lao động, nguồn nguyên liệu  và trình độ  tay nghề của những người thợ thủ công và các nghệ  nhân; góp  phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực: giảm tỷ trọng trong   ngành  nông   nghiệp,   tăng  tỷ   trọng  trong  ngành   công  nghiệp  và   dịch  vụ.  Đồng thời, các làng nghề  còn là nơi lưu giữ  và phát huy bản sắc văn hoá   của mỗi địa phương và của cả dân tộc. Hà   nam   là   tỉnh   có   nhiều   làng   nghề,   trong   đó   có   những   làng   nghề  truyền thống nổi tiếng như: làng trống Đọi Tam, thêu ren Thanh Hà, dệt  Nha Xá, dệt  Hoà  Hậu, Sừng  Đô  Hai, dũa   Đại Phu, gốm Quyết Thành,  Rượu Vọc ... Với lợi thế  về  vị  trí địa lý, giao thông thuận lợi, nguồn lao   động dồi dào… Hà Nam có điều kiện để hình thành và phát triển nhiều hơn  nữa các làng nghề  với cơ  cấu các ngành hợp lý, toàn diện, mang lại hiệu   quả  kinh tế  cao. Thực tiễn cho thấy, có nhiều làng nghề  mới được hình  thành, đã có những đóng góp tích cực cho nền kinh tế  ­ xã hội của địa   phương. Tuy nhiên, nằm trong xu thế chung của quá trình hội nhập với nền  kinh tế  thế  giới, các làng nghề  thủ  công  ở  Hà Nam phát triển theo chiều  hướng khác nhau: nhiều làng nghề tồn tại và phát triển mạnh, có những tác  động tích cực đến nền kinh tế  trong khu vực, tạo nên những cụm TTCN ­   làng nghề. Bên cạnh đó, một số làng nghề ở quy mô vừa và nhỏ đang gặp   2
  6. nhiều khó khăn về  vốn, thị  trường tiêu thụ, công nghệ  sản xuất lạc hậu,   tay nghề  và trình độ  văn hoá của người lao động thấp, tình trạng ô nhiễm  môi trường trong các làng nghề  còn phổ  biến… Có những làng nghề  phát  triển cầm chừng, không  ổn định, thậm chí có làng nghề  bị  mai một,  ảnh   hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế  ­ xã hội, tác động đến tâm tư,   đời sống của nhân dân cũng như  việc giữ  gìn giá trị  văn hoá vùng. Để  các  làng nghề  thủ công thực sự đóng vai trò quan trọng trong tiến trình CNH ­   HĐH nông nghiệp nông thôn, thì các cấp  ủy Đảng, chính quyền tỉnh Hà  Nam cần phải có những định hướng và nhiều văn bản chi tiết hướng dẫn,  đôn đốc và tạo điều kiện cho các làng nghề phát triển. Xuất phát từ những lý do trên, tôi quyết định chọn vấn đề  “Đảng bộ   tỉnh Hà Nam lãnh đạo việc khôi phục và phát triển làng nghề thủ công   từ  năm 1997 đến năm 2014”  làm đề tài nghiên cứu cho luận văn cao học   của mình.   2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Khôi phục và phát triển làng nghề thủ công là vấn đề  được nhiều tác  giả, cơ quan của Đảng và Nhà nước quan tâm nghiên cứu. Đã có rất nhiều  các bài báo, đầu sách, các bài viết trên tạp chí chuyên ngành, các bài viết   tham gia hội thảo bàn luận về vấn đề này ở nhiều góc độ  khác nhau. Nhìn   một cách khái quát, các công trình nghiên cứu liên quan có thể  chia thành  những nhóm chủ yếu sau: Nhóm đầu tiên  là nhóm các công trình nghiên cứu tổng quát về  các  làng nghề  trên phạm vi cả  nước hoặc một vùng kinh tế  nhất định. Đáng   chú ý nhất là các công trình:  Làng nghề  thủ  công truyền thống Việt Nam  của tác giả Bùi Văn Vượng, Nxb Văn hoá dân tộc, 1998. Tác giả tập trung   giới thiệu khái quát về  lịch sử  ra đời, các bí quyết nghề, kĩ thuật của các  3
  7. nghệ nhân trong các loại hình làng nghề truyền thống ở Việt Nam như: đúc  đồng, rèn, kim hoàn, dệt, thêu ren, chạm khắc đá, gốm...  Khôi phục và phát   triển làng nghề ở vùng ĐBSH ở nước ta hiện nay do TS. Đỗ Thị Thạch làm  chủ  nhiệm đề  tài đã khẳng định vai trò của làng nghề  đối với phát triển  kinh tế, chính trị  ­ xã hội, văn hoá cả  nước nói chung và vùng đồng bằng   sông Hồng nói riêng. Đồng thời, tác giả  nêu lên thực trạng phát triển làng  nghề   ở  ĐBSH hiện nay với những cơ hội về việc làm, thu nhập từ  ngành  nghề… những thách thức trong quá trình tiêu thụ sản phẩm, về đội ngũ lao   động, nghệ nhân… Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những định hướng và một  số  giải pháp phát triển làng nghề   ở  vùng  ĐBSH;  Phát triển làng nghề   truyền thống  ở nông thôn Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá, hiện   đại hoá” ­ Luận án tiến sĩ của Trần Minh Yến, Hà Nội, 2003... Những   nghiên cứu trên góp phần làm phong phú thêm cơ sở lý luận về làng nghề,   thực trạng, phương hướng và giải pháp phát triển làng nghề  đặc biệt là  làng nghề thủ công truyền thống. Nhóm thứ hai nghiên cứu về quá trình thực hiện đường lối phát triển   các ngành nghề tiểu thủ công của Đảng như: Luận văn thạc sĩ của của Ngô  Ngọc Khuê: Sự  lãnh đạo của Đảng phát triển tiểu thủ  công nghiệp quận   11 thành phố  Hồ  Chí Minh, bảo vệ  năm 2000; Luận văn Thạc sĩ Kinh tế  của Nguyễn Thị  Thọ:  Phát triển làng nghề   ở  huyện Từ  Liêm trong tiến   trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, Đại học quốc  gia Hà Nội; Luận án Tiến sĩ Kinh tế của Đỗ  Quang Dũng: Phát triển làng   nghề trong quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn, bảo vệ năm  2006… Các công trình này đã đưa ra hệ thống các quan điểm, chủ  trương,  chính sách của Đảng và Nhà nước về việc đẩy mạnh phát triển làng nghề;  vai trò của các làng nghề  và sự  cần thiết phải khôi phục, phát triển làng   4
  8. nghề thủ công; đưa ra một số kinh nghiệm, giải pháp phát triển làng nghề  phù hợp với thực tiễn của địa phương. Nhóm thứ ba nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng và từng giải pháp  cụ thể cho phát triển làng nghề như: Phát huy những lợi thế truyền thống   trong xây dựng thương hiệu làng nghề đồng bằng sông Hồng, Vũ Trường  Giang, Tạp chí nông nghiệp và phát tiển nông thôn, số 15/2006; Phát triển   thương hiệu sản phẩm làng nghề truyền thống Việt Nam hiện nay, Nguyễn  Vĩnh Thanh, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số  4/2007; Phát triển thị  trường   tiêu   thụ   sản   phẩm   làng   nghề,   Hồ   Thanh   Thuỷ,   Tạp   chí   Tài   chính   số  12/2005. Nhóm các công trình nghiên cứu này góp phần đưa ra giải pháp   nhằm tháo gỡ những khó khăn trong việc tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm   làng nghề. Trên địa bàn tỉnh Hà Nam, UBND tỉnh và Sở  Công Thương tỉnh cũng  đã đưa ra các đề  án và công trình nghiên cứu về  vấn đề  phát triển làng   nghề như: Hiện trạng và phương hướng phát triển các ngành công nghiệp,   TTCN tỉnh Hà Nam đến năm 2020;  Tình hình hoạt động của các doanh   nghiệp trong các cụm công nghiệp ­ TTCN, cụm TTCN ­ làng nghề; Tình  hình hoạt động các cụm công nghiệp ­ TTCN và cụm TTCN ­ làng nghề. Nhìn chung, những vấn đề về làng nghề đã có nhiều công trình nghiên  cứu, tiếp cận dưới góc độ  khác nhau cả  về  lý luận và thực tiễn. Đó là  nguồn tài liệu quý báu, là cơ sở để tác giả kế thừa và tiếp tục nghiên cứu.   Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào đề  cập một cách  tổng quát, hệ thống những chủ trương và sự chỉ đạo về việc khôi phục và  phát triển làng nghề  thủ  công của Đảng bộ  tỉnh Hà Nam. Vì vậy, nghiên   cứu vấn đề  “Đảng bộ  tỉnh Hà Nam lãnh đạo việc khôi phục và phát triển   làng nghề thủ công từ năm 1997 đến năm 2014” là việc làm cần thiết.  5
  9. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích của luận văn    Hệ thống hoá, làm sáng tỏ sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh   Hà Nam trong việc khôi phục và phát triển làng nghề thủ công từ năm 1997  đến năm 2014. Qua đó, rút ra một số  bài học kinh nghiệm để  vận dụng  trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo phát triển các làng nghề thủ công trên địa   bàn tỉnh trong những năm tiếp theo. 3.2. Nhiệm vụ luận văn ­ Phân tích làm rõ chủ  trương và quá trình chỉ  đạo của Đảng bộ  tỉnh  Hà Nam nhằm khôi phục và phát triển làng nghề thủ công.  ­ Đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế còn tồn tại trong  quá trình thực hiện chủ trương khôi phục và phát triển làng nghề  thủ công  của Đảng bộ tỉnh Hà Nam từ năm 1997 đến năm 2014.   ­ Rút ra một số  nhận xét và bài học kinh nghiệm về  lãnh đạo phát  triển làng nghề thủ công trong tình hình mới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu  Sự lãnh đạo của Đảng bộ  tỉnh Hà Nam trong việc khôi phục và phát  triển làng nghề thủ công.  4.2. Phạm vi nghiên cứu  ­ Về  không gian: Nghiên cứu các làng nghề  trên địa bàn tỉnh Hà Nam,  trong đó tập trung chủ yếu vào một số làng nghề: làng nghề trống Đọi Tam,  làng nghề thêu ren An Hòa, Hòa Ngãi, làng nghề mây tre đan Ngọc Động, làng   nghề dũa Đại Phu. 6
  10.  ­ Thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề  từ năm 1997 đến  năm 2014, nghĩa là trong thời kỳ Đảng bộ tỉnh Hà Nam thực hiện đường lối  công nghiệp hóa ­ hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn của Đảng. 5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 5.1. Nguồn tài liệu   ­ Nguồn tư  liệu chủ  yếu phục vụ  cho đề  tài là: Văn kiện Đại hội  Đảng toàn quốc, các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng; các  Nghị  quyết, Chỉ  thị, chương trình hành động, thông báo, các báo cáo hàng  năm của Đảng bộ tỉnh Hà Nam về vấn đề làng nghề, phát triển làng nghề.   ­ Nguồn tài liệu sách báo, sách tham khảo, internet, tạp chí chuyên  ngành, các luận văn, luận án có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề  tài sử  dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học như:   Phương pháp lịch sử  kết hợp với phương pháp lôgíc dùng để  khôi phục,  khái quát, đánh giá thực trạng phát triển các làng nghề  truyền thống Hà  Nam trước năm 1997 và từ năm 1997 đến năm 2014.  Phương pháp định lượng và thống kê toán học được sử  dụng để  thu  thập các thông tin về  dân số, điều kiện tự  nhiên, kinh tế  xã hội của khu   vực nghiên cứu.  Các số liệu thu được về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã   hội ở tỉnh Hà Nam là những thông tin khái quát ban đầu về khu vực nghiên   cứu. Phương pháp so sánh giúp chúng ta so sánh, đối chiếu những kết quả  đạt được, những hạn chế về phát triển làng nghề  thủ công qua các năm từ  năm 1997 đến năm 2014.   Đặc biệt đề  tài sử dụng phương pháp điền dã. Chúng tôi quan sát trực   tiếp đời sống kinh tế, xã hội, con người, thiên nhiên, hoạt động sản xuất ở  7
  11. một số làng nghề tiêu biểu… Qua thực tế cho ta thấy bức tranh khái quát về  làng nghề thủ công ở Hà Nam. 6. Đóng góp của Luận văn ­ Về mặt khoa học: Luận văn phân tích làm rõ sự lãnh đạo và vai trò  lịch sử của Đảng bộ tỉnh Hà Nam đối với việc khôi phục và phát triển làng  nghề thủ công từ năm 1997 đến năm 2014. ­ Về mặt thực tiễn: Luận văn rút ra được những nhận xét và tổng kết  được những kinh nghiệm có giá trị về lãnh đạo khôi phục và phát triển làng  nghề. Đó sẽ  là nguồn tài liệu tham khảo để  nghiên cứu, giảng dạy những   nội dung có liên quan đến phát triển kinh tế  ngành nghề  nông thôn  ở  tỉnh  Hà Nam. Bên cạnh đó, còn góp phần giáo dục, tuyên truyền đường lối,  chính sách của Đảng trong giai đoạn hiện nay. 7. Bố cục Luận văn Ngoài phần mở  đầu và kết luận, nội dung của luận văn được bố  cục thành 3 chương. Chương 1: Bức tranh tổng quát về các làng nghề thủ công ở tỉnh Hà   Nam trước năm 1997 Chương 2. Chủ  trương khôi phục và phát triển làng nghề  của Đảng   bộ tỉnh Hà Nam từ năm 1997 đến năm 2014 Chương 3. Nhận xét và một số bài học kinh nghiệm 8
  12. CHƯƠNG 1. BỨC TRANH TỔNG QUÁT VỀ CÁC LÀNG NGHỀ  THỦ CÔNG Ở TỈNH HÀ NAM TRƯỚC NĂM 1997 1.1. Khái quát về làng nghề thủ công  1.1.1. Các khái niệm Làng nghề  Làng nghề là một thiết chế kinh tế ­ xã hội ở nông thôn, được cấu tạo  bởi hai yếu tố làng và nghề. Làng là một đơn vị cư trú và một hình thức tổ  chức xã hội quan trọng ở nông thôn nước ta, mà ở đó tồn tại những tập hợp   cư dân cùng sinh sống, sản xuất và giữa họ có mối quan hệ khăng khít với  nhau.  Nghề  ở  đây là những nghề  phi nông nghiệp được tiến hành trong  phạm vi làng và gắn chặt với làng. Tuy nhiên, không phải bất kỳ làng nào  có nghề  cũng được gọi là làng nghề. Để  được công nhận là làng nghề  thì  làng nghề  đó phải thể  hiện được cả  mặt định tính và định lượng của nó.  Định tính của làng nghề chính là thể hiện sự khác biệt của làng nghề so với  làng thuần nông, làng có ngành nghề phụ quy mô nhỏ hoặc với phố nghề ở  thành thị. Còn về  mặt định lượng là nói đến quy mô và tính  ổn định của   làng nghề  đó như  thế  nào. Cụ  thể  hơn ta có thể  hiểu mặt định lượng của   làng nghề  chính là việc xác định số  hộ, số  lao động và giá trị  thu nhập từ  ngành nghề  đó chiếm bao nhiêu phần trăm số  lao động và tổng giá trị  thu  nhập của địa phương. Đây cũng là tiêu chí quan trọng để  xác định làng  nghề. Thông tư  số  116/2006/TT­BNN của Bộ  NN&PTNT quan niệm: Làng  nghề  là một hoặc nhiều cụm dân cư  cấp thôn,  ấp, bản, làng, buôn, phun,  sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn, có các hoạt  động ngành nghề  nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm   khác nhau. 9
  13. Làng nghề được công nhận phải đạt 3 tiêu chí: ­ Có tối thiểu 30% tổng số  hộ  trên địa bàn tham gia các hoạt động  ngành nghề nông thôn; ­ Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời   điểm công nhận; ­ Chấp hành tốt chính sách pháp luật của Nhà nước. Nghề  thủ  công là những nghề  sản xuất chủ  yếu bằng tay và những   công cụ  đơn giản, với con mắt và bộ  óc giàu sáng tạo của nghệ  nhân;   nguyên liệu của các nghề thủ công thường lấy trực tiếp từ thiên nhiên. Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các nghề thủ  công có thể sử dụng máy, hoá chất và các giải pháp kỹ thuật trong một số  công đoạn, nhưng phần quyết định chất lượng và hình thức đặc trưng của  sản phẩm vẫn làm bằng tay. Bởi vậy, các sản phẩm thủ  công vừa mang   yếu tố  truyền thống, tiêu biểu cho vùng quê Việt Nam, vừa mang yếu tố  hiện đại, phù hợp với xã hội ngày nay. Các sản phẩm thủ  công được sản xuất tập trung tại một hay một số  làng nào đó, thu hút nhiều hộ  gia đình tham gia, giá trị  thu nhập từ  ngành  nghề thủ công chiếm tỷ trọng cao so với giá trị thu nhập của làng đó thì sẽ  hình thành làng nghề thủ công. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về làng nghề thủ công. Theo  tác giả  Bùi Văn Vượng: Làng nghề  thủ  công là trung tâm sản   xuất hàng thủ công, nơi quy tụ các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên  làm nghề  mang tính truyền thống lâu đời, có sự  liên kết, hỗ  trợ  trong sản   xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu hệ  thống doanh nghiệp   vừa và nhỏ, có cùng Tổ  nghề, các thành viên luôn ý thức tuân thủ  những   ước chế  xã hội và gia tộc. Sự  liên kết, hỗ  trợ  nhau về  nghề, kinh tế, kỹ  10
  14. thuật, đào tạo thợ trẻ  giữa các gia đình cùng dòng tộc, cùng phường nghề  trong quá trình lịch sử hình thành, phát triển nghề nghiệp đã hình thành làng  nghề trên đơn vị cư trú, làng xóm truyền thống của họ. [79, tr.13] Quan niệm trên cũng được phản ánh trong ý kiến của GS.Trần Quốc  Vượng. Tác giả cho rằng: Làng nghề là làng ấy tuy vẫn trồng trọt theo lối   tiểu nông và chăn nuôi nhỏ, cũng có một số nghề phụ khác, song đã nổi trội  một số  nghề  cổ  truyền tinh xảo với một tầng lớp thợ  thủ  công chuyên  nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có phường, có ông trùm, có phó cả,... cùng  một số  thợ  và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ  nhất định  “sinh  ư nghệ, tử  ư nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, sống chủ  yếu   được bằng nghề đó và sản xuất ra các mặt hàng thủ công. Tuy nhiên, hai quan niệm trên đều nói về  làng nghề  thủ  công truyền  thống, chưa phù hợp với làng nghề mới. Có cái nhìn khái quát hơn về làng nghề thủ công, tác giả Mai Thế Hởn   cho rằng: Làng nghề là một cụm dân cư sinh sống trong một thôn (làng) có   một hay một số nghề được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất độc lập.  Thu nhập từ  các nghề  đó chiếm tỷ  trọng cao trong tổng giá trị  sản phẩm  của làng. Trên cơ  sở  kế  thừa, tiếp thu những điểm hợp lý của các quan niệm  trên và những nghiên cứu của bản thân, tác giả  cho rằng: Làng nghề  thủ  công là một cụm dân cư sinh sống trong một thôn (làng) có một hay một số  nghề thủ công được tách ra khỏi nông nghiệp để  sản xuất kinh doanh độc  lập, có sử  dụng các nguồn lực trong và ngoài địa phương, các ngành nghề  thủ công phát triển tới mức trở thành nguồn sống chính hoặc thu nhập chủ  yếu ở địa phương.  1.1.2. Đặc điểm chung của làng nghề thủ công 11
  15. Một là, các làng nghề  thủ  công tồn tại  ở  nông thôn, gắn bó chặt chẽ  với nền kinh tế  nông nghiệp. Ngay cả  khi thủ  công nghiệp tách rời khỏi   nông nghiệp vươn lên trở thành ngành sản xuất chính ở một số làng và hình   thành nên các làng nghề thì chúng cũng không rời khỏi nông thôn. Trong các   làng nghề, để đảm bảo cuộc sống, người dân bao giờ cũng làm thêm nghề  nông hay một số  nghề  khác. Mặt khác, hầu hết các hộ  chuyên làm nghề  tiểu thủ  công vẫn tham gia sản xuất nông nghiệp  ở  mức độ  nhất định và  đặc biệt, các hộ  đều giữ  đất nông nghiệp để  tự  tay mình trồng trọt hoặc   thuê mướn người làm nông nghiệp cho mình. Đây chính là sự kết hợp độc  đáo giữa TTCN và sản xuất nông nghiệp. Các làng nghề tạo việc làm, tăng  thêm   thu    nhập  cho  người  lao   động  lúc  nông  nhàn,  còn  sản   xuất  nông   nghiệp là nguồn cung cấp nguyên liệu cho các làng nghề. Hai là, các làng nghề  sử  dụng kỹ  thuật thủ  công là chủ  yếu. Có rất  nhiều sản phẩm của các làng nghề  chứa đựng các chi tiết, công đoạn mà  máy móc hiện đại không thể  thay thế  đôi bàn tay khéo léo của các nghệ  nhân. Hoặc một số nghề chỉ cần công cụ  thủ  công, thô sơ  do chính người   thợ có thể tự làm ra. Do đó, năng suất lao động ở các làng nghề không cao,   chất lượng sản phẩm không đồng đều. Vì vậy, trong các sản phẩm làng  nghề, lao động sống chiếm tỷ  lệ  cao trong giá thành sản phẩm. Điều này  có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo công ăn việc làm cho người dân  ở  nông thôn. Ba là, nguồn nguyên liệu được sử  dụng trong các làng nghề chủ  yếu  có nguồn gốc tự  nhiên và sẵn có  ở  địa phương như  gỗ, tre, nứa, trúc, đất  sét… Sản phẩm làm từ  nguồn nguyên liệu này khá an toàn khi sử  dụng,   thân thiện với môi trường, được nhiều người  ưa chuộng. Tuy nhiên, việc  sơ  chế  nguyên liệu do các cơ  sở  tự  làm với kỹ  thuật đơn giản và do khí  12
  16. hậu nhiệt đới  ẩm nước ta nên việc bảo quản sản phẩm gặp nhiều khó  khăn. Những năm gần đây, do một số nguyên nhân chủ quan và khách quan,  các làng nghề  đã phải nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài như chỉ  thêu,   phẩm màu, men sư, vỏ trai, vỏ ốc… Bốn là, việc truyền nghề và phát triển nghề.  Ở mỗi làng đều có một   người đầu tiên đem bí quyết nghề nghiệp từ nơi khác về dạy nghề, truyền   nghề  cho dân làng chính là ông tổ  nghề. Lực lượng nòng cốt để  duy trì và   phát triển nghề là các nghệ nhân. Ban đầu, việc dạy và phát triển nghề chủ  yếu được thực hiện theo phương thức truyền nghề  trong gia đình, từ  đời  này sang đời khác, ít được phổ  biến ra ngoài. Ngay nay, với sự  ra đời của  các trung tâm dạy nghề, thì các làng nghề không còn giữ bí quyết như trước   nữa. Tuy nhiên, phương thức dạy nghề  theo lối vừa học vừa làm là chủ  yếu. Năm là, hình thức kinh doanh của các làng nghề  ngày càng đa dạng.   Với phương thức truyền nghề, hình thức tổ  chức sản xuất trong các làng  nghề  chủ  yếu  ở  quy mô gia đình gắn với các phường nghề  như: phường   gốm, phường mộc, phường đúc đồng… Hình thức này được áp dụng từ lâu  đời, thậm chí vẫn còn được duy trì cho đến ngày nay, giúp cho một số  gia   đình giữ được bí quyết nghề nghiệp. Trong thời kỳ bao cấp, các làng nghề  được tổ chức thành các “đội ngành nghề” của hợp tác xã nông nghiệp như  đội mộc, đội nề, đội cơ  khí… Bước sang thời kỳ  đổi mới, đặc biệt trong  những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh phát triển  các ngành nghề   ở nông thôn, thì xuất hiện các hình thức tổ  chức sản xuất   kinh doanh mới như  doanh nghiệp tư  nhân, các công ty trách nhiệm hữu  hạn… Cùng với đó, sản phẩm của làng nghề ngày càng phong phú về mẫu   mã, chủng loại, được bán rộng khắp trên thị trường. 13
  17. Sáu   là,  sản   phẩm   của   làng   nghề,   đặc   biệt   là   làng   nghề   thủ   công  truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Làng nghề là nơi bảo lưu  những tinh hoa nghệ  thuật và kỹ  thuật truyền thống được truyền từ  đời  này sang đời khác. Mỗi sản phẩm làng nghề  là tác phẩm nghệ thuật mang   bản sắc riêng của địa phương nhưng lại tiêu biểu cho dân tộc Việt Nam.   Do đó, sản phẩm làng nghề không chỉ có giá trị về kinh tế, mà nó còn mang   những giá trị  văn hóa độc đáo, chứa đựng những yếu tố  văn hóa tinh thần   và tín ngưỡng, tôn giáo của dân tộc. Việc tìm hiểu những đặc điểm chung về làng nghề giúp chúng ta hiểu  được tại sao các làng nghề  thủ  công nhất là những làng nghề  thủ  công  truyền thống lại có sức sống bền bỉ, trường tồn cùng lịch sử  dân tộc như  vậy. Đây chính là cơ  sở  ban đầu giúp chúng ta tiếp tục nghiên cứu về  các   làng nghề, đưa ra các giải pháp góp phần phát triển kinh tế làng nghề  bền   vững, đồng thời hạn chế những tiêu cực đối với làng nghề. 1.1.3. Các nhân tố   ảnh hưởng đến sự  hình thành và phát triển  làng nghề Sự  hình thành và phát triển làng nghề  chịu  ảnh hưởng của nhiều   nhân tố. trong đó có một số nhóm nhân tố chủ yếu: Nhóm nhân tố tự nhiên Những nhân tố  tự nhiên ảnh hưởng đến sự phát triển làng nghề  bao   gồm: vị trị địa lý, các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, trong đó,   nhân tố  vị  trí địa lý có  ảnh hưởng nhất định đến sự  phát triển của làng  nghề. Nếu một làng nghề  có vị  trí thuận lợi về  giao thông hay gần những   nơi có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú tạo điều kiện cho làng nghề  đó chuyên chở nguyên vật liệu, trao đổi và bán sản phẩm. Từ đó, thúc đẩy   14
  18. việc sản xuất, kinh doanh có hiệu quả  hơn so với các làng nghề  sản xuất  các mặt hàng cùng loại nhưng không thuận lợi về vị trí địa lý. Điều  kiện  tự   nhiên   như:   khí   hậu,   nhiệt  độ,  độ   ẩm,   đất  đai…   là  những nhân tố   ảnh hưởng trực tiếp đến sự  phát triển của làng nghề, đặc  biệt  là những  làng nghề  sử  dụng nguồn nguyên liệu trực  tiếp từ  thiên  nhiên. Khí hậu, thời tiết mỗi vùng tạo ra những nguồn nguyên liệu đặc  trưng cho các làng nghề. Tuy nhiên, nước ta có nền khí hậu nóng, ẩm nên   nguồn nguyên liệu thiên nhiên rất dễ bị sâu bệnh phá hoại; việc bảo quản   sản phẩm gặp nhiều khó khăn do nấm, mốc… Tài nguyên thiên nhiên nước ta rất phong phú về  số  lượng, đa dạng  về  chủng loại, là nguồn cung cấp nguyên vật liệu cho các làng nghề  thủ  công khác nhau. Tuy nhiên, nguồn nguyên liệu tự nhiên này cũng đang cạn   kiệt dần do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có việc sử dụng không   hợp lý, thiếu quy hoạch, thiếu đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu. Chính  vì vậy, các cấp quản lý cũng như tự thân các làng nghề cần phải có những   biện pháp nhằm khôi phục và duy trì nguồn tài nguyên thiên nhiên này. Tóm lại, nhóm nhân tố  tự  nhiên là nhóm nhân tố  đầu tiên tác động  đến sự hình thành và phát triển lâu dài của bất kỳ làng nghề nào. Nhóm nhân tố kinh tế Nhóm kinh tế bao gồm các yếu tố thị trường, sản phẩm, vốn, cơ sở  hạ tầng, trình độ lao động… Nhu cầu về sản phẩm. Các sản phẩm của làng nghề thủ công có ưu   điểm là bền, tốt cho sức khoẻ người sử dụng. Tuy nhiên, giá thành của nó  khá cao, mẫu mã đơn giản, nhiều mặt hàng chưa đáp ứng được nhu cầu sử  dụng hiện nay. Do đó, muốn tồn tại, các làng nghề thủ công cần phải thay  đổi hình thức mẫu mã sản phẩm nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng sản  15
  19. phẩm và giá thành rẻ  thì mới đáp  ứng được nhu cầu thị  trường và tâm lý   người tiêu dùng hiện nay. Nhu cầu thị trường là nhân tố chủ yếu tác động đến sự hình thành và   phát triển của làng nghề  thủ  công. Sản xuất càng phát triển càng thể  hiện   rõ sự  chi phối của quan hệ  cung cầu và quy luật cạnh tranh. Những làng   nghề mà sản phẩm của nó có đủ sức cạnh tranh trên thị trường và luôn đổi   mới phù hợp với nhu cầu thị hiếu tiêu dùng của xã hội thì mới có khả năng  thích  ứng với sự  thay  đổi của thị  trường. Bởi vậy, các làng nghề  phải  thường xuyên thay đổi mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu, thị  hiếu người tiêu dùng. Hiện nay, bên cạnh một số  nghề  phát triển mạnh   như: sản xuất vật liệu xây dựng, chạm khắc gỗ hay những làng nghề phát   triển bình thường như các nghề chế biến lương thực ­ thực phẩm … là các  làng nghề bị mai một, giảm sút đi như làng nghề làm nón, đan mũ… do nhu  cầu, thị hiếu của thị trường giảm sút, do bị các sản phẩm công nghiệp hiện  đại thay thế. Bên cạnh đó, các mặt hàng dệt may, gốm sứ… bị cạnh tranh   gay gắt với các mặt hàng cùng loại của Trung Quốc, Thái Lan… Vốn là yếu tố  sản xuất, là nguồn lực quan trọng trong tất cả  các  hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhiệm vụ chủ yếu của nguồn vốn là đầu  tư  phát triển sản xuất, đổi mới thiết bị, công nghệ  để  nâng cao sức cạnh  tranh của sản phẩm, có điều kiện đào tạo nâng cao kỹ  năng người lao   động, quảng bá sản phẩm, xây dựng thương hiệu. Trước đây, vốn của các  hộ  sản xuất kinh doanh đều rất nhỏ  bé, chủ  yếu là vốn tự  có nên đã làm  hạn chế việc tăng trưởng sản xuất . Ngày nay, nhờ chủ  trương của Đảng   và Nhà nước, các cơ chế chính sách về tài chính có nhiều thay đổi tạo điều  kiện cho các hộ sản xuất trong làng nghề vay vốn phát triển sản xuất. 16
  20. Kết cấu hạ  tầng gồm: hệ  thống giao thông, điện, nước, bưu chính   viễn thông…   là nhân tố  tác động trực tiếp tạo ra môi trường hoạt động  sản xuất kinh doanh của các làng nghề thủ công. Giao thông phát triển tạo   điều kiện thuận tiện cho việc vận chuyển nguyên liệu, sản phẩm … Hệ  thống cung cấp điện đảm bảo cho các làng nghề sử dụng các thiết bị, máy  móc trong sản xuất và phục vụ  đời sống. Hệ  thống thông tin liên lạc tạo   điều kiện cho các làng nghề  trao đổi, quảng bá sản phẩm trong nước và   quốc tế. Nguồn nhân lực và kỹ  thuật là nguồn lực quan trọng nh ất cho s ự  phát triển làng nghề. Trong các làng nghề, những nghệ  nhân có vai trò  đặc biệt quan trọng trong việc truy ền ngh ề cũng như  sáng tạo ra những   sản phẩm độc đáo. Bên cạnh đó, một lực lượng lao động dồi dào, cơ cấu  lao động trẻ, có khả  năng thích  ứng với công nghệ  sản xuất tiên tiến, là   nhân tố  cốt lõi quyết định toàn bộ  hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy  nhiên, chất lượng nguồn lao động và trình độ  kỹ  thuật của họ  chưa cao.   Do đó, nâng cao trình độ  cho lao động làng nghề  là việc làm hết sức cần   thiết. Nhóm nhân tố văn hoá ­ xã hội Nhóm nhân tố  này bao gồm các điều kiện chung về  văn hoá ­ xã hội  như: mật độ dân số, trình độ  dân trí, các chủ  trương, chính sách của Đảng   và Nhà nước… Trong đó, những cơ  chế  chính sách của Nhà nước là điều  kiện để  khuyến khích, tạo môi trường cho các làng nghề  hoạt động. Nếu  đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước phù hợp với quy luật khách  quan thì sẽ thúc đẩy làng nghề phát triển, ngược lại thì sẽ hạn chế sự phát   triển của làng nghề. Vì thế, trong quá trình CNH ­ HĐH đất nước, Đảng và  Nhà nước cần có chính sách phát triển hợp lý trong việc kết hợp giữa công  17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0