LUẬN VĂN: Thực trạng cũng như những mặt được và chưa được của chương trình CPH ở nước ta trong thời gian vừa qua
lượt xem 17
download
Tham khảo luận văn - đề án 'luận văn: thực trạng cũng như những mặt được và chưa được của chương trình cph ở nước ta trong thời gian vừa qua', luận văn - báo cáo, kinh tế - thương mại phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Thực trạng cũng như những mặt được và chưa được của chương trình CPH ở nước ta trong thời gian vừa qua
- LUẬN VĂN: Thực trạng cũng như những mặt được và chưa được của chương trình CPH ở nước ta trong thời gian vừa qua
- Lời nói đầu Đại hội VI (năm 1986), tiếp đó là các Đại hội VII và VIII của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới sâu sắc và toàn diện đất nước, trong đó đổi mới về kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm và đổi mới hệ thống doang nghiệp Nhà nước (DNNN) là khâu đột phá. Trong 10 năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, các cơ quan Đảng và Nhà nước ở Trung ương đã ban hành trên 200 văn bản về sắp xếp lại và đổi mới cơ chế quản lý các DNNN. Đến nay hệ thống DNNN đã được sắp xếp lại một bước khá căn bản, đã giảm quá nửa số doanh nghiệp (những doanh nghiệp nhỏ bé và yếu kém) và số doanh nhiệp còn lại được củng cố một bước, cơ chế quản lý mới được hình thành, ngày càng hoàn thiện giúp các DN chuyển đổi và thích nghi dần với các quy luật của kinh tế thị trường trong bối cảnh nền kinh tế mở, hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích vẫn còn nhiều tồn tại và hạn chế. Trước những yêu cầu to lớn của CNH, HĐH đất nước và cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt, cần tiếp tục đổi mới các DNNN. Công việc này gồm hai nội dung lớn: sắp xếp lại các doanh nghiệp và đổi mới cơ chế quản lý. Trong đó Cổ phần hoá (CPH) một bộ phận DNNN là một trong 4 nội dung đổi mới quản lý DNNN. Hiện nay nó được coi là một chủ trương quan trọmg của Đảng và Nhà nước trong việc huy động vốn của mọi tầng lớp và nâng cao tính tự, lực tự giác, nâng cao tinh thần trách nhiệm của những người trực tiếp gắn lợi ích của mình với lợi ích của DN. Thông qua đó từng bước cải thiện quan hệ sản xuất phù hợp với sự thay đổi của lực lượng sản xuất trong công cuộc CNH, HĐH đất nước, từng bước đưa nền kinh tế nước nhà đi lên tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chương trình CPH đã được triển khai từ giữa năm 1992, theo tinh thần của Quyết định 202/CT-HĐBT về “thí điểm chuyển một số doanh nghiệp thành Công ty cổ phần” (ngày 08/06/1992). Cho đến nay, những thành công mà chương trình CPH mang lại không phải là ít nhưng vẫn tồn tại những bất cập cần kịp thời nhìn nhận và tháo gỡ. Trong khuân khổ bài viết này chúng ta hãy cùng xem xét thực trạng cũng như những mặt được
- và chưa được của chương trình CPH ở nước ta trong thời gian vừa qua, từ đó đề xuất một số giải pháp cho thời gian sắp tới.
- Nội dung Phần 1: Một số vấn đề lý luận về Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 1.1. Sự ra đời và phát triển của Công ty Cổ phần trong Chủ nghĩa tư bản Ngày nay trên thế giới khái niệm Công ty cổ phần không có gì là mới mẻ, nhưng ở Việt nam không phải ai cũng hiểu thấu đáo được thế nào là một Công ty cổ phần. Để góp phần làm sáng rõ khái niệm này chúng ta hãy cùng điểm qua vài nét về sự ra đời và phát triển của Công ty cổ phần trong CNTB. Hình thái sơ khai của Công ty cổ phần là doanh nghiệp có một chủ sở hữu tư nhân độc lập. Đây là hình thái phổ biến thống trị trong nền sản xuất hàng hoá nhỏ và trong giai đoạn đầu của CNTB cạnh tranh tự do. ở đó, sở hữu của người chủ tư nhân được duy trì và phát triển bằng lao động của bản thân hoặc thuê mướn với vốn liếng sẵn có và sự tính toán của người chủ sở hữu trên cơ sở những đòi hỏi của thị trường. Mục đích phương thức kinh doang của những người sản xuất hàng hoá nhỏ chỉ là sự duy trì và bảo toòn mối quan hệ của họ đối với tư liệu sản xuất như người chủ sở hữu. Phương thức này có đặc điểm người sử hữu đồng thời là người lao động và người đó chỉ có thể làm giàu bằng lao động của chính mình. Do vậy, sự phát triển sản xuất có được rất chậm chạp, quy mô mở rộng từ từ tuỳ theo sự phát triển của thị trường của từng địa phương và khu vực. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, lưu thông tiền tệ cũng ngày càng phát triển cho phép đẩy nhanh và mở rộng quá trình trao đổi thanh toán cũng như tích trữ tiền tệ như là hình thái và mục đích tự thân của sự vận động sở hữu và điều đó góp phần làm thay đổi dần dần bản chất của phương thức kinh doanh này.
- Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa thì sự phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc làm cho mối quan hệ giữa những người sản xuất ngày càng phụ thuộc vào nhau. Trình độ phân công lao động xã hội phản ánh trình độ xã hội hoá sản xuất, do đó khi sự xã hội hoá sản xuất càng cao thì nhu cầu trao đổi mua bán hàng hoá để duy trì quyền chiếm hữu đối với tư liệu sản xuất, đặc biệt là những người sản xuất nhỏ ngày càng lớn. Vì vậy, mặc dù tư bản thương nghiệp đã ra đời trước CNTB nhưng phải đến CNTB nó mới phát triển mạnh mẽ với tư cách là để phục vụ cho quá trình lưu thông. Tư bản thương nghiệp từ chỗ là trung gian môi giới giữa những người sản xuất nhỏ và thị trường đã xâm nhập vào toàn bộ sản xuất, bắt nó phục vụ cho mục đích tư bản. Như vậy, tư bản thương nghiệp đã góp phần phá vỡ phương thức sản xuất nhỏ, hình thành phương thức sản xuất TBCN. Song song với tư bản thương nghiệp thì tư bản cho vay nặng lãi cũng có cơ hội phát triển mạnh vào thời kỳ này do yêu cầu mở rộng sản xuất. Tư bản cho vay nặng lãi đã tham gia tích cực vào việc làm người sản xuất hàng hoá nhỏ ngày càng mắc nợ nhiều hơn và dần dần mất phương tiện để duy trì tái sản xuất bình thường. Chế độ tư hữu có được nhờ lao động của bản thân, gắn chặt người lao động cá thể độc lập với những điều kiện lao động của người đó đã dần bị thay thế bằng chế độ tư hữu TBCN dựa trên lao động làm thuê. Hình thái kinh doanh một chủ ngày càng phát triển theo những quy luật kinh tế nội tại của nền sản xuất TBCN thì quy mô tích tụ và tập trung tư bản ngày càng lớn. Với mục đích kinh doanh là tối đa hoá lợi nhuận, bị chi phối bởi cạnh tranh và độc quyền, quá trình trên đã làm cho các tư bản nhỏ lần lượt bị đánh bại và bị thu hút vào các tư bản lớn. Do đó, hình thái kinh doanh một chủ dần nhường chỗ cho các hình thức kinh doanh chung vốn lần lượt ra đời. Việc hình thành các hình thức kinh doanh chung vốn, xét về mặt lịch sử đó là bước tiến hóa trong chế độ tín dụng từ phương thức kinh doanh chủ yếu dựa vào vay mượn sang phương thức kinh doanh chủ yếu dựa vào góp vốn. Vì vậy, xét về mặt sở hữu hình thức kinh doanh chung vốn là điểm xuất phát của hình thái công ty cổ phần với tư cách là sự chung vốn của nhiều người cùng tham gia kinh doanh, cùng chia sẻ lợi nhuận và rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. Trên thực tế có rất nhiều hình thức và mức độ chung vố để kinh doanh trong thương nghiệp và sản xuất công nghiệp. ở đây, chúng ta chỉ xem xét hình thái kinh doanh chung vốn chủ yếu như một giai đoạn quá độ để hình
- thành công ty cổ phần. Hợp tác xã (HTX) và Công ty chung vốn là 2 loại hình chủ yếu của hình thái này. Hợp tác xã là hình thái kinh doanh của những người sản xuất hàng hoá nhỏ nhằm chống lại quá trình tan rã và phá sản của họ trước phương thức kinh doanh TBCN. Các HTX chủ yếu là HTX tín dụng, HTX cung tiêu, HTX sản xuất... từ chỗ thống nhất về vốn liếng về mua và bán sản phẩm, dần dần loại hình HTX xâm nhập vào trong sản xuất hình thành nên hình thái kinh doanh HTX như là sự thống nhất của quá trình tái sản xuất: từ sản xuất đến lưu thông và huy động vốn. Trên cơ sở góp chung tư liệu sản xuất, vốn liếng và sức lao động các HTX tiến hành kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng trong hưởng lợi và chịu rủi ro. Do sự chi phối của chế độ tín dụng đang ngày càng phát triển thì hình thái kinh doanh HTX ngày càng phụ thuộc vào các quan hệ kinh tế TBCN. Hơn nữa, với tính chất lỏng lẻo trong tổ chức, chỉ hoạt động trong 1 lĩnh vực nhất định, không chấp nhận rủi ro nên không kinh doanh quy mô lớn. Do đó ít có cơ hội mở rộng sản xuất kinh doanh nên bị thu hẹp về nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ... Ngoài hình thái kinh doanh HTX của những người sản xuất nhỏ còn có hình thái kinh doanh Công ty chung vốn của các nhà tư bản với mục đích giành chiến thắng trong cạnh tranh, giảm sức ép của tín dụng ngân hàng và các hình thức vay mượn khác. Đặc điểm chung của loại hình công ty này là góp vốn thiên về thân nhân, trách nhiệm pháp lý vô hạn và cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, đơn giản. Vì vậy, vào thời kỳ đầu của sự phát triển phương thức sản xuất TBCN khi mà cạnh tranh còn đang thống trị thì loại hình này rất được ưu chuộng, nó phản ánh một bước tiến của chế độ tín dụng. Tuy nhiên sau này do trách nhiệm pháp lý không hạn chế trong lĩnh vực kinh doanh chung vốn làm cho nó mang tính mạo hiểm quá cao, do đó rất khó khăn trong việc huy động một số vốn lớn. Thêm nữa sự ràng buộc của nó hết sức lỏng lẻo có thể bị giải tán bất cứ lúc nào nếu một người chung vốn muốn rút lui. Những hạn chế này làm cho hình thái Công ty chung vốn cũng bị thu hẹp dần về những ngành kinh doanh nhỏ lẻ, nhường chỗ cho các hình thức Công ty cổ phần ra đời. Sự ra đời và phát triển của chế độ tín dụng đã góp phần đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung tư bản bằng việc đẩy nhanh quá trình tuần hoàn và chu chuyển các loại
- vốn, tăng nhanh quy mô sản xuất và thúc đẩy quá trình xã hội hoá sở hữu trong nền kinh tế thị trường TBCN. Đồng thời nó đã tạo cơ sở cho việc hình thành thị trường vốn đầu tư và thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng đã góp phần tạo tiền đề cho sự ra đời của các Công ty cổ phần. Sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán đã giúp cho các công ty mở rộng và xâm nhập ngày càng mạnh mẽ ra hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế TBCN. Công ty cổ phần ra đời đánh dấu sự chuyển hướng nền kinh tế từ trạng thái vay mượn chủ yếu qua ngân hàng hoặc chung vốn sang huy động vốn trên thị trường tài chính. Sự phồn vinh của các Công ty cổ phần luôn đảm bảo cho sự thịnh vượng của thị trường tài chính, ngược lại sự phát triển của thị trường tài chính luôn tạo điều kiện cho các Công ty cổ phần sinh sôi nảy nở. Tóm lại, trải qua thời kỳ lịch sử phát triển lâu dài từ hình thái sơ khai là doanh nghiệp một chủ rồi đến hình thái kinh doanh chung vốn và cuối cùng là Công ty cổ phần, Công ty cổ phần đã thực sự trở thành một phát minh quan trọng nhất trong lịch sử phát triển các hình thái doanh nghiệp kể từ cuộc Cách mạng trong công nghiệp của TBCN chứ không đơn thuần chỉ là sản phẩm thụ động của sự phát triển nền kinh tế thị trường. 1.2. Vai trò của Công ty Cổ phần trong sự phát triển của kinh tế thị trường. Công ty cổ phần ra đời đã đóng góp vai trò lịch sử hết sức to lớn trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Trước hết, Công ty cổ phần là kết quả của sự vận động tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền kinh doanh về tư liệu sản xuất. Nó cho phép đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung tư bản, mở rộng quy mô sản xuất nhanh chóng tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất. Đồng thời Công ty cổ phần cũng tạo điều kiện thuận lợi cho di chuyển tư bản, phân tán bớt rủi ro cho những người đầu tư trong môi trường cạnh tranh. Việc hình thành Công ty cổ phần theo Mác đã: ”trực tiếp mang hình thái tư bản xã hội (tư bản của những cá nhân trực tiếp liên hiệp lại với nhau) đối lập với tư bản tư nhân: còn các xí nghiệp của nó biểu hiện ra là những xí nghiệp xã hội đối lập với
- những xí nghiệp tư nhân. Đó là sự thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu tư nhân trong khuân khổ của bản thân phương thức sản xuất TBCN”. Công ty cổ phần mang những đặc điểm cho phép thích ứng với những đòi hỏi của sự phát triển nền kinh tế thị trường mà các hình thái khác không thể đáp ứng được. Đó là: xét về mặt pháp lý công ty cổ phần là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân mà vốn do nhiều người đóng góp dưới hình thức cổ phần, các cổ đông chỉ có trách nhiệm với các cam kết tài chính của công ty trong giới hạn số tiền mà họ đóng góp. Trong trường hợp công ty bị phá sản thì họ chỉ mất số tiền đã đầu tư vào công ty mà thôi, không chịu trách nhiệm vô hạn như hình thức kinh doanh một chủ hoặc chung vốn. Bằng cách bán cổ phiếu, trái phiếu cho những người có vốn muốn đầu tư để gia tăng thu nhập, nó đã làm cho họ không e ngại những hậu quả tài chính sẽ xảy ra với gia sản của mình. Xét về mặt huy động vốn: nó cho phép huy động một số vốn lớn trong xã hội bằng cách có thể định giá cổ phiếu thấp để khai thác được cả những số tiền tiết kiệm nhỏ nhất trong công chúng. Việc mua cổ phiếu không những mang lại lợi tức cổ phần mà còn hứa hẹn những khoản thu nhờ việc gia tăng giá trị cổ phiếu khi công ty làm ăn có hiệu quả. Ngoài ra các cổ đông có quyền được tham gia quản lý theo điều lệ của công ty và được pháp luật bảo đảm, điều đó làm cho quyền sở hữu của cổ đông trở nên cụ thể và có sức hấp dẫn hơn, thêm nữa cổ đông có quyền được ưu đãi trong việc mua những cổ phiếu mới phát hành trước khi chúng được đem bán rộng rãi cho công chúng. Do sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý mà những người đóng vai trò sở hữu trong công ty cổ phầnkhông trực tiếp đứng ra kinh doanh mà uỷ thác chức năng đó cho bộ máy quản lý của công ty. Bản thân công ty được pháp luật thừa nhân như một pháp nhân độc lập tách rời với các cá nhân góp vốn và kiểm soát nó. Nhờ đó, công ty cổ phần tiến hành tất cả các hoạt động kinh doanh dưới danh nghĩa của chính mình và nhận trách nhiệm đến cùng với các cam kết tài chính của công ty. Trong cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần có Đại hội cổ đông - có quyền quyết định tối cao: bầu hoặc bãi miễn Hội đồng quản trị, Hội đồng quản trị - có trách nhiệm phân chia lợi nhuận, sửa đổi Điều lệ công ty, bảo toàn và phát triển giá trị các khoản vốn đầu tư của cổ đông... Ban giám đốc có trách nhiệm điều hành toàn bộ hoạt động
- quản lý kinh doanh. Cổ đông cũng có thể bầu ra Ban kiểm soát thực hiện việc kiểm tra giám sát hoạt động của công ty để bảo vệ lợi ích cho những người góp vốn. Chính vì những ưu việt của mình về trách nhiệm pháp lý, cơ cấu tổ chức chặt chẽ, rõ ràng... mà hình thái Công ty cổ phần ngày càng phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường khi có sự phát triển của thị trường chứng khoán - giúp việc giao dịch mua bán cổ phiếu, trái phiếu trở nên vô cùng dễ dàng. Công ty cổ phần và thị trường chứng khoán vừa duy trì được sự ổn định của doanh nghiệp vừa tạo nên sự di chuyển linh hoạt của các luồng vốn xã hội. Ngày nay, hàng ngàn tập đoàn công ty khổng lồ được hình thành theo hình thái Công ty cổ phần đã góp phần tạo nên sức mạnh kinh tế của một quốc gia (do biết áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất) và tham gia đắc lực vào các qúa trình quốc tế hoá đời sống kinh tế quốc tế. 1.3. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt nam - Sự lựa chọn tất yếu. Nước ta đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị ttrường nhiều thành phần phát triển theo định hướng XHCN dựa trên sự đa dạng hoá về các loại hình sở hữu. Đó là một chủ trương đúng đắn để khôi phục lại nền kinh tế nước nhà sau chiến tranh và sau những hậu quả mà cơ chế quản lý kinh tế cũ đem lại. Từ thực tiễn tiến hành công cuộc phát triển nền kinh tế và những kinh nghiệm thu được qua quá trình chỉ đạo, điều hành sản xuất kinh doanh chúng ta đã xã định được rằng cải cách doanh nghiệp Nhà nước một cách triệt để - trong đó CPH một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước là yêu cầu có tính quyết định để tăng cường động lực phát triển sản xuất và thúc đẩy DNNN hoạt động có hiệu quả hơn. 1.3.1. Tại sao phải chuyển doanh nghiệp nhà nước thành Công ty cổ phần? Do đặc điểm nước ta vừa thoát khỏi cơ chế bao cấp nên những ảnh hưởng của nó vẫn tồn tại ở đại bộ phận các doanh nghiệp. Vì thế, khi chuyển sang cơ chế mới các DNNN thường làm ăn kém hiệu quả, không có lãi. Lúc đó Nhà nước buộc phải có chính sách tài trợ, bao cấp. Tài trợ là một sách lược luôn luôn cần thiết nhằm đảm bảo cho các DNNN hoạt động tốt theo chủ trương phát triển kinh tế xã hội của Chính phủ. Còn bao cấp là một việc không đáng làm, nó chỉ làm cho các doanh nghiệp ngày càng
- ỷ lại, thiếu tinh thần trách nhiệm mà Nhà nước lại phải bù lỗ. Trong điều kiện ngân sách luôn thiết hụt thì đây thực sự là một gánh nặng nếu doanh nghiệp này thực ra là không cần phải duy trì hình thức quốc doanh. Theo báo cáo của Ban đổi mới doanh nghiệp Trung ương, năm 1996 tổng số nợ là 174.797 tỉ đồng, năm 1999 lên tới 199.060 tỉ đồng. Trong đó nợ phải trả là 126.366 tỉ đồng và nợ phải thu là 72.644 tỉ đồng. So với tổng số vốn toàn bộ doanh nghiệp, số nợ phải thu chiếm tới 62% và số nợ phải trả là 109%, trong khi khả năng thanh toán rất thấp, nợ quá hạn hoặc khó đòi chiếm tỉ lệ không nhỏ đang là gánh nặng đối với nhiều DNNN. Nhiều doanh nghiệp còn phải dựa vào sự bao cấp rất lớn của Nhà nước. Ngoài phần vốn đầu tư ban đầu khi thành lập, hàng năm các doanh nghiệp còn phải vay tới 85% vốn Nhà nước với lãi suất ưu đãi. Tuy nhiên vẫn có một số ít DNNN làm ăn có hiệu quả, phát triển được nhưng tốc độ tăng trưởng không đều giữa các ngành và chưa tạo ra sự liên kết phát triển bền vững. Thông thường các DNNN có quy mô nhỏ bé và dàn trải vè ngành nghề. Đến nay cả nước có khoảng 5.280 doanh nghiệp, bình quân mỗi doanh nghiệp chỉ có 22 tỉ đồng (khoảng 1,5 triệu USD). trong đo số doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỉ đồng (khoảng 350 nghìn USD) chiếm tới 65,45%, số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỉ đồng (trên 700 nghìn USD) chỉ chiếm dưới 21%. Đặc biệt số doanh nghiệp do địa phương trực tiếp quản lý quy mô còn nhỏ bé hơn nhiều, trong đó số doanh nghiệp có vốn dưới 1tỉ đồng (khoảng 70 nghìn USD) còn chiếm hơn 30%. Nhiều doanh nghiệp cùng loại thì hoạt động trong tình trạng chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cấp quản lý và trên cùng một địa bàn tạo ra sự cạnh tranh khônh đáng có. Do dàn trải về ngành nghề từ sản xuất đến thương mại và dịch vụ, manh mún về vốn trong khi vốn đầu tư của Nhà nước rất hạn chế đã gây chi phối xé lẻ các nguồn lực kể cả hoạt động quản lý của Nhà nước, không tập trung được cho những ngành lĩnh vực then chốt. Thiếu vốn cũng là nguyên nhân làm cho công nghệ của chúng ta không cải thiện được, dẫn đến năng lực cạnh tranh kém: sản phẩm làm ra thường kém chất lượng, giá cả lại cao, không có thị trường tiêu thụ (chỉ khoảng 15% đạt chất lượng xuất khẩu) nên cũng thua thiệt trong hội nhập về kinh tế với khu vực và thế giới. Các máy móc, thiết bị được trang bị thường nhập từ nhiều nước với các chủng loại và thế hệ rất khác nhau. Theo kết quả khảo sát của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường thì dây chuyền sản
- xuất, máy móc thiết bị của ta lạc hậu so với thế giới từ 10 đến 20 năm, mức độ hao mòn hữu hình từ 30 đến 50%, có tới 38% ở dạng phải thanh lý. Do nhiều lý do khác nhau không ít trường hợp chúng ta nhập khẩu những máy móc không đúng tiêu chuẩn và quy cách, thường là công nghệ thải của các nước phát triển được tân trang lại. Hơn nữa, việc đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, công nhân lành nghề chưa được chú trọng hoặc chưa phù hợp với xu thế phát triển, chưa có những ràng buộc về mặt lợi ích để người lao động phát huy hết khả năng của mình, đặc biệt là tình trạng tham nhũng, lãng phí... rất khó kiểm soát đang là những nhân tố làm khu vực kinh tế Nhà nước hoạt động kém hiệu quả. Bên cạnh những khó khăn chủ quan xất phát từ nội bộ nền kinh tế, thì các tác động tiêu cực do hội nhập kinh tế thế giới mang lại như cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực gần đây đã ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế nước ta. Điều này cho thấy tính cấp bách phải khẩn trương nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế để đảm bảo cho sự phát triển đất nước một cách ổn định vững chắc không những cho các năm trước mắt mà cho cả tương lai lâu dài. Nhận thức được tầm quan trọng của việc này Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khoá VIII) của Đảng đã dành một phần quan trọng cho mục tiêu tiếp tục đổi mới mạnh mẽ các doanh nghiệp Nhà nước , phấn đâú đưa chúng thực sự trở thành lực lượng chủ đạo dẫn dắt các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, làm nòng cốt để thực hiện thành công tiến trình CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế thế giới có hiệu quả. Tiếp theo, Chính phủ đã có chỉ thị số 20/TTg ngày 21/4/1998, trong đó đã đề ra chương trình, kế hoạch cụ thể triển khai thực hiện và quyết tâm thông qua đợt sắp xếp này để hình thành một cơ cấu doanh nghiệp hợp lý mạnh mẽ được quản lý tốt. CPH là một trong 4 nội dung quan trọng của quá trình đổi mới sắp xếp (bao gồm: Đổi mới cơ chế quản lý DNNN; tổ chức lại, củng cố và hoàn thiện Tổng công ty Nhà nước; CPH DNNN và áp dụng các hình thức giao, bán, khoán, cho thuê những DNNN có quy mô nhỏ).
- 1.3.2. Cổ phần hóa là gì? Qua CPH hình thức sở hữu tại doanh nghiệp đã chuyển từ sở hữu nhà nước duy nhất sang sở hữu hỗn hợp, và chính từ đâydẫn đến những thay đổi quan trọng về hình thức tổ chức, quản lý cũng như phương hướng hoạt động của công ty. DNNN sau khi cổ phần hóa sẽ trở thành Công ty Cổ phần và hoạt động theo Luật Công ty. Việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu cho phép thực hiện triệt để những nguyên tắc quản lý kinh tế, nâng cao quyền tự chủ tài chính và khả năng tự quản lý trong sản xuất kinh doanh, nâng cao tinh thần trách nhiệm cũng như óc sáng tạo của người lao động và người lãnh đạo. 1.3.3. Mục tiêu của cổ phần hóa Với mục tiêu nhất quán của CPH một bộ phận DNNN là huy động vốn của toàn xã hội để đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, tạo điều kiện cho người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp, tạo động lực bên trong thay đổi phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời làm tăng tài sản và thay đổi cơ cấu doanh nghiệp, thì CPH đang được coi là yêu cầu cấp bách của cải cách DNNN cần tiến hành liên tục, có hiệu quả. 1.4. Kinh nghiệm cổ phần hóa ở một số nước. Tuy nhiên qua kinh nghiệm một số nước ta thấy rằng CPH là quá trình vô cùng khó khăn, phức tạp không thể thực hiện ào ạt thiếu thận trọng. Từ đầu thập kỷ 90 đã diễn ra một quá trình chuyển đổi mạnh mẽ nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường ở Đông âu, Liên Xô (cũ) và một số nước Châu á, mà song song với nó là quá trình cải cách các doanh nghiệp, trong đó có CPH. Nhìn chung các nước này đều tiến hành theo một trong hai mô hìnhlà: mô hình liệu pháp sốc (chủ yếu ở Nga) và mô hình chuyển đổi dần dần (chủ yếu ở Trung Quốc). Theo mô hình liệu pháp sốc các nước đều nhanh chóng tư nhân hoá mạnh mẽ các DNNN. Họ cho rằng việc tư nhân hoá mạnh mẽ các DNNN sẽ rthúc đẩy đầu tư trên toàn xã hội, các doanh nghiệp sau khi tư nhân hoá sẽ hoạt động với hiệu quả và chất lượng tốt hơn. Nhưng kết quả ở một số nước chuyển đổi theo mô hình này lại trái ngược với sự mong đợi của các nhà cải cách cũng như hy vọng của chính người dân
- các nước này. Có thể rút ra một số đánh giá chủ yếu sau: do tư nhân hoá quá nhanh các DNNN đã dẫn đến hậu quả không lường trước là sản xuất công nghiệp nhanh chóng bị đình đốn, giảm sút và rối loạn; các sản phẩm công nghiệp chủ yếu phục vụ nhân dân trở nên hết sức khan hiếm, lạm phát, thất nghiệp tăng lên, đời sống đa số người lao động lâm vào cảnh khó khăn; do không ổn định cả về kinh tế , chính trị và xã hội nên đầu tư trên toàn xã hội không tăng mà lại giảm đi. Như vậy, hy vọng vào sự xút hiện các doanh nghiệp tư nhân hoạt động có hiệu quả để bù đắp sự thiếu hụt này đã không diễn ra trong phút chốc mà đòi hỏi phải có thời gian và quá trình tích luỹ kinh nghiệm. Ngược lại ở một số nước Châu á tiêu biểu là Trung Quốc, quá trình này được tiến hành từ từ, từng bước, giảm dần sự can thiệp và hỗ trợ từ Nhà nước để cho các doanh nghiệp này có thời gian và điều kiện về vốn, kinh nghiệm, thị trường để đứng vững. Đồng thời tiến hành kết hợp với các chính sách xã hội là một trong số các yếu tố tạo nên thành coong ở các nước này. Do đặc điểm, điều kiện của các nước là khác nhau, tiến hành CPH tại các thời điểm không giống nhau nên kết quả thu được cũng có sự khác biệt khá lớn. Vì vậy, mỗi nước phải tự mình xây dựng cho mình một con đường riêng, rập khuôn theo mô hình các nước đi trước là sai lầm. Việt nam phát triển theo định hướng XHCN nên CPH ở nước ta cũng mang những nét riêng. Con đường chúng ta đi hoàn toàn mới mẻ do đó thành công hay thất bại ở các nước khác không thể là bài học tốt nhất cho ta. Nói như vậy không có nghĩa là bỏ qua kinh nghiệm của các nước đi trước mà nên xem xét ở mức độ tham khảo. Nhìn chung vấn đề nổi cộm hầu hết các nước tiến hành CPH đều gặp phải đó là: - Quan điểm về sở hữu - Hệ thống Pháp luật - Các công việc có tính chất chuyên môn của CPH - Công tác hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện CPH Vì thế , dù CPH một số DNNN là rất cần thiết nhưng không thể nóng vội, lại càng không thể áp đặt những ý muốn chủ quan mà phải kiên trì, từng bước và tạo ra
- các tiền đề cần thiết để tiến trình CPH diễn ra thông suốt. Sự nghiệp CPH các DNNN phải tính đến hàng chục năm chứ không thể làm song trong mấy tháng, mấy năm.
- Phần 2: Doanh nghiệp Nhà nước ở Việt nam và thực trạng Cổ phần hoá 2.1. Tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam. Sớm nhận thức được tầm quan trọng cũng như sự nan giải trong tiến trình thực hiện, chủ trươngCPH một bộ phận DNNN đã được Đảng và Chính phủ đặt ra từ đầu những năm 1990 và chính thức triển khai từ giữa năm 1992 với những văn bản: - Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (tháng 11/1991)đã ghi: “chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích hợp”. - Nghị quyết Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá 7 (tháng1/1994) chỉ rõ CPH nhằm thu hút thêm vốn cho doanh nghiệp. - Nghị quyết Bộ chính trị về tiếp tục đổi mới để phát huy vai trò chỉ đạo của DNNN (số 10 NQ/TW) đã chỉ rõ: tuỳ tính chất loại hình doanh nghiệp mà tiến hành bán một tỷ lệ cổ phần cho cán bộ công nhân viên.... và bán cổ phần cho tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp”. - Thông báo số 63 TB/TWngày 4/4/1991 của Bộ chính trị khẳng định tiếp tục triển khai tích cực và vững chắc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới. - Nghị quyết kỳ họp thứ 10 Quốc hội Khoá VIII ngày 26/12/1991 về nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 1991- 1995 đã ghi: “Thí điểm về việc cổ phần hoá một số cơ sở kinh tế quốc doanh để rút kinh nghiệm và có thêm nguồn vốn phát triển”. Thực hiện Nghị quyết của Đảng và Quốc hội, Chính phủ đã ban hành các văn bản:
- - Quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng chính phủ) về tiếp tục thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. - Quyết định số 203/CT ngày 8/6/1992 chọn 7 DNNN do Chính phủ chỉ đạo thí điểm và giao nhiệm vụ cho mỗi bộ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chọn từ 1 đến 2 doanh nghiệp thí điểm chuyển thành công ty cổ phần. - Chỉ thị số 84/TTg ngày 4/3/1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc xúc tiến thực hiện thí điểm CPH doanh nghiệp nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các DNNN. - Nghị định số 28/CPngày 7/5/1996 của Chính phủ về chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. - Nghị định số 25/CP ngày 26/3/1997 của Chính phủ về sửa đổi một số điều của Nghị định số 28/CP ngày 7/5/1996. - Chỉ thị số 658/TTg ngày 20/8/1997 của Thủ tướng Chính phủ về thúc đẩy triển khai vững chắc CPH doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện Quyết định số 202/CT, các bộ ngành đã hướng dẫn các DNNN đăng ký thực hiện thí điểm chuyển sang công ty cổ phần. Trên cơ sở số lượng DNNN đã đăng ký, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã ra Quyết định số 203/CT ngày 8/6/1992 chọn 7 DNNN do Chính phủ chỉ đạo thí điểm chuyển thành công ty cổ phần; 1. Nhà máy Xà phòng Việt nam (Bộ Công nghiệp). 2. Nhà máy Diêm Thống Nhất (Bộ Công nghiệp). 3. Xí nghiệp nguyên vật liệu chế biến thức ăn gia súc Hà nội (Bộ nông nghiệp). 4. Xí nghiệp chế biến gỗ lạng Long Bình (Bộ Nông nghiệp). 5. Công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng (Bộ Thương mại). 6. Xí nghiệp Dệt da may Legamex (TP HCM). 7. Xí nghiệp sản xuất bao bì (TP HN).
- Sau một htời gian làm thử, 7 DNNN được Chính phủ chọn thí điểm đều xin rút, hoặc không đủ điều kiện để tiến hành CPH như Legamex, Nhà máy Xà phòng Việt nam v.v... Hơn 30 doanh nghiệp đã ký với Bộ Tài chính để thí điểm thực hiện CPH và 3 DNNN xin chuyển thành Công ty trách nhiệm hữu hạn theo chỉ thị số 84/TTg. Sau 4 năm thực hiện Quyết định 202/CT có 5 doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ phần; 1. Công ty Cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển (thuộc Bộ Giao thông). 2. Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh (TP HCM). 3. Công ty cổ phần Giầy Hiệp An ( Bộ Công nghiệp). 4. Công ty Cổ phần Chế biến hàng xuất khẩu Long An (tỉnh Long An). 5. Công ty Chế biến thức ăn gia súc (Bộ Nông nghiệp). Trong đó, doanh nghiệp đi tiên phong trong chủ trương CPH là Công ty Cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển (thuộc Tổng Công ty Hàng hải), tiếp sau là Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh TP HCM. Hai Công ty này đã hoàn thành vịệc CPH và chính thức hoạt động theo hình thức Công ty Cổ phần từ ngày 1/10/1993. Hai DNNN chuyển thành Công ty Trách nhiệm hữu hạn là Công ty dịch vụ Thương mại tổng hợp quận Hồng Bàng (Hải Phòng) và Công ty Gạch Bông Đức Tân (TP HCM). Sau 4 năm thực hiện đã đúc rút được một số kinh nghiệm để bổ sung và sửa đổi chế độ về CPH, ngày 7/5/1996 Chính phủ đã ra Nghị quyết số 28/CP thay cho Nghị quyết số 202/CT với những quy định cụ thể rõ ràng hơn. Thực hiện Nghị định 28/CP công tác CPH đã được quan tâm hơn, các ngành các cấp đã triển khai một số việc sau: - Củng cố tổ chức, bổ sung thành viên vào Ban Chỉ đạo CPH, kiện toàn và thành lập các Ban Chỉ đạo CPH ở địa phương. - Một số bộ, địa phương đã tổ chức hội nghị truyền đạt chủ trương, chính sách về CPH DNNN cho đội ngũ cán bộ chủ chốt như Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Thuỷ sản, Bộ Xây dựng, tỉnh Lâm Đồng, tỉnh Bình Định, tỉnh Quảng Ninh.... Tuy nhiên, còn nhiều địa phương và ngành chưa chú ý đến công tác tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích cho cán bộ, người lao động trong doanh nghiệp hiểu chủ trương
- chính sách của Đảng và Nhà nước. Đây là i trong những nguyên nhân gây chậm chễ trong quá trình triển khai thực hiện CPH doanh nghiệp. Đến đầu năm 1998 có 36 tỉnh, thành phố, bộ, ngành và các Tổng Công ty 91 đã đăng ký hơn 200 doanh nghiệp thực hiện CPH chiếm 3% số DNNN. Từ khi có Nghị định số 28/CP, đã thực hiện CPH được 13 doanh nghiệp, số doanh nghiệp đang tiến hành ở các bước xác định giá trị doanh nghiệp, kiểm toán là 30 doanh nghiệp. Đầu năm 1998 có khoảng18 doanh nghiệp thực hiện CPH chuyển sang hoạt động theo Luật Công ty. Trong số 18 doanh nghiệp có 1 doanh nghiệp Nhà nước không nắm giữ cổ phần là Công ty Đầu tư sản xuất và Thương mại Hà nội (Xí nghiệp Mộc). Còn lại 17 công ty cổ phần, Nhà nước nắm ít nhất 18%, cao nhất là 51% cổ phần Công ty; Cổ đông do người lao động trong công ty chiếm từ 18 - 50%; cổ phần còn lại là do cổ đông ngoài xã hội nắm giữ. Hầu hết các công ty này sau khi chuyển sang Công ty Cổ phần đều kinh doang phát triển, có tiến bộ về mọi mặt, Nhà nước và doanh nghiệp đều có lợi. Sau một thời gian thí điểm và rút kinh nghiệm, tại Thông báo số 63/TB-TU ngày 4/4/1997, Bộ Chính trị đã tổng kết và cho ý kiến chỉ đạo tiếp tục triển khai vững chắc CPH doanh nghiệp nhà nước. Ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP về “Chuyển doanh nghiệp nhà nước thành Công ty Cổ phần, kèm theo phụ lục danh mục các loại doanh nghiệp nhà nước để lựa chọn cổ phần hoá”. Theo phụ lục này chỉ có một số doanh nghiệp đặc biệt Nhà nước chưa CPH và một số doanh nghiệp quan trọng Nhà nước cần nắm cổ phần chi phối, còn lại cơ bản các doanh nghiệp nhà nước khác đều chuyển thành Công ty Cổ phần. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Nghị định số 44/CPlần này có những điểm mới, thông thoáng, với những quy định cụ thể, chặt chẽ sát với thực tế cuộc sống, giải quyể những băn khoăn thắc mắc thường vấp phải của nhiều doanh nghiệp khi tiến hành CPH. Chẳng hạn như: - Về đối tượng huy động vốn cổ phần không chỉ bó khung trong công nhân v iên chức mà theo hướng mở rộng “huy động vốn toàn xã hội”.
- - Về nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp và giá trị thực tế của tài sản doanh nghiệp trước khi tiến hành CPH. Để thực hiện Nghị định 44/CP Bộ Tài chính đã có Thông tư 104/1998/TT-BTC hướng dẫ cách tính toán cụ thể giá trị thực tế của tài sản doanh nghiệp và xác định lợi thế của doanh nghiệp qua tỷ suất lợi nhuận tính trên vốn kinh doanh bình quân 3 năm trước khi CPH (chỉ tính tối đa 30% vào giá trị thực tế của doanh nghiệp). - Về chính sách ưu đãi đối với người lao động khi DNNN chuyển sang Công ty Cổ phần được xác định tương đối cụ thể và thỏa đáng: mỗi năm làm việc người lao động được mua tối đa 10 cổ phần (trị giá 100.000đ/cổ phần) với mức ưu đãi giảm giá 30% (tổng giá trị ưu đãi cho tập thể ngươgi lao động không vượt qúa 20 % tổng giá trị vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Riêng đối với doanh nghiệp nhà nước có vốn tích luỹ trên 40% giá trị doanh nghiệp thì tổng giá trị ưu đãi cho tập thể người lao động không vượt quá 30%). Đối với lao động nghèo trong doanh nghiệp được mua cổ phần ưu đãi giảm giá 30% và trả dần trong 10 năm không phải chịu lãi.... (số cổ phần dành cho người lao động nghèo mua trả dần không được vượt quá 20% tổng số cổ phần Nhà nước bán theo giá ưu đãi). Có thể nói việc giải quyết quyền lợi của người lao động trong DNNN được CPH theo quy định của Nghị định 44/CP là tương đối hợp lý, hợp tình có tác dụng thu hút người lao động tham gia tích cực vào CPH doanh nghiệp nhà nước. 2.2. Những thành tựu đạt được. Tính đến giữa quí III năm 2000, cả nước ta đã có 451 doanh nghiệp nhà nước được CPH, một con số còn ít so với mục tiêu đặt ra. Theo dự kiến của Chính phủ thì cuối năm 2000 sẽ có khoảng 1.000 DNNN chuyển sang hình thức Công ty Cổ phần. Kết quả nghiên cứu, tổng kết thực tiễn ở một số doanh nghiệp điển hình trước và sau khi CPH đã chứng tỏ rằng CPH là một chủ trương đúng. Mục tiêu của chủ trương này là huy động thêm vốn, đổi mới phương thức quản lý để tăng hiệu quả kinh tế, tạo động lực cho sự phát triển, qua đó cơ cấu lại khu vực kinh tế nhà nước, xác định quyền làm chủ thật sự của người lao động trong doanh nghiệp. Đánh giá về thành công của chủ trương này ta hãy xem xét những mục tiêu đạt được:
- - Về huy động vốn: theo tính toán của các nhà kinh tế, trong dân hiện còn một nguồn vốn nhàn rỗi khoảng 8 tỷ $.Cổ phần hóa chính là biện pháp có hiệu quả để huy động nguồn vốn này cho phát triển kinh tế nếu doanh nghiệp hoạt động sản xuất có hiệu quả. Đây không chỉ là nhiệm vụ trước mắt mà còn là một chiến lược lâu dài. Thống kê 451 DNNN cổ phần hoá có giá trị phần lớn vốn nhà nước là 1.649 tỷ đồng qua CPH đã thu thêm được 1.432 tỷ đồng của các cá nhân, pháp nhân thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau đầu tư vào. Đồng thời thông qua việc bán cổ phiếu, Nhà nước đã thu lại 814 tỷ đồng để đầu tư vào các DNNN khác và dùng vào việc giải quyết chính sách cho người lao động trong DNNN thực hiện CPH. Về số tuyệt đối thì đây chưa phải là lớn, nhưng về mặt tỷ lệ thì rất đáng kích lệ. Phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp khi CPH được xác định lại, nhìn chung đều tăng lên từ 10-15% so với giá trị ghi trên sổ sách. Như vậy, khi thực hiện CPH, vốn của nhà nước tại các doanh nghiệp CPH không mất đi mà được tăng lên, hơn nữa còn thu hút thêm được một nguồn vốn nhàn rỗi trong dân. Tuy nhiên, số lượng 451 DNNN cổ phần hóa mới chỉ chiếm 7% tổng số DNNN hiện có. Số vốn nhà nước tại các doanh nghiệp CPH so với tổng số vốn nhà nước tại các DNNN hiện nay chỉ chiếm gần 1%. Điều này cho thấy số lượng doanh nghiệp và số vốn nhà nước CPH còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ, chưa có tác động đáng kể đến việc cơ cấu lại vốn của khu vực DNNN. Ngày 20/7/2000, một trung tâm giao dịch chứng khoán đầu tiên đã được đưa vào hoạt động tại 45-47 Bến Chương Dương-Quận I -TP HCM. Thông qua thị trường chứng khoán, đã có 4 Công ty niêm yết cổ phiếu đều có thể huy động thêm vốn ở trong và ngoài nước thông qua việc phát hành cổ phiếu của mình. Vai trò của thị trường chứng khoán là rất to lớn trong việc huy động vốn dùng trong sản xuất kinh doanh cần được phát triển, nhưng thực tế cho thấy thị trường này ở nước ta từ khi thành lập đến nay luôn ở trong tình trạng cung không đủ cầu. Có quá ít các công ty giao bán cổ phiếu của mình, lý do có thể là hoạt động này còn quá mới mẻ ở nước ta hoặc các công ty sợ rằng bọn đầu cơ cổ phiếu có thể làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mình nên họ không dám mạo hiểm. Điều này đã làm cho hoạt động của thị trường chứng khoán trở nên kém sôi động, không hấp dẫn các nhà đầu tư. Chính vì thế mà vai trò của thị trường chứng khoán
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: Thực trạng công tác hạch toán kế toán tổng hợp tại Xí nghiệp dệt may xuất nhập khẩu và dịch vụ tổng hợp
157 p | 1311 | 851
-
Luận văn: Thực trạng và biện pháp nâng cao công tác thẩm định tín dụng tại Ngân hàng TMCP Á Châu – Chi nhánh An Giang
88 p | 774 | 317
-
Luận văn: Thực trạng rủi ro tín dụng và giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng cùng một số phương hướng phát triển tại NHNo&PTNT trong giai đoạn hiện nay
59 p | 436 | 170
-
Luận văn “Thực trạng và giải pháp phát triển nhà ở đô thị nước ta”
29 p | 421 | 111
-
Luận văn: Thực trạng về công tác quản lý và cung ứng nguyên vật liệu ở Xí nghiệp X55
73 p | 227 | 64
-
Luận văn: Thực trạng và các giải pháp nhằm củng cố và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá của Công ty bia Hà Nội
93 p | 192 | 60
-
Luận văn: Thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo cho công ty cổ phần du lịch An Giang
83 p | 320 | 59
-
Luận văn: Thực trạng và một số giải pháp nhằm củng cố và hoàn thiện ứng dụng CNTT vào nghiệp vụ TTLKB tại kho bạc nhà nước Hà Giang
79 p | 124 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý việc ứng dụng công nghệ thông tin của hiệu trưởng vào dạy học ở bậc tiểu học tại quận 11, TP. Hồ Chí Minh
121 p | 181 | 31
-
Luận Văn Thực trạng và giải pháp huy động vốn đầu tư vào ngành Dầu khí ở
47 p | 168 | 25
-
Luận văn THỰC TRẠNG NHẬP KHẨU HÀNG HÓA TẠI CÔNG TY CUNG ỨNG NHÂN LỰC QUỐC TẾ VÀ THƯƠNG MẠI (SONA)
54 p | 125 | 23
-
Luận văn: Thực trạng của công tác tuyển dụng tại Công ty CP Cơ Điện Lam Sơn - Vũ Kiên Trung
36 p | 89 | 21
-
Luận văn: Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao công tác quản trị nhân sự tại Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng và Thương mại Tuấn Thịnh
75 p | 78 | 18
-
Luận văn: Thực trạng và một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh thực phẩm tại xí nghiệp Khai thác và Cung ứng thực phẩm tổng hợp
97 p | 107 | 17
-
Luận văn : Thực trạng cho vay an toàn và các giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng an toàn kinh tế ngoài quốc doanh ở Ngân hàng Công thương Đống Đa năm 2004 cũng như trong thời gian sắp tới
90 p | 105 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý đội ngũ cán bộ quản lý các trường trung học cơ sở thành phố Phan Thiết
130 p | 103 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Báo chí: Thực trạng và giải pháp xử lý thông tin trong tòa soạn báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay (Khảo sát Vietnam Net, VNEXPRESS, Tuổi trẻ online, Lao động điện tử)
167 p | 29 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn