intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn tiến sĩ Lịch sử: Đảng lãnh đạo đào tạo giảng viên lý luận chính trị cho các trường đại học, cao đẳng từ năm 2001 đến năm 2015

Chia sẻ: Phong Tỉ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:197

55
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án được nghiên cứu với mục tiêu nhằm làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng về đào tạo GV LLCT cho các trường đại học, cao đẳng từ năm 2001 đến năm 2015. Từ đó, đúc kết một số kinh nghiệm vận dụng vào thực tiễn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn tiến sĩ Lịch sử: Đảng lãnh đạo đào tạo giảng viên lý luận chính trị cho các trường đại học, cao đẳng từ năm 2001 đến năm 2015

  1. LỜI CAM ĐOAN   Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên   cứu của riêng tác giả. Các số  liệu, trích dẫn   trong luận án là trung thực, có nguồn gốc,   xuất xứ rõ ràng. Luận án không trung lặp với   các công trình khoa học đã công bố. TÁC GIẢ LUẬN ÁN NCS Nguyễn Thị Hiền
  2. MỤC LỤC Trang MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU 5 Chương 1 TỔNG   QUAN   TÌNH   HÌNH   NGHIÊN   CỨU  CÓ  LIÊN  QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 12 1.1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án 12 1.2. Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã công bố  và những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết 28 Chương 2 CHỦ TRƯƠNG VÀ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ ĐÀO TẠO  GIẢNG   VIÊN   LÝ   LUẬN   CHÍNH   TRỊ   CHO   CÁC  TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG (2001 ­ 2006) 32 2.1. Những yếu tố  tác động đến sự  lãnh đạo của Đảng về  đào tạo giảng viên lý luận chính trị  cho các trường đại   học, cao đẳng (2001 ­ 2006) 32 2.2. Chủ  trương của Đảng về  đào tạo giảng viên lý luận   chính   trị   cho   các   trường   đại   học,   cao   đẳng   (2001   ­   2006) 40 2.3. Đảng chỉ đạo đào tạo giảng viên lý luận chính trị cho các  trường đại học, cao đẳng (2001 ­ 2006) 51 Chương 3 ĐẢNG   LÃNH   ĐẠO  ĐÀO   TẠO   GIẢNG   VIÊN   LÝ  LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC,  CAO ĐẲNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI (2007 ­ 2015) 75 3.1. Tình hình  mới  và chủ   trương  của  Đảng  về   đào tạo  giảng viên lý luận chính trị cho các trường đại học, cao  đẳng (2007 ­ 2015) 75 3.2. Đảng chỉ đạo đào tạo giảng viên lý luận chính trị cho các  trường đại học, cao đẳng trong tình hình mới (2007  ­  2015) 87 Chương 4 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM  113 4.1. Nhận xét sự lãnh đạo của Đảng về đào tạo giảng viên lý  luận chính trị  cho các trường đại học, cao đẳng (2001 ­  2015) 113 4.2. Một số  kinh nghiệm từ  sự  lãnh đạo của Đảng về  đào   tạo giảng viên lý luận chính trị cho các trường đại học,  cao đẳng (2001 ­ 2015) 136 KẾT LUẬN 153
  3. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ  ĐàCÔNG BỐ   CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 155 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 156 PHỤ LỤC 172
  4. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ CHỮ VIẾT TẮT Bộ Giáo dục và Đào tạo BGDĐT Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH Chủ nghĩa xã hội CNXH Giảng viên lý luận chính trị GV LLCT Nhà xuất bản Nxb Trang Tr Xã hội chủ nghĩa XHCN
  5. 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài luận án Thách thức của cuộc đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái, thù  địch, bảo vệ  vững chắc nền tảng tư  tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam  đối với đội ngũ cán bộ lý luận, trong đó, GV LLCT trong các trường đại học,  cao đẳng giữ  vị  trí quan trọng.Sự  chống phá quyết liệt của các thế  lực thù  địch nhằm thực hiện âm mưu, chiến lược “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực  tư tưởng, lý luận hướng tới mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của  Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ nền tảng chủ nghĩa Mác ­ Lênin, tư tưởng   Hồ  Chí Minh, đã đặt ra nhiệm vụ  rất nặng nề đối với cán bộ  tư  tưởng, lý   luận nói chung, GV LLCT trong các trường đại học, cao đẳng nói riêng. Muốn  giữ  gìn, bảo vệ  và phát triển nền tảng tư  tưởng chủ  nghĩa Mác ­ Lênin, tư  tưởng Hồ Chí Minh, trước hết đội ngũ cán bộ lý luận được đào tạo phải có  bản lĩnh chính trị vững vàng, thực sự giỏi về chuyên môn, tinh thông nghiệp  vụ. GV LLCT ở các trường đại học, cao đẳng là một bộ phận trong đội ngũ  cán bộ tư tưởng lý luận. Thông qua vai trò trang bị những kiến thức khoa học  về chủ nghĩa Mác ­ Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của   Đảng, Nhà nước cho sinh viên, góp phần tuyên truyền, bảo vệ và phát triển  nền tảng tư tưởng của Đảng. Do đó, nâng cao chất lượng đào tạo GV LLCT  có ý nghĩa cấp thiết và rất quan trọng. Công tác giáo dục lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng đã  đạt được những kết quả đáng khích lệ, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn   chế nhất định. Ở các trường đại học, cao đẳng, giáo dục lý luận chính trị được   tiến hành một cách đồng thời cùng với giáo dục các khoa chuyên ngành, trau  dồi các tri thức chuyên môn nghề nghiệp cho sinh viên, nhằm góp phần thực  hiện mục tiêu giáo dục là đào tạo ra những cán bộ khoa học trẻ không chỉ giỏi 
  6. 6 về chuyên môn, nghiệp vụ mà còn tốt cả về phẩm chất chính trị, tư tưởng và   đạo đức, đáp  ứng yêu cầu của sự  nghiệp CNH, HĐH đất nước theo định   hướng XHCN. Tuy nhiên, trong thời gian qua, công tác giáo dục lý luận chính   trị  trong các nhà trường đang bộc lộ  những mặt hạn chế. Nội dung, chương   trình lạc hậu, phương pháp giảng dạy theo lối áp đặt, người học tiếp nhận thụ  động, dạy và học theo lối kinh viện, giáo điều, lý luận không gắn với thực  tiễn, thực hành; một bộ phận GV LLCT còn hạn chế về cả kiến thức, kỹ năng  và phương pháp sư phạm; tài liệu, cơ sở vật chất nghèo nàn.  Tại các cơ sở đào  tạo GV LLCT cũng ít nhiều tồn tại tình trạng trên. Điều này, ảnh hưởng rất  lớn đến tình hình giảng dạy cũng như chất lượng giáo dục lý luận chính trị nói  chung, ở các trường đại học, cao đẳng nói riêng. Từ đó, đặt ra yêu cầu vô cùng  bức thiết phải đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị, mà trước hết phải  nâng cao chất lượng đào tạo GV LLCT cho các trường đại học, cao đẳng. Bởi,  đào tạo là một trong những khâu trọng yếu, đột phá tác động trực tiếp đến chất   lượng GV LLCT. Cùng với những thăng trầm của lịch sử, đào tạo GV LLCT đã có những  biến đổi nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác giáo dục lý luận chính trị ở các  trường đại học, cao đẳng qua từng thời kỳ, tuy nhiên, số lượng và chất lượng  đào tạo không phải bao giờ cũng đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn   giáo dục. Các cơ  sở  đào tạo GV LLCT cho các trường đại học, cao đẳng là  không nhiều; công tác đào tạo, quản lý đào tạo GV LLCT còn nhiều mặt lỏng   lẻo, chưa thực sự thống nhất về chương trình nội dung; nhận thức, nhu cầu   xã hội của học sinh phổ thông đối với các chuyên ngành lý luận chính trị còn  hạn chế; chất lượng đầu vào thấp, đầu ra hạn chế về vị trí việc làm. Đó là   những vấn đề cần được quan tâm, trong khi yêu cầu về chất lượng giáo dục  lý luận chính trị trong nhà trường đang đặt ra ngày càng cao và bức thiết.
  7. 7 Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, giải pháp nhằm tăng cường  sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị nói  chung, trong đó có đào tạo GV LLCT. Đó là những chủ trương, quan điểm chỉ  đạo quan trọng nhằm tiếp tục đổi mới đào tạo GV LLCT đáp ứng yêu cầu  nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc  dân. Đặc biệt gần đây nhất, Chỉ  thị  số  23­CT/TW ngày 09/02/2018 của  Ban Bí thư, Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả  học tập,   nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ  nghĩa Mác ­ Lênin, tư  tưởng Hồ   Chí Minh trong tình hình mới nhấn mạnh: Học tập, nghiên cứu, vận dụng  và phát triển chủ  nghĩa Mác ­ Lênin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh đáp  ứng yêu   cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là  nội dung quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng về  mặt tư  tưởng, vừa có vai trò nền tảng, vừa có vị  trí then chốt trong tình hình hiện   nay. Do đó, đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cán bộ tư  tưởng lý luận, có cơ  chế, chế độ phù hợp cho đội ngũ GV LLCT là nhiệm vụ cấp thiết. Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về  đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ GV LLCT các trườ ng đại học, cao đẳng. Tuy  nhiên, các công trình trên chủ  yếu tập trung khai thác phạm vi đào tạo,   bồi   dưỡng   nâng   cao   trình   độ   cho   đội   ngũ   hiện   đang   công   tác   tại   các   trườ ng đại học, cao đẳng. Hiện tại, nghiên cứu dướ i mã chuyên ngành  Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, ch ưa có công trình nào nghiên cứu sự  lãnh đạo của Đảng về  đạo tạo GV LLCT cho các trườ ng đại học, cao   đẳng.  Từ  những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn đề  tài: “Đảng lãnh đạo   đào tạo giảng viên lý luận chính trị  cho các trường đại học, cao đẳng từ  
  8. 8 năm 2001 đến năm 2015” làm luận án tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử  Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Làm sáng tỏ  sự  lãnh đạo của Đảng về  đào tạo GV LLCT cho các  trường đại học, cao đẳng từ năm 2001 đến năm 2015. Từ  đó, đúc kết một   số kinh nghiệm vận dụng vào thực tiễn. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất, tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận   án. Thứ  hai, làm rõ tác động của tình hình thế giới, trong nước đến quá   trình Đảng lãnh đạo đào tạo GV LLCT cho các trường đại học, cao đẳng   (2001 ­ 2015). Thứ ba, phân tích, luận giải chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng về đào   tạo GV LLCT cho các trường đại học, cao đẳng (2001 ­ 2015). Thứ  tư, nhận xét và đúc kết một số  kinh nghiệm từ quá trình Đảng  lãnh  đạo  đào tạo GV LLCT  cho các trường  đại học, cao  đẳng (2001 ­  2015). 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Hoạt động lãnh đạo của Đảng về đào tạo GV LLCT cho các trường   đại học, cao đẳng. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung:
  9. 9 Luận án nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về đào tạo GV  LLCT cho các trường đại học, cao đẳng. Đối tượng đào tạo là sinh viên bậc  đại học hệ chính quy tập trung các chuyên ngành: Triết học Mác ­ Lênin, Kinh   tế chính trị Mác ­ Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Tư tưởng Hồ Chí Minh  và Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ  trương và sự  chỉ  đạo của Đảng đào tạo GV LLCT được tập  trung nghiên cứu trên các mặt: Công tác tuyển sinh; bổ  sung, cập nhật   chương trình, nội dung, tổ  chức quản lý quá trình đào tạo, xây dựng đội  ngũ giảng viên; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy và   học tập; thực hiện tốt chế độ, chính sách nhằm thu hút người học vào học   các chuyên ngành đào tạo GV LLCT. Đào tạo sinh viên các chuyên ngành lý luận chính trị bậc đại học nằm  trong tổng thể chủ trương, chiến lược, sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về  đào tạo đại học. Do đó, bên cạnh việc khai thác những chủ trương, sự chỉ  đạo của Đảng về đào tạo sinh viên chuyên ngành lý luận chính trị, luận án  còn khai thác những chủ  trương, sự  chỉ  đạo của Đảng, Nhà nước về  đào  tạo đại học. Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu khoảng thời gian từ năm 2001 đến năm  2015. Tác giả  chia thành 2 giai đoạn: 2001 ­ 2006 và 2007 ­ 2015. Vì năm   2001 là năm diễn ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Đại hội nhấn   mạnh nhiệm vụ  phát triển đội ngũ giáo viên nói chung, coi trọng chất lượng  và đạo đức sư phạm, cải thiện chế độ đãi ngộ. Năm 2007 là năm ban hành Nghị quyết số 16­NQ/TW ngày 01/8/2007,  Hội nghị  Ban Chấp hành Trung ương lần thứ  năm (khóa X) của Đảng Về 
  10. 10 công tác tư  tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới,   trong đó khẳng  định: Tăng cường đào tạo, đào tạo lại, nâng cao trình độ khoa học, bản lĩnh  chính trị và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy   các bộ môn khoa học Mác ­ Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Năm 2015 là năm thực hiện Kết luận số 94­KL/TW ngày 28/3/2014 của  Ban Bí thư  Về việc tiếp tục đổi mới việc học tập lý luận chính trị  trong hệ   thống giáo dục quốc dân với yêu cầu: Đổi mới mạnh mẽ việc đào tạo, bồi  dưỡng giáo viên lý luận chính trị, bảo đảm sát hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu  cầu tiếp tục đổi mới việc học tập lý luận chính trị  trong hệ  thống giáo dục  quốc dân. Xây dựng cho được đội ngũ giáo viên lý luận chính trị tâm huyết, yêu  nghề, tuyệt đối trung thành, có niềm tin, có kiến thức mới gắn với thực tiễn.   Đây là nhân tố quyết định sự thành công của việc tiếp tục đổi mới học tập lý   luận chính trị trong nhà trường. Bên   cạnh   đó,   để   bảo   đảm   tính   hệ   thống   và   đạt   được   mục   đích  nghiên cứu, luận án có đề  cập một số  nội dung về đào tạo GV LLCT cho   các trường đại học, cao đẳng trước mốc thời gian nói trên. Về không gian: Luận án nghiên cứu thực tiễn đào tạo GV LLCT tại các cơ  sở  đào  tạo trên phạm vi cả nước. Trong đó, chủ  yếu tập trung khảo sát ở  các cơ  sở  đào tạo GV LLCT: Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Đại học Khoa   học Xã hội và Nhân văn ­ Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Khoa học Xã   hội và Nhân văn ­ Đại học Quốc gia thành phố  Hồ  Chí Minh, Đại học Sư  phạm Hà Nội, 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn
  11. 11 Cơ sở lý luận Luận án nghiên cứu dựa trên cơ  sở  lý luận của chủ  nghĩa Mác ­   Lênin, tư  tưởng Hồ Chí Minh về  đào tạo giảng viên nói chung, trong đó  có đào tạo GV LLCT. Cơ sở thực tiễn Luận án được thực hiện trên cơ sở thực tiễn hoạt động lãnh đạo của   Đảng về  đào tạo GV LLCT cho các trường đại học, cao đẳng (2001 ­   2015). Đồng thời, dựa trên số liệu báo cáo tổng kết của Đảng, các cơ quan   Nhà nước, các cơ  sở  đào tạo và kế  thừa kết quả nghiên cứu của các công   trình khoa học có liên quan đã được công bố. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu chủ  yếu: Phương pháp lịch sử  và phương  pháp lôgic, kết hợp nhuần nhuyễn hai phương pháp đó trong toàn bộ  nội  dung luận án. Tuy nhiên, chương 2, chương 3 thiên nhiều về phương pháp  lịch sử, chương 4 thiên nhiều về phương pháp lôgic. Phương pháp phân tích tổng hợp: Làm rõ những chủ trương, chỉ đạo,   nhận xét và kinh nghiệm. đào tạo GV LLCT trong 15 năm qua phân tích 2  giai đoạn: 2001 ­ 2006 và 2007 ­ 2015, trong đó, tác giả  luận án sử  dụng   phương pháp phân tích tổng hợp nhiều hơn ở nội dung viết về nhận xét sự  lãnh đạo của Đảng và kinh nghiệm rút ra. Phương   pháp   so   sánh:   Tác   giả   luận   án   sử   dụng   để   so   sánh   chủ  trương, sự  chỉ   đạo của Đảng và kết quả  (số  liệu) giữa các giai  đoạn:   Trước năm 2001, 2001 ­ 2006, 2007 ­ 2015. 5. Những đóng góp mới của luận án Thứ  nhất, phân tích, luận giải làm rõ chủ  trương và sự  chỉ  đạo của  Đảng về đào tạo GV LLCT cho các trường đại học, cao đẳng từ năm 2001   đến năm 2015.
  12. 12 Thứ  hai, đánh giá  ưu điểm, hạn chế, tìm ra nguyên nhân của những  ưu điểm hạn chế đó trong quá trình Đảng lãnh đạo đào tạo GV LLCT cho   các trường đại học, cao đẳng từ năm 2001 đến năm 2015. Thứ ba, đúc kết một số kinh nghiệm có giá trị, cung cấp luận cứ cho  Đảng tham khảo hoạch định chủ trương và chỉ  đạo đào tạo GV LLCT cho   các trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu luận án góp phần cung cấp cơ  sở  khoa học cho  đổi mới và tăng cường sự  lãnh đạo của Đảng về  đào tạo GV LLCT trong  tình hình mới. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả  nghiên cứu của luận án làm tài liệu tham khảo cho việc  hoạch định chủ  trương, sự  chỉ  đạo về  đào tạo GV LLCT cho các trường  đại học, cao đẳng trong các năm tiếp theo. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở  đầu, kết luận, danh mục các công trình của tác giả  đã công bố có liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và  phụ lục, luận án được kết cấu gồm 4 chương, 9 tiết.
  13. 13 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN  ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án 1.1.1.  Các công trình của tác giả  nước ngoài nghiên cứu có liên   quan đến đề tài luận án Trong quá trình xây dựng CNXH ở LiênXô và một số nước Đông Âu,   cũng như các nước khác trên thế giới, đã có nhiều công trình nghiên cứu về  phương pháp và nội dung giáo dục tư  tưởng, một số  đã được dịch ra tiếng  Việt. Cuốn sách Nghệ  thuật diễn giảng (1976) [135] đã khẳng định: Một  trong những hình thức quan trọng và thích hợp nhất để phổ biến kiến thức  chính trị, khoa học là bài giảng. Theo E.Phancôvích, những bài giảng được  chuẩn bị  cẩn thận và truyền đạt tốt sẽ  giúp cho người nghe có thêm kiến   thức mới trong từng lĩnh vực, biết tư  duy sâu rộng và hiểu rõ hơn những  hiện tượng phức tạp của tự nhiên và xã hội. Giảng viên cần phải lao động   miệt mài, sáng tạo để đạt được kỹ năng diễn giảng. Muốn như vậy, giảng   viên cần phải được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên. X.G.Lucônhin   và   V.V.Xêrêbriannicốp   (Chủ   biên,   1981),  Phương   pháp giảng dạy các môn khoa học xã hội  [123]. Công trình đã tổng kết  những kinh nghiệm giảng dạy khoa học xã hội ở các trường cao đẳng quân   sự, sự vận dụng những phương pháp và hình thức tiên tiến trong giảng dạy   khoa học xã hội, nhằm phổ biến kinh nghiệm giảng dạy cho tất cả giảng   viên, đặc biệt là đối với những giảng viên mới bước vào môi trường sư  phạm. Với họ, sự trưởng thành về nhân cách phụ thuộc vào sự tham gia các  hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
  14. 14 Khi nghiên cứu về  cơ  sở  của hoạt động tuyên truyền tư  tưởng của   đảng cộng sản, các nhà khoa học đã đi sâu phân tích làm rõ các đặc điểm và  những yêu cầu dưới góc độ  tâm lý học, giáo dục học đối với hoạt động  này. Nhà giáo dục Xôviết nổi tiếng V.A.Cruchetxki (1981),   Những cơ  sở   tâm lý học [72], khẳng định: Nhiệm vụ quan trọng nhất của giáo dục cộng   sản chủ nghĩa là hình thành ở thế hệ trẻ niềm tin và tình cảm cộng sản chủ  nghĩa vững chắc và hành vi đạo đức dựa trên cơ  sở niềm tin vào tình cảm   đó. Chỉ  có thể giải quyết được nhiệm vụ  đó bằng cách dựa trên những tri  thức về  quy luật tâm lý của sự  hình thành nhân cách tích cực và có mục   đích, về  những quy luật phát triển đạo đức của nó cũng như  sự  hiểu biết   đầy đủ những đặc điểm cá nhân. Nhà giáo dục Xôviết M.I.Calinin (1983), Về  giáo dục cộng sản chủ   nghĩa [66] đã nhấn mạnh một trong những phương pháp giáo dục tư  tưởng   quan trọng là sử  dụng và phát huy hiệu quả  vai trò của giáo dục đối với ý   thức con người. Theo M.I.Calinin, giáo dục và bồi dưỡng những phẩm chất  cao quý đó là một yếu tố hết sức quan trọng trong sự nghiệp giáo dục cộng  sản. M.I.Calinin cũng đã khẳng định: Cần phải đến với từng người, đánh giá  họ, làm nổi bật những mặt tốt của họ bởi vì không thể chỉ giáo dục dựa trên   mặt tiêu cực. Như  vậy, muốn nâng cao hiệu quả  của công tác giáo dục tư tưởng,  phải đảm bảo đầy đủ các điều kiện cơ bản: Có sự am hiểu sâu sắc đặc điểm   tâm lý của đối tượng, phải khêu gợi được tính tích cực, tự giác của đối tượng  và bản thân chủ  thể  làm công tác giáo dục tư  tưởng phải có trình độ, năng   lực, phương pháp luận khoa học và phẩm chất đạo đức trong sáng. Điều này  chỉ có được thông qua quá trình đào tạo và tự đào tạo. Frederich K.S.Leung (2007), “Đào tạo giáo viên  ở  vùng Đông Á”, 
  15. 15 Chuyên san Giáo dục quốc tế  [105].  Công trình tập trung nghiên cứu về  những vấn đề  liên quan đến đào tạo giáo viên vùng Đông Á bao gồm xu  hướng đại học hóa toàn bộ  giáo viên các cấp, chương trình đào tạo giáo  viên, vấn đề  bồi dưỡng nghiệp vụ  cho giáo viên. Việc xây dựng một lý  thuyết Đông Á về đào tạo giáo viên trên cơ sở nhìn lại truyền thống lịch sử  về đào tạo giáo viên và những giá trị  văn hóa tiềm ẩn của vùng Đông Á là   rất cần thiết. Masahairo Arimoto (2007), “Các trường sư phạm ở Nhật trước ngã ba  đường ­ Những thử  thách và cơ  hội trong thế  kỷ  XXI”, Chuyên san Giáo  dục quốc tế [128]. Tác giả đưa ra các nghiên cứu chi tiết về hệ thống các  trường đại học, cao đẳng và học viện đào tạo giáo viên  ở  Nhật Bản, bối  cảnh lịch sử của các trường sư phạm; những khác biệt chính giữa đại học  sư phạm và các đại học đa ngành, đồng thời nêu rõ những điểm mạnh cũng  như những vấn đề vướng mắc của hệ thống này. David G.IMIG ­ Hiệp  hội các  trường  ĐH, CĐ Sư  phạm Hoa Kỳ  (2011), Hiện trạng giáo dục sư  phạm trong thế  kỷ  XXI  ở  nước Mỹ  [73].  Tác giả đã tập trung phân tích những nhân tố luật pháp và chính trị tác động  đến đào tạo giáo viên và hoạt động của các trường sư  phạm  ở  Mỹ. Theo  đó, chương trình đào tạo giáo viên theo kiểu truyền thống cần được xem  xét lại. Những nhân tố  gây  ảnh hưởng tới việc đào tạo giáo viên vẫn còn  chưa được xác định thật rõ và vẫn còn nhiều tranh luận xung quanh hiệu  quả của những phương thức đào tạo khác nhau như xây dựng chương trình  bốn năm hay là năm năm học và những cách tiếp cận khác nhau như  lấy  học sinh làm trung tâm hay lấy thầy giáo làm trung tâm. Chương trình đào  tạo hiện nay đã thất bại trong việc tạo ra một đội ngũ giáo viên có đủ năng 
  16. 16 lực vượt qua những thử thách và yêu cầu ngày càng cao của nghề giáo để  đáp ứng nhu cầu của nhà trường hiện đại. Các công trình trên đều nhấn mạnh vai trò của người giảng viên  trong quá trình đào tạo. Tất cả  những kỹ  năng, nhân cách, tri thức của  giảng viên đều được hình thành thông qua đào tạo, bồi dưỡng. Để đáp ứng   nhu cầu của xã hội thì chương trình đào tạo giảng viên  ở  mỗi giai đoạn  cần có sự  thay đổi. Các công trình đề  cao tính thích  ứng của chương trình  đào tạo với thực trạng và nhu cầu giáo dục, đào tạo. 1.1.2.  Các công trình của tác giả  trong nước nghiên cứu có liên   quan đến đề tài luận án ­ Nhóm công trình nghiên cứu về  đào tạo, bồi dưỡng giảng viên,   Đảng lãnh đạo đào tạo, bồi dưỡng giảng viên các trường đại học, cao   đẳng. Đại học Sư phạm ­ Đại học Quốc gia Hà Nội (1996), Nâng cao chất   lượng đào tạo giáo viên phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa ­ hiện đại hóa   đất nước, Kỷ yếu hội thảo khoa học [ 85], các nhà khoa học đã đề cập đến  nhiều vấn đề  khác nhau liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc nâng  cao chất lượng giáo viên và vai trò của trường sư  phạm trong thực hiện   nhiệm vụ này. Các ý kiến tham luận thống nhất cho rằng: Chất lượng giáo  dục phụ thuộc chặt chẽ vào chất lượng đào tạo giáo viên, sự nghiệp CNH,  HĐH đất nước đang đặt ra những yêu cầu mới đối với công tác đào tạo  giáo viên tại các trường sư  phạm ­ với tư  cách là đòn bẩy để  tạo nên sự  đổi mới của cả  hệ thống giáo dục. Những giải pháp được đưa ra tại Hội  thảo tập trung vào chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo giáo  viên, coi đây là những khâu đột phá nhằm thiết thực đổi mới quá trình đào  tạo giáo viên để đáp ứng những biến đổi về kinh tế, xã hội đất nước.
  17. 17 Cuốn sách Trí thức Giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công   nghiệp hóa, hiện đại hóa của Nguyễn Văn Sơn (2002) [145]. Theo tác giả, đội  ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam có một số  đặc điểm cơ  bản: Là lực   lượng trực tiếp tham gia vào quá trình đào tạo ở bậc cao nhất trong hệ thống  giáo dục quốc dân; đối tượng tác động chủ yếu của người trí thức giáo dục đại  học là những sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh; mục đích lao động  là nhằm đào tạo ra những người lao động sáng tạo, có phẩm chất đạo đức tốt;  trí thức giáo dục đại học vừa là nhà giáo vừa là nhà khoa học, nhà chính trị. Từ  việc đánh giá thực trạng về cơ cấu, chất lượng của trí thức giáo dục đại học, tác   giả đưa ra phương hướng, giải pháp cơ bản để phát triển đội ngũ trí thức giáo   dục đại học đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình CNH,   HĐH đất nước. Đặng Quốc Bảo, Nguyễn  Đắc Hưng (2004),  Giáo dục Việt Nam   hướng tới tương lai ­ Vấn đề và giải pháp [22]. Theo các tác giả, một trong  các giải pháp phát triển giáo dục trong những năm tới là phải củng cố, phát  triển đội ngũ nhà giáo. Việc đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà   giáo là khâu đột phá có ý nghĩa quyết định. Cần coi trọng việc bồi dưỡng   năng lực, cải tiến phương pháp giảng dạy cho nhà giáo để  thích ứng, phù  hợp với đặc điểm mỗi địa phương và giáo dục lòng yêu người, yêu nghề  cho nhà giáo. Cuốn sách Giáo dục đại học ­ Quan điểm và giải pháp của Lê Đức  Ngọc (2005) [133] khi đề  cập đến vấn đề  đổi mới công tác giáo viên để  nâng cao chất lượng đào tạo trong các trường đại học và cao đẳng, đã cho  rằng: Có hai lý do chính làm cho vấn đề  đội ngũ nhà giáo trở  thành mối  quan tâm hàng đầu của nhà trường ĐH.  Thứ  nhất, trình đội của đội ngũ  quyết   định   chất   lượng   và   khả   năng   của   một   trường   trong   nghiên   cứu,  giảng dạy và phục vụ  xã hội trong nền kinh tế hàng hóa. Thứ  hai, chi phí 
  18. 18 lương và phụ  cấp cho đội ngũ này là khoản chi lớn nhất của mỗi trường  đại học, nó gắn liền với vấn đề  chất lượng, hiệu quả  và hiệu suất đào  tạo. Từ  đó, tác giả  đề  nghị: Cần có một tổ  chức để  thực hiện việc bồi   dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên. Nguyễn Thị  Thu Hương (2012), “Xây dựng đội ngũ giảng viên trong  trường đại học ­ Thực trạng và giải pháp”, bài viết đăng trên  Tạp chí Khoa   học, Đại học Quốc gia Hà Nội [118]. Từ việc đánh giá thực trạng đội ngũ và   công tác quản lý đội ngũ giảng viên trong trường đại học, tác giả đã đề xuất   những giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ giảng viên trong các trường đại học ở  Việt Nam. Một trong những giải pháp mà tác giả  đưa ra đó là đào tạo giảng  viên cho các trường đại học. Giáo dục Việt Nam chuyển từ  đào tạo theo   “cung” (đào tạo những gì cơ  sở  đào tạo có, giảng viên có) sang đào tạo theo  “cầu” (đào tạo theo nhu cầu của khách hàng); củng cố hệ thống cơ sở đào tạo,   bồi dưỡng. Cần có một kênh riêng để đào tạo, bồi dưỡng; phát triển đội ngũ   giảng viên đủ  về số lượng, có bề  dày kinh nghiệm quản lý và công tác thực   tiễn và có nghiệp vụ sư phạm. Cuốn sách Tư  tưởng Hồ  Chí Minh về  người thầy và việc xây dựng   đội ngũ giảng viên đại học hiện nay của tác giả Ngô Văn Hà (2013) [106].  Trên cơ  sở  phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về  người thầy giáo,   tác giả  đã nêu lên một số  luận đề  về  đặc điểm lao động của giảng viên;  công tác giảng dạy là loại lao động đặc thù; “người giảng viên đại học   phải kết hợp trong bản thân mình những phẩm chất năng lực của một nhà  khoa học và một nhà giáo dục ­ dạy học; nhiệm vụ của họ không chỉ là đào  tạo nhân lực có trình độ  cao cho đất nước mà còn là chỗ  dựa về  khoa học  cho các viện nghiên cứu và các cơ sở sản xuất kinh doanh”. Đạo đức cách  mạng của người giảng viên là sự  say mê với công việc giảng dạy, nghiên  cứu, trung thực trong khoa học, tìm tòi sáng tạo, có khát vọng chinh phục 
  19. 19 đỉnh cao của trí thức. Luận án tiến sĩ Triết học, Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức   giáo dục đại học Việt Nam hiện nay của Trần Thị Lan (2014) [121]. Tác giả  quan niệm, trí thức giáo dục đại học Việt Nam là một lực lượng xã hội hay  một nhóm xã hội ­ nghề nghiệp đặc thù, tiêu biểu của trí thức, là chủ thể của  lĩnh vực giáo dục đại học, có nhiệm vụ giảng dạy; nghiên cứu khoa học, ứng   dụng, chuyển giao công nghệ, tổ  chức, quản lý hoạt động sư  phạm nhằm  nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao và phát triển nhân tài  cho đất nước. Đánh giá thực trạng chất lượng lao động của đội ngũ trí thức   giáo dục đại học Việt Nam và những vấn đề đặt ra; đề xuất một số giải pháp  chủ  yếu nhằm nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục   đại học Việt Nam đáp  ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế  tri   thức và đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Trong đó, không thể không kể đến   giải pháp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ này. Luận án tiến sĩ Khoa học giáo dục,  Phát triển đội ngũ giảng viên   Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế   của Nguyễn Văn Lượng (2015) [124]. Luận án tập trung khảo sát, nghiên  cứu thực trạng và đề  xuất giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng  viên tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Phần thực trạng, tác giả  đã đi sâu phân tích nội dung, hình thức, chương trình đào tạo, bồi dưỡng   giảng viên trong đó có đề cập đến các hệ đào tạo và các khóa bồi dưỡng.   Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện chuẩn hóa đội ngũ giảng viên, nâng  cao năng lực hội nhập quốc tế là một trong những giải pháp mà tác giả đã  đề xuất. Tác giả cho rằng đây là giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của   giảng viên cả về năng lực chuyên môn lẫn kiến thức, nghiệp vụ sư phạm,   đáp  ứng khung năng lực của giảng viên. Vì vậy, để  thực hiện hiệu quả  giải pháp nêu trên cần đổi mới các yếu tố  cấu thành quá trình đào tạo, đề  ra cách thức thực hiện và điều kiện để thực hiện biện pháp đó. Tuy nhiên,  
  20. 20 do phạm vi nghiên cứu của đề  tài là phát triển đội ngũ giảng viên tại hệ  thống của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trên địa bàn thủ đô Hà  Nội nên tác giả  chưa khái quát được công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ  giảng viên ở tầm vĩ mô. Gần đây nhất, luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản   Việt Nam, Đảng bộ Công an Trung ương lãnh đạo xây dựng đội ngũ giảng   viên các học viện, trường đại học Công an nhân dân từ năm 2001 đến năm   2010  của Nguyễn Thị  Thu Trang (2017), đã khảo sát thực trạng, làm rõ  những yếu tố tác động đến công tác xây dựng đội ngũ giảng viên trong các  học viện, trường Công an nhân dân. Bên cạnh đó, luận án phân tích, làm rõ   chủ trương của Trung ương Đảng, Đảng ủy Công an Trung ương, lãnh đạo  Bộ Công an về xây dựng đội ngũ giảng viên các học viện, trường Công an   nhân dân từ  năm 2001 đến năm 2010. Những chủ  trương, sự  chỉ  đạo của  Trung ương Đảng về xây dựng đội ngũ giảng viên sẽ được kế thừa và khai  thác, phân tích, làm rõ hơn, phù hợp với nội dung nghiên cứu của nghiên  cứu sinh. Ngoài những công trình nêu trên, có thể  kể  đến một số  bài nghiên  cứu của các học giả  đăng trên tạp chí, kỷ  yếu hội thảo, tiêu biểu như:  Nguyễn Văn Duệ (1997), “Đội ngũ cán bộ giảng dạy đại học ­ thực trạng   và kiến nghị”, Tạp chí Kinh tế  và Phát triển, (11) [75]; Nguyễn Duy Yên  (2004), “Đổi mới giáo dục trước hết phải đổi mới từ  những người làm  giáo dục”,  Tạp chí Khoa giáo, (10) [179]; Đinh Thị  Minh Tuyết (2010),  “Xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên đại học”,   Tạp chí Giáo dục,  (250) [173]. Nhìn chung, các tác giả  nêu trên đều có chung quan điểm khi  xem nhà giáo  ở bậc đại học là lực lượng nòng cốt xây dựng cho sinh viên   thế  giới quan, nhân sinh quan tiến bộ, trang bị tri thức và phương pháp tư  duy khoa học, khả năng làm việc độc lập, sáng tạo cho người học. Các tác 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2