Luận văn Thạc sỹ: Chất lượng sinh hoạt chi bộ của Đảng bộ khối các cơ quan thành phố Hà Nội hiện nay
lượt xem 104
download
Những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài đã được các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội các cơ quan tham mưu, các cơ quan nghiên cứu khoa học và nhiều nhà khoa học nước ta đã tập trung nghiên cứu, nhờ vậy các cơ quan lãnh đạo của Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, các quy định; các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học đã có nhiều quan điểm thể hiện trên sách báo, tạp chí, các phương tiện thông tin đại chúng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sỹ: Chất lượng sinh hoạt chi bộ của Đảng bộ khối các cơ quan thành phố Hà Nội hiện nay
- 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chi bộ là “nền tảng”, “gốc rễ” của Đảng, là hạt nhân lãnh đạo HTCT (hệ thống chính trị) ở cơ sở, chi bộ là cầu nối trực tiếp giữa Đảng với nhân dân; chi bộ lãnh đạo đơn vị cơ sở thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị cơ sở; xây dựng tổ chức đảng và phát triển đảng viên; làm công tác vận động quần chúng. Chi bộ có mạnh thì nền tảng của Đảng mới vững chắc, muốn chi bộ mạnh, trước hết cấp ủy, đảng viên phải nêu cao trách nhiệm, tính tiên phong trong sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt Đảng. Sinh hoạt chi bộ và chất lượng sinh hoạt chi bộ là nhân tố quyết định vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, giúp đảng viên nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng và thực hiện chức năng lãnh đạo, giáo dục của chi bộ. Sinh hoạt chi bộ có vai trò, tác dụng to lớn đối với xây dựng nội bộ Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu của TCCSĐ (tổ chức cơ sở đảng), là khâu cuối cùng bảo đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị đề ra. Cho nên, nếu sinh hoạt của chi bộ bị buông lỏng, rời rạc, thiếu nội dung chính trị, tư tưởng cụ thể, thiết thực, thì vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng có nguy cơ suy yếu, vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên không được phát huy, kỷ luật lỏng lẻo, các hiện tượng tiêu cực nảy sinh và phát triển, sự gắn bó giữa Đảng và quần chúng giảm sút. Thực tế cho thấy, cấp ủy chi bộ, đảng viên nhận thức đúng vị trí, vai trò, tầm quan trọng của sinh hoạt chi bộ thì ở chi bộ đó tính đảng được phát huy, công tác xây dựng Đảng
- 2 được chú trọng, vai trò của cấp ủy, tính tiền phong gương mẫu của đảng viên và các nhiệm vụ chính trị của chi bộ đạt kết quả tốt. Nhận thức rõ điều này, trong những năm qua Đảng ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp về xây dựng củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương các cấp uỷ, các tổ chức đảng đã tập trung lãnh đạo, tạo được chuyển biến tích cực về các mặt công tác xây dựng Đảng. Tuy nhiên, vẫn còn không ít chi bộ và TCCSĐ bộc lộ những khuyết điểm, yếu kém. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng đó là do chất lượng sinh hoạt đảng ở các chi bộ, đảng bộ cơ sở chưa đạt yêu cầu. Do đó, trong Báo cáo xây dựng Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã nhấn mạnh “Phải nâng cao chất lượng sinh hoạt của các TCCSĐ từ trung ương đến chi bộ, nâng cao chất lượng sinh hoạt của các cấp ủy là vấn đề quan trọng”. Sau đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII và IX của Đảng đều nêu rõ sự lúng túng, nghèo nàn cả về nội dung và hình thức trong sinh hoạt chi bộ. Báo cáo xây dựng Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4/2006) tiếp tục khẳng định “Không ít cơ sở đảng yếu kém, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu thấp, sinh hoạt đảng và quản lý đảng viên lỏng lẻo, nội dung sinh hoạt nghèo nàn; tự phê bình và phê bình yếu” [19, tr. 27]. Chỉ thị số 10 – CT/TW, ngày 30/3/2007 của Ban Bí thư Trung ương đã chỉ rõ: Vẫn còn không ít TCCSĐ và chi bộ yếu kém; một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả đảng viên lẫn lãnh đạo quản lý ở các cấp suy thoái về phẩm chất chính trị và đạo đức, lối sống; nhiều cấp uỷ, chi bộ chưa thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt đảng, buông lỏng công tác
- 3 quản lý, giáo dục đảng viên; nội dung sinh hoạt chi bộ còn nghèo nàn thiếu nội dung chính trị, tư tưởng cụ thể; tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu, tinh thần tự phê bình và phê bình, ý thức tổ chức, kỷ luật yếu kém; tinh thần đoàn kết và tình đồng chí bị giảm sút; chi bộ chưa thực sự là nơi sinh hoạt tư tưởng để cấp ủy nắm và hiểu tâm tư, nguyện vọng của đảng viên; chi bộ chưa thể hiện tốt vai trò là nơi lãnh đạo, giáo dục, quản lý, giám sát và rèn luyện đội ngũ đảng viên. Tình hình đó làm "Suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, giảm năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ngay từ chi bộ”[2, tr.3]. Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội, là đảng bộ đặc thù, TCCSĐ là các cơ quan lãnh đạo và quản lý đầu não trong HTCT của Thành phố, đảng viên của đảng bộ bao gồm nhiều đồng chí là lãnh đạo cán bộ chủ chốt của Thành phố. Do vậy, hoạt động của các TCCSĐ, của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội không chỉ có tác động đến phạm vi trong các cơ quan, đơn vị mà vai trò ảnh hưởng của chúng có sức lan tỏa đến toàn Thành phố. Thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương và Thành ủy về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ. Đảng bộ Khối các cơ quan Thành phố đã có những chủ trương, biện pháp tích cực lãnh đạo và chỉ đạo các TCCSĐ trực thuộc đẩy mạnh mọi hoạt động nhằm nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng. Thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng của Đại hội đại biểu Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội lần thứ XI, Đảng ủy Khối đã xây dựng chương trình toàn khóa số 03 – CTr/ĐUK, với nội dung tiếp tục nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ của Đảng bộ Khối, trong đó đã thẳng thắn đánh giá: “Không ít nơi, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ chưa đáp
- 4 ứng được yêu cầu, nhiệm vụ, vai trò lãnh đạo còn mờ nhạt, chất lượng sinh hoạt tự phê bình và phê bình yếu, kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm”. Trên thực tế, chất lượng sinh hoạt chi bộ tại các TCCSĐ trực thuộc Đảng bộ Khối đã đạt được nhiều kết quả tích cực; tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số mặt hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chính trị mới đang đặt ra. Chính vì vậy, việc đánh giá đúng thực trạng, xác định rõ nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục một cách có hiệu quả những khuyết điểm, yếu kém, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, trên cơ sở đó nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ là vấn đề mang tính cấp bách. Với lý do đó, tác giả chọn đề tài: “Chất lượng sinh hoạt chi bộ của Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài đã được các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị xã hội các cơ quan tham mưu, các cơ quan nghiên cứu khoa học và nhiều nhà khoa học nước ta đã tập trung nghiên cứu, nhờ vậy các cơ quan lãnh đạo của Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, các quy định; các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học đã có nhiều quan điểm thể hiện trên sách báo, tạp chí, các phương tiện thông tin đại chúng. Cụ thể như: Các đề tài khoa học, sách: + Ngô Đức Tính, “Hướng dẫn nghiệp vụ công tác Đảng”, tập I, II, Nxb Tư tưởng – Văn hóa, Hà Nội, 1992. + Ngô Đức Tính, “Công tác Đảng ở cơ sở”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994.
- 5 + Ngô Đức Tính, “Chất lượng sinh hoạt chi bộ thôn”, Đề tài nghiên cứu cấp cơ sở trọng điểm năm 2006, Hà Nội, 2006. + TS. Trương Ngọc Nam, (chủ nhiệm đề tài) “Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trong các đơn vị hành chính, sự nghiệp của thành phố Hà Nội”, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội, 2009. + PGS,TS Đ ỗ Ng ọ c Ninh, “ Nâng cao ch ấ t l ượ ng sinh ho ạt chi b ộ t ổ dân ph ố c ủ a các qu ậ n ở thành ph ố Hà Nộ i trong điề u ki ệ n hi ệ n nay” , Nxb. Chính tr ị qu ố c gia, Hà N ộ i, 2011. + Đ ứ c L ượ ng (ch ủ biên), “V ề đ ổ i mớ i và nâng cao ch ất l ượ ng sinh ho ạt Đ ả ng ”, Nxb Chính tr ị qu ố c gia, Hà N ộ i, 2007. + Ban Tổ chức Trung ương: “Nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng”, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986. + Ban Tổ chức Trung ương: “Nâng cao chất lượng TCCSĐ và đảng viên”, tập 1, Tạp chí Xây dựng Đảng, Hà Nội 2004. + Ban Tổ chức Trung ương: “Nâng cao chất lượng TCCSĐ và đảng viên”, tập 2, Tạp chí Xây dựng Đảng, Hà Nội, 2006. Các đề tài khoa học và sách nêu trên đã đưa ra những căn cứ lý luận và thực tiễn cho việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; đổi mới sinh hoạt chi bộ cho phù hợp với đặc điểm từng loại hình chi bộ (chi bộ thôn, chi bộ tổ dân phố, chi bộ trong các đơn vị hành chính, sự nghiệp); từ đó đánh giá thực trạng, nguyên nhân, rút ra những kinh nghiệm để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; các đề tài cũng đã đưa ra những phương hướng và giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở các loại hình khác nhau; đồng thời, có những hướng dẫn và định hướng để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, nâng cao chất lượng TCCSĐ và đảng viên.
- 6 Các luận văn thạc sỹ: + Cao Duy Tiến, “Nâng cao chất lượng sinh hoạt các chi bộ khối nghiên cứu, giảng dạy ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ”, luận văn thạc sỹ chuyên ngành xây dựng Đảng, 2001. + Huỳnh Ngọc Thanh, "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ ở Huyện Hóc Môn Thành phố Hồ Chí Minh", Luận văn thạc sỹ chuyên ngành xây dựng Đảng, 2005. + Lê Hồng Sơn, “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ trong các trường phổ thông công lập tại thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay”, luận văn thạc sỹ chuyên ngành xây dựng Đảng, 2005. Các luận văn thạc sỹ nêu trên, mặc dù có những góc độ tiếp cận khác nhau nhưng đều tập trung nghiên cứu nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ, nêu ra những cơ sở khoa học của việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, đánh giá thực trạng, nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm, các vấn đề đặt ra; đồng thời đã đưa ra các phương hướng và giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Các bài viết trên báo, tạp chí: + Phạm Văn Thành, “Một số biện pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ”, Tạp chí xây dựng Đảng, số 5/2002. + Bùi Trọng Vy, “Cải tiến nội dung sinh hoạt chi bộ”, Tạp chí xây dựng Đảng, số 6/2002. + Phương Thảo, “Biện pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở một số đảng bộ cơ quan”, Tạp chí xây dựng Đảng, số 7/2004.
- 7 + Hoàng Định: “Sinh hoạt chi bộ nông thôn”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 7/2004 + Nguyễn Công Huyên: “Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trong doanh nghiệp tư nhân”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 9/2004. + Minh Hiếu: “Phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng ở xã ngoại thành Hà Nội”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 10/2004. + Hồng Phúc: “Sinh hoạt chi bộ ở Đảng bộ khối Công nghiệp Hà Nội”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 8/2005. + Hà Văn Tài, “Từ một đại hội chi bộ ở khu dân cư”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 8/2005. + Bạch Kim: “Chất lượng sinh hoạt chi bộ cơ quan Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 8/2005. + Phạm Thu Huyền: “Để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ cơ quan khối đoàn thể”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 7/2006. + Trần Thu Thuỷ: “Biện pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ bệnh viên”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 7/2006. + Phúc Sơn, “Giải pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở Đảng bộ Ban cơ yếu Chính phủ”, Tạp chí xây dựng Đảng, số 9/2007. + Minh Hoàn: “Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 9/2007 + Hà Triều, “Để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở cơ quan hành chính”, Tạp chí xây dựng Đảng, số 1/2008. Các bài viết trên xem xét chất lượng sinh hoạt chi bộ dưới các góc độ khác nhau, đều đã đưa ra các căn cứ lý luận và thực tiễn, đánh giá những hạn chế, yếu kém trong sinh hoạt chi bộ, từ đó khái quát thành những kinh nghiệm để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở các loại
- 8 hình chi bộ khác nhau; đồng thời đã đưa ra cách thức, biện pháp tổ chức, điều hành buổi sinh hoạt chi bộ có hiệu quả, và một số bài viết đã nêu ra được phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ, đảng bộ cơ sở. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên đều đã đề cập đến vấn đề nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở các góc độ khác nhau, hoặc ở dạng chung nhất hoặc đặt nó trong phạm vi nghiên cứu tổ chức hoạt động của những đơn vị khác nhau; các công trình nghiên cứu trên đã có những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn về sinh hoạt đảng hiện nay. Tuy vậy, cho đến nay chưa có công trình, đề tài nghiên cứu nào đi sâu nghiên cứu có hệ thống dưới góc độ luận văn khoa học về chất lượng sinh hoạt chi bộ của Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ những cơ sở lý luận và thực tiễn của chất lượng sinh hoạt chi bộ tại các TCCSĐ trực thuộc Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội hiện nay, từ đó đề xuất những phương hướng và giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ tại các TCCSĐ trực thuộc Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau: Làm rõ một số vấn đề lý luận về chi bộ và chất lượng sinh hoạt chi bộ. Khảo sát, phân tích, đánh giá đúng thực trạng, chỉ ra những nguyên nhân, rút ra một số kinh nghiệm về chất lượng sinh hoạt chi bộ tại các TCCSĐ trực thuộc Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội hiện nay.
- 9 Xác định phương hướng và đề xuất giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ tại các TCCSĐ trực thuộc Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chất lượng sinh hoạt chi bộ tại các TCCSĐ trực thuộc Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian: Các chi bộ ở các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội (chi bộ cơ sở, chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở). Về phạm vi khảo sát: Khảo sát sinh hoạt chi bộ tại 45 chi bộ trực thuộc Đảng uỷ cơ sở và 10 chi bộ cơ sở trực thuộc Đảng ủy Khối các cơ quan thành phố Hà Nội (trong tổng số 543 chi bộ trực thuộc Đảng ủy cơ sở và 18 chi bộ cơ sở trực thuộc Đảng ủy Khối các cơ quan Thành phố) Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng chất lượng sinh hoạt chi bộ ở các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội từ năm 2008 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận và phương pháp luận Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chi bộ và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đề tài sử dụng các phương pháp cụ thể sau: Phương pháp lôgic lịch sử, phân tích – tổng hợp, khái quát hóa, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế, điều tra xã hội học… 6. Những đóng góp mới và ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- 10 6.1. Những đóng góp mới Hệ thống hoá một số lý lý luận về chất lượng sinh hoạt chi bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Khái quát hoá thực trạng chất lượng sinh hoạt chi bộ tại các TCCSĐ trực thuộc Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội hiện nay và nêu lên một số kinh nghiệm. Đề xuất những phương hướng và giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ tại các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội, đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn hiện nay. 6.2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Luận văn có thể cung cấp thêm những luận cứ khoa học giúp các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội thực hiện việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho dạy và học bậc đại học chuyên ngành xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước trong những vấn đề có liên quan. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LY LUÂN VÊ CHÂT L ́ ̣ ̀ ́ ƯỢNG SINH HOAT CHI BÔ ̣ ̣
- 11 1.1. Sinh hoạt chi bộ Khái niệm, vai trò, nội dung, tính chất, hình thức 1.1.1. Khái niệm sinh hoạt chi bộ và chất lượng sinh hoạt chi bộ 1.1.1.1. Khái niệm sinh hoạt Theo từ Điển Hán Việt, đây là khái niệm ghép lại từ hai từ đơn “sinh” và “ hoạt”, theo đó, “sinh” có nghĩa là sinh trưởng, sinh tồn, sinh mệnh, người có học, phát ra (sinh bệnh, sinh biến). Còn “ hoạt” có nghĩa là sinh tồn, sống mãi, làm việc bằng thể lực. Vậy sinh hoạt là hoạt động của con người để sinh tồn và phát triển. Theo Đại từ điển tiếng Việt: “sinh hoạt” là những hoạt động tập thể của một tổ chức; sinh hoạt câu lạc bộ, sinh hoạt chi đoàn, sinh hoạt tổ đảng; tiến hành những hoạt động tập thể; sinh hoạt văn nghệ tại câu lạc bộ [55, tr.1446] Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh cho rằng: Sinh hoạt là “sống”, “sinh kế”, là đời sống hoạt động của con người và tổ chức [1, tr.359]. Như vậy, sinh hoạt là một loại hoạt động, một phương thức hoạt động của con người, hoạt động đó, phương thức đó được tiến hành bởi một tập thể, một cá nhân nhằm thực hiện một công việc nhất định nào đó bằng cách bàn bạc, thảo luận, quyết định các biện pháp để duy trì sự tồn tại của tổ chức, cá nhân. Sinh hoạt là một điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của con người trong cộng đồng xã hội. 1.1.1.2. Khái niệm chi bộ Theo Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng thì “chi bộ là tổ chức cơ sở đảng thấp nhất của một đảng chính trị” Cuốn sách “về đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng” do đồng chí Đức Lượng chủ biên đã đưa ra khái niệm: “chi bộ là một hình thức tổ chức của Đảng, được lập ra ở các đơn vị cơ sở ( địa bàn dân cư, nơi sinh sống hoặc công tác của đảng viên). Chi bộ là đơn vị chiến đấu của cơ bản của Đảng, là hạt nhân lãnh đạo của đảng ở cơ sở” [39, tr.51].
- 12 Ngày từ thời C.Mac và Ăngghen, các ông đã đưa ra quan niệm của mình về chi bộ. Hai ông chỉ ra rằng chi bộ được thành lập bí mật trong các hiệp hội công nhân, là “trung tâm hạt nhân của các hiệp hội công nhân, là mắt xích quan trọng, là chỗ dựa vững chắc của Đảng” [40 , tr.348]. Nếu các chi bộ này bị buông lỏng về mặt tổ chức thì sẽ dẫn tới cắt đứt liên lạc với Ban chấp hành trung ương, làm cho Đảng mất chỗ dựa “ vững mạnh và duy nhất”. V.I.Lênin người kế thừa và phát triển những quan điểm của C.Mac và Ăngghen về Đảng và xây dựng đảng thì cho rằng: chi bộ là nơi rèn luyện, phân công công tác, quản lý, sang lọc đảng viên để họ luôn là người chiến sĩ tiên phong của giai cấp. Chi bộ còn là nền tảng của quần chúng, là hạt nhân chính trị của các tập thể lao động. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “tổ chức gốc rễ của Đảng là chi bộ. Chi bộ do chi ủy lãnh đạo, các đảng viên chịu sự lãnh đạo của chi ủy” [42, tr.240]. Hiện nay trong hệ thống tổ chức của Đảng có hai loại hình chi bộ: Loại hình chi bộ là một bộ phận của đảng bộ cơ sở, trực thuộc đảng ủy cơ sở, được tổ chức theo nơi làm việc hoặc nơi cư trú của đảng viên, mỗi chi bộ có từ 3 đến 30 đảng viên. Loại hình chi bộ cơ sở là TCCSĐ được tổ chức thành lập với những đơn vị cơ sở có từ 3 đến 30 đảng viên, không đủ điều kiện thành lập đảng bộ cơ sở ” [6, tr.47]. Từ các cách hiểu như trên về chi bộ, ta có thể hiểu chi bộ thực chất là nh ững t ổ ch ức đ ả ng tạ o nên các đả ng b ộ c ơ s ở và toàn Đả ng, đó là nh ững t ế bào c ủ a Đ ả ng, h ạ t nhân lãnh đ ạ o chính tr ị ở các đị a bàn dân c ư, trong các t ổ ch ức và các lĩnh v ự c củ a đ ờ i số ng xã hộ i . 1.1.1.3. Khái niệm sinh hoạt chi bộ Trước khi đi vào tìm hiểu khái niệm sinh hoạt chi bộ ta tìm hiểu khái niệm sinh hoạt Đảng. Trong cuốn “Sách tra cứu các mục từ về tổ chức”, đưa ra định nghĩa rõ hơn về “sinh hoạt đảng”: “Sinh hoạt đảng là sự gắn kết về trách nhiệm chính trị và tình đồng chí của người đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sinh hoạt đảng
- 13 trực tiếp và thường xuyên nhất là ở các chi bộ, ở hội nghị đảng viên và hội nghị đại biểu đảng bộ các cấp giữa nhiệm kỳ, ở đại hội đảng viên và đại hội đại biểu đảng bộ thường kỳ hay bất thường ở các cấp, ở hội nghị thường kỳ hay bất thường của cấp ủy các cấp” [49, tr.590]. Định nghĩa này đề cập đến sinh hoạt đảng ở tất cả các tổ chức đảng các cấp trong toàn Đảng, kể cả đại hội và hội nghị đảng các cấp và coi đại hội và hội nghị đảng là một hình thức sinh hoạt đảng. Cũng có nhiều cấp uỷ và đảng viên cho rằng, sinh hoạt chi bộ là các hội nghị của chi bộ, gồm đại hội chi bộ thường kỳ, hội nghị chi bộ giữa nhiệm kỳ, hội nghị chi bộ cuối năm, giữa năm, hội nghị chi bộ thường kỳ hàng tháng... Cách hiểu này, thường gắn từng hội nghị chi bộ với nội dung của hội nghị tạo thành tên gọi của hội nghị đó. Ta nhận thấy, sinh hoạt chi bộ là hoạt động tập thể của một tổ chức đảng của một đảng chính trị. Sinh hoạt đảng, sinh hoạt chi bộ được thực hiện bằng các hình thức: sinh hoạt chính trị, sinh hoạt chuyên đề và sinh hoạt học tập. Sinh hoạt chi bộ là nguyên tắc cơ bản của Đảng, đó là quy luật tồn tại và phát triển bền vững của các TCCSĐ, nhằm tăng cường sự lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ. Từ những phân tích ở trên, có thể hiểu: sinh hoạt chi bộ là các hoạt động tập thể của đảng viên trong chi bộ để thảo luận và quyết định những vấn đề cần thiết, gồm các cuộc họp chi bộ thường kỳ (có thể gọi là các cuộc sinh hoạt chi bộ thường kỳ), các hội nghị chi bộ và đại hội chi bộ. Như vậy sinh hoạt chi bộ là sự phản ảnh quá trình xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách thông qua hoạt động của tập thể, của đảng viên và tổ chức đảng để thực hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng; là sự phản ảnh quá trình hoạt động xây dựng đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, rèn luyện đội ngũ đảng viên và tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh đủ sức gánh vác trọng trách đối với giai cấp, đối với dân tộc; là sự phản ảnh mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với dân. 1.1.1.4. Quan niệm về chất lượng sinh hoạt chi bộ
- 14 Để đưa ra quan niệm về chất lượng sinh hoạt chi bộ cần làm rõ khái niệm “chất lượng”. Thuật ngữ “ chất lượng” đã được sử dụng từ lâu để mô tả các thuộc tính như: tốt, đẹp, đắt tươi và xa xỉ. Vì thế chất lượng dường như là một khái niệm rất đa dạng và được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Triết học MácLênin định nghĩa: “chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho nó là nó mà không phải là cái khác” [56, tr.307]. Theo Đại Từ điển Tiếng Việt: “chất lượng: cái làm nên phẩm chất, giá trị của con người, sự vật... Cái tạo nên bản chất sự vật, làm cho sự vật này khác với sự vật kia; phân biệt với số lượng” [ 55, tr.331]. Từ điển Triết học chỉ rõ: “chất lượng (chất) là tính quy định bản chất của sự vật, tính quy định những đặc điểm và tính cách vốn có của sự vật; do tính quy định đó, sự vật là sự vật như nó đang tồn tại chứ không phải là sự vật nào khác; tính quy định đó, phân biệt sự vật ấy với những sự vật khác” [ 54, tr.150]. Trong lĩnh vực kinh tế, “chất lượng” được quan niệm là tập hợp những tính chất của sản phẩm thể hiện mức độ thoả mãn những yêu cầu định trước cho nó, trong điều kiện xác định về kỹ thuật, kinh tế, xã hội. Mỗi lĩnh vực khác nhau, có phương pháp khác nhau để đánh giá chất lượng sự vật, sự việc, sản phẩm, song có điểm chung là: chất lượng của đối tượng được đánh giá là tổng hợp các yếu tố tạo nên bản chất của đối tượng, làm nên tác dụng, giá trị của đối tượng đó. Nói đến chất lượng là phải nói tới 2 phương diện: thứ nhất, chất lượng là tổng hợp những phẩm chất, tính chất (thuộc tính) tạo nên giá trị của một con người, một sự vật; thứ hai, những phẩm chất, tính chất đó đáp ứng đến đâu những yêu cầu đã đặt ra. Nói đến chất lượng là nói đến tốt hay xấu, đạt hay không đạt một chuẩn mực nào đó. Từ sự phân tích trên, có thể quan niệm: chất lượng sinh hoạt chi bộ là tổng hợp của các yếu tố làm cho sinh hoạt chi bộ phát huy tác dụng đối
- 15 với mọi hoạt động của chi bộ, trước hết là đề ra các chủ trương, nghị quyết đúng,, góp phần để chi bộ thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Hoạt động của chi bộ gồm: hoạt động xây dựng chi bộ về chính trị, tư tưởng và tổ chức; hoạt động lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, lãnh đạo chính quyền, ban công tác Mặt trận Tổ quốc, các chi hội đoàn thể chính trịxã hội trên địa bàn; hoạt động lãnh đạo các lĩnh vực đời sống của xã hội. Hoạt động lãnh đạo của chi bộ gồm: xác định đúng đắn nhiệm vụ chính trị của mình cùng các giải pháp thực hiện và lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị đó; xác định đúng đắn các chủ trương, giải pháp và lãnh đạo thực hiện thắng lợi chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chất lượng sinh hoạt chi bộ góp phần rất quan trọng để chi bộ thực hiện có kết quả những công việc này. Chất lượng sinh hoạt chi bộ được tạo nên bởi các nhân tố chủ yếu tố như: nền nếp sinh hoạt chi bộ; nội dung sinh hoạt chi bộ; hình thức sinh hoạt chi bộ; công tác chuẩn bị sinh hoạt chi bộ; số lượng, chất lượng đảng viên tham gia sinh hoạt chi bộ; năng lực điều hành chủ trì sinh hoạt chi bộ của bí thư hoặc phó bí thư chi bộ; việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng; điều kiện, cơ sở vật chất phục vụ sinh hoạt chi bộ; sự chỉ đạo, hỗ trợ, kiểm tra của cấp ủy cấp trên. 1.1.2. Vai trò của sinh hoạt chi bộ Sinh hoạt chi bộ là hoạt động thường xuyên của chi bộ; hình thức lãnh đạo chủ yếu của chi bộ. Chi bộ là tế bào cấu tạo nên Đảng, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phụ thuộc và được quyết định chủ yếu bởi năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ. Các chi bộ là nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị lãnh đạo ở cơ sở, là một nhân tố quyết định trên thực tế đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên được thực hiện ở cơ sở. Các chi bộ có vai trò rất quan trọng để thực hiện thành công các nhiệm
- 16 vụ của Đảng ở cơ sở. Vai trò của sinh hoạt chi bộ thể hiện ở các khía cạnh sau: Thứ nhất, đây là một hoạt động rất quan trọng đối với việc nâng cao năng lực và sức chiến đấu của TCCSĐ. Nó bảo đảm cho chi bộ và mỗi đảng viên thực hiện được chức năng nhiệm vụ của mình. Hiện nay, trong Đảng ta đang tồn tại ba loại hình đảng bộ cơ sở: Một là: Những đảng bộ cơ sở có các chi bộ, đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng uỷ cơ sở và có các chi bộ trực thuộc đảng uỷ bộ phận. Hai là; Những đảng bộ cơ sở có các chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở. Ba là: Chi bộ cơ sở có vai trò đảng bộ cơ sở. Phần lớn hoạt động của đảng bộ cơ sở được diễn ra ở chi bộ, vì vậy chi bộ có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của đảng bộ cơ sở. Chi bộ trong sạch, vững mạnh thì đảng bộ cơ sở mới vững mạnh và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Vì thế, củng cố, nâng cao chất lượng các chi bộ là vấn đề thường xuyên, trọng yếu của các đảng bộ cơ sở, trong đó nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ là việc làm không thể thiếu. Chi bộ là tế bào của đảng bộ trực tiếp tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ TCCSĐ, giáo dục, rèn luyện đảng viên, phân công công việc, quản lý đảng viên và tiến hành các thủ tục để kết nạp đảng viên, đưa người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng…Chi bộ trực tiếp tuyên truyền đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng và nghị quyết của đảng uỷ cơ sở tới nhân dân và lãnh đạo tổ chức thực hiện. Vì thế, sinh hoạt chi bộ có vai trò, tác dụng to lớn đối với xây dựng nội bộ Đảng, củng cố, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, khẳng định và phát huy những mặt mạnh, chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm của cán bộ đảng viên và của chi bộ. Lênin coi chi bộ cơ sở là nơi rèn luyện phân công công tác đảng viên, quản lý sàng lọc đảng viên để họ luôn là người chiến sĩ tiên phong của giai cấp. Mỗi đảng viên phải liên hệ chặt chẽ với Đảng bằng việc tự mình tham gia sinh hoạt và hoạt động ở một tổ chức của Đảng. Vì vậy mà ngay cả khi xác định người được kết nạp vào Đảng, Lênin nêu:
- 17 “Tất cả những người nào thừa nhận cương lĩnh của Đảng và ủng hộ Đảng bằng những phương tiện vật chất cũng như bằng cách tự mình tham gia một trong những tổ chức của Đảng thì được coi là đảng viên”[38. tr.268]. Ở đây ông đã xác định rằng: Đảng không thể chỉ đạo những người đứng ngoài tổ chức của Đảng và đảng viên phải tham gia trong một tổ chức Đảng thì Đảng mới giáo dục và kiểm tra được họ. Chính vì vậy, mà thông qua sinh hoạt chi bộ cũng có thể quản lý một cách hiệu quả nhất. Thứ hai, Sinh hoạt chi bộ còn có một vai trò là diễn đàn dân chủ phát huy tính tự giác, sáng tạo của đảng viên để tìm chủ trương, giải pháp thực hiện nhiệm vụ chính trị. Qua sinh hoạt chi bộ, từng đảng viên trưởng thành. Đảng được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, dân chủ. Trong sinh hoạt chi bộ, đảng viên tham gia sinh hoạt phải phát huy cao nhất tinh thần tự giác, gương mẫu, dân chủ, mang hết trí tuệ đóng góp cho những quyết định của chi bộ. Sinh hoạt chi bộ là nơi đảng viên thể hiện rõ vai trò lãnh đạo của mình. Song, đảng viên phải thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc tập trung dân chủ, khi ý kiến của cá nhân đảng viên thuộc về thiểu số, đảng viên đó, phải chấp hành vô điều kiện quyết định của tập thể. Do vậy, chất lượng sinh hoạt chi bộ là một trong những yếu tố quyết định sức sống, sự tồn tại, phát triển của chi bộ. Không tổ chức sinh hoạt chi bộ hoặc tổ chức sinh hoạt chi bộ nhưng chất lượng sinh ho ạt thấp thì chi bộ không thể hoàn thành nhiệm vụ. Thực tế đã chứng minh, những chi bộ trong sạch, vững mạnh là những chi bộ duy trì thành nếp sinh hoạt chi bộ, có nội dung sinh hoạt phong phú, thiết thực, hình thức sinh hoạt đa dạng, có chất lượng tốt. 1.1.3. Nội dung, tính chất, hình thức sinh hoạt chi bộ 1.1.3.1. Nội dung sinh hoạt chi bộ Nội dung sinh hoạt chi bộ là toàn bộ những công việc, nhiệm vụ mà chi bộ phải giải quyết để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Nội dung sinh hoạt chi bộ hiện nay theo Hướng dẫn số 09HD/BTCTW ngày
- 18 02/3/2012 của Ban Tổ chức Trung ương về nội dung sinh hoạt chi b ộ. Những nội dung sinh hoạt cụ thể như sau : Một là, học tập, quán triệt đường lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của tổ chức đảng cấp trên; thông tin những vấn đề tình hình thế giới, trong nước, địa phương có liên quan đến tư tưởng của đảng viên trong chi bộ, quần chúng trong đơn vị. Việc học tập nội dung này làm cho mọi đảng viên của chi bộ được quán triệt đầy đủ, chính xác đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết, quy định, các chương trình, kế hoạch công tác của cấp trên (tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể cấp trên), để từ đó bản thân mỗi đảng viên nghiên cứu, nghiền ngẫm làm theo đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, cũng như tuyên truyền vận động gia đình, quần chúng nhân dân biết và làm theo. Đồng thời, cung cấp kịp thời những thông tin mới về tình hình thế giới, trong nước và địa phương, đơn vị để đảng viên định hướng tư tưởng đúng đắn, chủ động và tự giác thực hiện nhiệm vụ, tiến hành công tác tư tưởng tạo nên nhiệm vụ chính trị của chi bộ, đảng bộ. Hai là, bàn bạc quyết nghị những vấn đề về sự lãnh đạo của chi bộ đối với các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục, an ninh, quốc phòng, công tác vận động quần chúng. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của chi bộ, theo quy định của Điều lệ Đảng, của Trung ương Đảng, xuất phát từ những vấn đề đặt ra ở đơn vị, chi bộ tiến hành thảo luận, đề ra những chủ trương, tiêu chí và biện pháp thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, an ninh, quốc phòng, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân ở cơ quan, đơn vị.
- 19 Để thực hiện tốt nội dung này, chi bộ cần nắm vững những quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, kế hoạch công tác của cấp trên và những đặc điểm, những vấn đề nảy sinh ở đơn vị để bàn bạc thoả thuận và có những quyết nghị đúng đắn, không trái với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của tổ chức đảng cấp trên, cơ quan chuyên môn cấp trên. Chi bộ bàn bạc và quyết nghị những vấn đề thuộc phạm vi của các tổ chức khác (quản lý, điều hành của chính quyền, chủ trương của đơn vị, các đoàn thể nhân dân). Những vấn đề phức tạp chưa giải quyết được cần tăng cường bàn bạc, thảo luận trong chi bộ và báo cáo đảng uỷ cơ sở, để đảng uỷ cơ sở xem xét giúp đỡ. Ba là, thảo luận, quyết nghị những vấn đề xây dựng nội bộ Đảng: chủ trương, biện pháp xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh; thực hiện tự phê bình và phê bình, công tác kiểm tra giữ gìn kỷ luật Đảng và tăng cường đoàn kết thống nhất trong chi bộ; những nội dung của công tác đảng viên như: kết nạp đảng viên, phân công việc cho đảng viên, quản lý đảng viên, đánh giá chất lượng đảng viên. Sinh hoạt chi bộ bàn về những vấn đề xây dựng nội bộ được tiến hành theo định kỳ hàng quý, hàng năm; hoặc khi đột xuất có những vấn đề tư tưởng, tổ chức cần giải quyết. Dù sinh hoạt theo định kỳ hay đột xuất đều phải được tiến hành nghiêm túc, đúng nguyên tắc. Trong sinh hoạt chi b ộ c ần b ảo đảm cho mỗi đảng viên có thể trình bày với chi bộ tâm tư, nguyện vọng, những khó khăn, vướng mắc trong công tác, trong cuộc sống đời thường mà đảng viên không khắc phục được để chi bộ góp ý hoặc có biện pháp giúp đỡ, giúp đảng viên đó hoàn thành tốt nhiệm vụ được chi bộ phân công và giải quyết tốt những khó khăn trong cuộc sống gia đình.
- 20 Trên đây là ba loại vấn đề chủ yếu thuộc nội dung sinh hoạt chi bộ. Tuy nhiên, do sự khác nhau về nhiệm vụ của các chi bộ nên nội dung sinh hoạt của các chi bộ có sự khác nhau. Tuỳ theo đặc điểm, nhiệm vụ của chi bộ và những vấn đề đặt ra trong thực tiễn, trên cơ sở ba nội dung chủ yếu nêu trên, sinh hoạt chi bộ cần tập trung giải quyết những vấn đề cụ thể. Trong một buổi sinh hoạt chi bộ có thể giải quyết một hoặc hai vấn đề thuộc những nội dung nêu trên. Trong giai đoạn hiện nay, việc chuẩn bị nội dung sinh hoạt chi bộ còn phải gắn với việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Có gắn nội dung sinh hoạt chi bộ với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thì càng nâng cao được chất lượng các buổi sinh hoạt, vừa đàm bảo thiết thực, vừa có tính giáo dục. Đặc biệt, là trong tình hình hiện nay có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống. Việc gắn sinh hoạt chi bộ với “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” có hiệu quả nhất là ở các buổi sinh hoạt chuyên đề. Vì vậy, trong hướng dẫn của Ban tổ chức Trung ương về nội dung sinh hoạt chi bộ đưa ra yêu cầu là chi bộ ít nhất mỗi quý phải sinh hoạt chuyên đề một lần. Như vậy, để sinh hoạt chi bộ nghiêm túc, có kết quả cần đảm bảo ba tính chất nêu trên. Ngoài ra, cần chú ý đến tình đồng chí, thương yêu, tôn trọng lẫn nhau, hiểu rõ hoàn cảnh, thông cảm, giúp đỡ tận tình, tạo điều kiện thuận lợi để mỗi đảng viên giải quyết những khó khăn, vươn lên trong công việc và trong đời sống. 1.1.3.2. Tính chất của sinh hoạt chi bộ Sinh hoạt chi bộ có 3 tính chất đó là: Tính lãnh đạo, tính chiến đấu và tính giáo dục.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sỹ Quản lý kinh tế: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An
91 p | 1496 | 522
-
Luận văn Thạc sỹ Kỹ thuật: Điều khiển thiết bị bù tĩnh (SVC) và ứng dụng trong việc nâng cao cho ổn định chất lượng điện năng của hệ thống điện
116 p | 494 | 198
-
Luận văn thạc sỹ kinh tế: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
104 p | 441 | 164
-
Luận văn Thạc sỹ Kinh tế: Nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam
134 p | 485 | 144
-
Luận văn Thạc sỹ Quản trị kinh doanh: Nghiên cứu giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt của Tổng công ty Vận tải Hà Nội
158 p | 635 | 136
-
Luận văn thạc sỹ thương mại: Nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán quốc tế tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Hà Tây
104 p | 391 | 117
-
Luận văn thạc sỹ kinh tế: Nâng cao chất lượng dịch vụ của các ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế - trường hợp Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
98 p | 286 | 104
-
Luận văn Thạc sỹ Nông nghiệp: Đánh giá thực trạng sản xuất rau an toàn và các định mối nguy hiểm ảnh hưởng tới chất lượng về sinh một số loại rau tại Sóc Sơn - Hà Nội
128 p | 247 | 83
-
Báo cáo luận văn thạc sỹ quản trị kinh doanh: Xác định các nhân tố ảnh hưởng chất lượng dịch vụ của Saigontourist trong lĩnh vực khách sạn tại Tp. HCM
0 p | 335 | 80
-
Luận văn Thạc sỹ Khoa học kinh tế: Chất lượng dịch vụ tín dụng hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Phú Lộc
150 p | 145 | 32
-
Luận văn Thạc sỹ Khoa học kinh tế: Đánh giá chất lượng dịch vụ thẻ ATM của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam - Chi nhánh Thừa Thiên Huế
97 p | 127 | 28
-
Luận văn Thạc sỹ Khoa học kinh tế: Chất lượng cán bộ, công chức cấp xã - Thị trấn ở huyện Gò Công Đông - Tỉnh Tiền Giang
137 p | 71 | 22
-
Luận văn Thạc sỹ: Chất lượng đào tạo của Trường Cao đẳng Dược Phú Thọ thông qua ý kiến đánh giá của sinh viên
35 p | 103 | 15
-
Tóm tắt luận văn Thạc sỹ: Chất lượng đào tạo của Trường Cao đẳng Dược Phú Thọ thông qua ý kiến đánh giá của sinh viên
25 p | 120 | 14
-
Luận văn Thạc sỹ Khoa học kinh tế: Đánh giá chất lượng đào tạo Cao đẳng tại trường Cao đẳng Công nghiệp Huế
134 p | 69 | 9
-
Luận văn Thạc sỹ Khoa học kinh tế: Đánh giá chất lượng đào tạo ngành Điện trường Cao đẳng Công nghiệp Huế
165 p | 48 | 9
-
Luận văn Thạc sỹ Khoa học kinh tế: Đánh giá của các doanh nghiệp về chất lượng sinh viên tốt nghiệp ngành Công nghệ Ô tô tại trường Cao đẳng nghề Công nghiệp Thanh Hoá
106 p | 46 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn