intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn tiến sĩ Triết học: Vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện thời của nó đối với Việt Nam

Chia sẻ: Phong Tỉ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:162

85
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm phân tích cách đặt vấn đề của John Locke về nhà nước, làm rõ những nội dung cơ bản, giá trị và hạn chế của vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng của John Locke, Luận án kế thừa một cách có chọn lọc giá trị thực tiễn của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn tiến sĩ Triết học: Vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện thời của nó đối với Việt Nam

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGÔ KHẮC SƠN VẤN ĐỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN TRONG TƯ TƯỞNG JOHN LOCKE VÀ Ý NGHĨA HIỆN THỜI CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ HÀ NỘI - 2018
  2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGÔ KHẮC SƠN VẤN ĐỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN TRONG TƯ TƯỞNG JOHN LOCKE VÀ Ý NGHĨA HIỆN THỜI CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ Mã số: 62 22 03 02 Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS Nguyễn Minh Hoàn HÀ NỘI - 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Ngô Khắc Sơn
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ....... 8 1.1. Những công trình nghiên cứu về John Locke, vấn đề nhà nước và nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và các nhà tư tưởng liên quan đến tư tưởng của John Locke........................................ 8 1.2. Những công trình nghiên cứu về nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền Việt Nam ........................................................................... 13 Chương 2: ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG CỦA JOHN LOCKE VÀ NHỮNG KIẾN GIẢI CỦA ÔNG VỀ VẤN ĐỀ NHÀ NƯỚC ................. 32 2.1. John Locke và những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành tư tưởng của ông .................................................................................................. 32 2.2. Triết học John Locke và những kiến giải của ông về nguồn gốc, chức năng của nhà nước........................................................................ 46 Chương 3: VẤN ĐỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN TRONG TƯ TƯỞNG CỦA JOHN LOCKE .. 63 3.1. Quan niệm về nhà nước pháp quyền ...................................................... 63 3.2. Nội dung vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng của John Locke.......68 3.3. Ý nghĩa của vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng của John Locke . 97 Chương 4: Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN TRONG TƯ TƯỞNG JOHN LOCKE ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY ............... 102 4.1. Quá trình đổi mới nhận thức và kiến tạo nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước ta ................................................... 102 4.2. Kế thừa vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng của John Locke trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay .............................................................................. 109 KẾT LUẬN ........................................................................................................... 143 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ............................................................................................. 147 TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................... 148
  5. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Lịch sử xã hội loài người từ trước đến nay trải qua nhiều hình thức nhà nước khác nhau. Do yếu tố lịch sử - xã hội quy định, mỗi hình thức nhà nước đều có vai trò lịch sử nhất định. Ngày nay, có thể khẳng định rằng, sự tồn tại của nhà nước là tối cần thiết. Nhưng, quan trọng và cần thiết hơn là hiệu lực, hiệu quả mà nó mang lại cho xã hội. Và, để thực hiện được điều đó, không gì khác hơn, nhà nước phải thực thi tính pháp quyền của nó một cách đầy đủ để chống lại sự lạm quyền và tùy tiện trong quản lý, điều hành mọi hoạt động của bộ máy nhà nước. Đó chính là tư tưởng cốt lõi của lý luận về nhà nước pháp quyền. Cho đến nay, có thể khẳng định rằng, xét ở hình thức cai trị thì nhà nước pháp quyền là mô hình tổ chức nhà nước tiến bộ nhất trong lịch sử. So với lịch sử lâu dài của hình thức nhà nước thần quyền và vương quyền, mô hình nhà nước pháp quyền xuất hiện chỉ hơn 200 năm. Hiện nay, trên thế giới chưa nhiều nước tổ chức theo mô hình nhà nước pháp quyền, nhưng xét về xu thế dân chủ đang được rộng mở, thế giới đang phấn đấu cho một nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, ngay cả những nước có nền dân chủ lâu đời, khai sinh ra mô hình nhà nước pháp quyền thì vẫn không đóng khung cho mình một mô hình gọi là lý tưởng, mà luôn tìm con đường, biện pháp, hướng đi phù hợp với xu thế phát triển mới của thời đại. Nói thế để thấy rằng, mô hình nhà nước pháp quyền không phải là cái có sẵn và rập khuôn, mỗi quốc gia - dân tộc tùy thuộc vào lịch sử của mình, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội mà xác lập cho mình một mô hình thích hợp và khả dụng nhất có thể. Ở Việt Nam, trước bài phát biểu của Tổng Bí thư Đỗ Mười tại Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII (29.11.1991), về mặt ngôn từ, trong các văn bản có tính quyết sách chính trị ở nước ta, thuật ngữ “nhà nước
  6. 2 pháp quyền” chưa được sử dụng, nhưng tư tưởng về nhà nước pháp quyền có thể thấy trong các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1992. Đến Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Hiến pháp năm 2013 thì thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” đã được sử dụng và tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã được khẳng định trong nhiều chương, điều. Trước Đại hội lần thứ VII, trong các Văn kiện và trong ngôn ngữ chính trị thường ngày, khi nói đến chế độ chính trị, chế độ nhà nước ở Việt Nam, thuật ngữ “chuyên chính vô sản” thường được sử dụng với dụng ý phân biệt nhà nước xã hội chủ nghĩa với nhà nước “dân chủ tư sản” ở các nước tư bản chủ nghĩa... Cách hiểu, cách làm này dẫn đến hiện tượng, trong thực tế, chủ thể cầm quyền thường nhấn mạnh chuyên chính mà “quên đi” dân chủ; nhấn mạnh mặt bản chất giai cấp mà chưa chú tâm đến mặt bản chất xã hội của nhà nước - cụ thể ở đây là yếu tố dân chủ và pháp luật trong quá trình vận hành quyền lực nhà nước. Đến Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII, năm 1994), thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” chính thức được sử dụng trong văn kiện của Đảng với việc khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [30, tr.224]. Đây là lần đầu tiên những nội dung, nguyên tắc, nhiệm vụ của nhà nước pháp quyền Việt Nam được đề cập một cách chính thức trong các Văn kiện của Đảng. Nó thể hiện một nhận thức mới mẻ hơn về những vấn đề lý luận trước đây bị cho là “nhạy cảm”, trong đó có việc tranh cãi “có hay không nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ?”. Điều này cũng phù hợp với xu thế đổi mới lúc đó, trong đó tiên phong là đổi mới tư duy lý luận, đưa lý luận gắn với thực tiễn và nhờ đó đã góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (Bổ sung, phát triển năm 2011) nêu ra trong Đại hội lần thứ XI, đã khẳng
  7. 3 định: xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội “có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo” [381, tr.70]. Đây là một trong hai đặc trưng mới thêm vào 6 đặc trưng của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nêu ra trong Đại hội lần thứ VII. Cũng với ý nghĩa đó, Đảng ta xác định “xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” là một trong những phương hướng chủ yếu xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó thể hiện một bước tiến mới của quá trình nhận thức về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng là quyết tâm xây dựng nhà nước pháp quyền của Đảng, Nhà nước ta. Như vậy, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được hiến định và đã được Đảng ta xác lập trong các văn kiện của Đảng (thể hiện đậm nét nhất trong hai Cương lĩnh xác lập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội - văn bản có tính tuyên ngôn chính trị của Đảng). Từ đây nó trở thành một công cụ hữu hiệu, là “cây gậy” định hướng quá trình đổi mới chính trị và đổi mới mọi mặt đời sống xã hội ở Việt Nam. Từ nhận thức trên có thể khẳng định rằng: vấn đề nhà nước pháp quyền trong lịch sử và việc vận dụng tư tưởng nhà nước pháp quyền của một nhà tư tưởng cụ thể nào vào việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở các quốc gia - dân tộc luôn là vấn đề lớn, mang tính lịch sử - xã hội. Định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền nước ta được Đảng ta khẳng định là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; nhà nước pháp quyền Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Thế nhưng, để xây dựng và từng bước hoàn thiện mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì chúng ta không chỉ dựa hoàn toàn vào cách tiếp cận mác-xít mà phải biết kế thừa những giá trị tư tưởng nhân loại. Trong đó, nổi lên tư tưởng về nhà nước
  8. 4 pháp quyền của John Locke - nhà triết học chính trị vĩ đại không chỉ của châu Âu mà cả thế giới. John Locke được xem là người khơi nguồn tri thức cho phong trào Khai sáng. Trong hệ thống tư tưởng triết học chính trị của ông, tư tưởng về nhà nước pháp quyền là nổi bật nhất. Tầm mức lớn lao và ảnh hưởng sâu rộng của vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng của John Locke đã thôi thúc nhiều nhà nghiên cứu ở nhiều thế hệ trên thế giới khai thác và tìm cách luận giải để vận dụng trong quá trình tạo lập nhà nước hợp lý, có hiệu quả. Đề tài Luận án tôi nghiên cứu: “Vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện thời của nó đối với Việt Nam” hy vọng sẽ góp một phần vào sự tìm kiếm và thể nghiệm chung đó. 2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích cách đặt vấn đề của John Locke về nhà nước, làm rõ những nội dung cơ bản, giá trị và hạn chế của vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng của John Locke, Luận án kế thừa một cách có chọn lọc giá trị thực tiễn của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ của đề tài Thứ nhất, chỉ rõ các điều kiện, tiền đề hình thành tư tưởng của John Locke về vấn đề nhà nước. Bên cạnh đó chỉ ra mối liên hệ nội tại của hệ thống triết học của John Locke và tác động của nó đến việc hình thành quan điểm của John Locke về vấn đề nhà nước. Thứ hai, xác định những nội dung của vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng của John Locke, từ đó chỉ ra ý nghĩa của vấn đề nhà nước pháp quyền trong hệ thống tư tưởng của John Locke. Thứ ba, chỉ ra những giá trị thực tiễn của vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng của John Locke cần vận dụng trong quá trình xây dựng và từng
  9. 5 bước hoàn thiện các thiết chế chính trị của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta hiện nay. 3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 3.1. Cơ sở lý luận của Luận án Luận án dựa trên cơ sở lý luận về nhà nước của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta, đặc biệt là những những thành tựu lý luận trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam liên quan đến vấn đề nhà nước pháp quyền. 3.2. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Kết hợp phương pháp nghiên cứu lịch sử triết học với các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử như: lôgic - lịch sử, so sánh - đối chiếu, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa, văn bản học... 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án lấy vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng của John Locke làm đối tượng nghiên cứu, chủ yếu tập trung vào 4 vấn đề cơ bản là: tư tưởng quyền lực thuộc về nhân dân, tính thượng tôn pháp luật, tư tưởng phân chia quyền lực, vấn đề quyền con người, quyền công dân. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Luận án chủ yếu dựa vào tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền – Chính quyền dân sự” John Locke viết năm 1689, do Lê Tuấn Huy dịch sang tiếng Việt, Nhà xuất bản Tri thức xuất bản năm 2007. (Tác phẩm “Khảo luận thứ nhất về chính quyền” chưa được dịch sang tiếng Việt, nó được in chung trong “Two Treatises of Government: In The Former the False Principles and Foundation of Sir Robert Filmer and His Followers, are Detected and Overthrown. The Latter is An Essay Concerning the True Original Extent and End of Civil Government” London: Awnsham
  10. 6 and John Churchill. 1698. Trong “Khảo luận thứ nhất về chính quyền” Locke chủ yếu phê phán cách thức bảo vệ chủ nghĩa chuyên chế vương quyền trên quan điểm “thần trị” của Sir Robert Filmer (1588 - 1653) qua tác phẩm “Nền gia trưởng, hay là quyền lực tự nhiên của vua chúa” (Patriacha, or the natural power of Kings) xuất bản năm 1680. Tác phẩm này (theo dịch giả Lê Tuấn Huy) chưa luận bàn nhiều đến chính quyền dân sự). - Phạm vi thời gian và không gian nghiên cứu: quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ năm 1991 đến nay. 5. Đóng góp của Luận án Luận án đi sâu phân tích một cách có hệ thống những nội dung cơ bản cấu thành vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng của John Locke. Chỉ ra những giá trị, hạn chế của từng nội dung. Luận án kế thừa những giá trị cốt lõi, hạt nhân hợp lý trong quan niệm của John Locke về vấn đề nhà nước pháp quyền – những điểm tương đồng với quan niệm mác-xít để vận dụng trong quá trình xây dựng và từng bước hoàn chỉnh mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 6. Ý nghĩa của Luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu và có tính hệ thống vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng của John Locke, bổ sung, làm phong phú thêm lý luận về nhà nước pháp quyền nói chung và rút ra ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận án là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên sau đại học, những nhà nghiên cứu quan tâm đến triết học phương Tây nói chung, triết học chính trị nói riêng và những ai nghiên cứu về mô hình nhà nước pháp quyền trên thế giới và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
  11. 7 Luận án cũng có thể là tư liệu tham khảo cho những nhà hoạch định đường lối, nhà lãnh đạo trong việc tìm kiếm, thể nghiệm con đường, biện pháp xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay. 7. Bố cục của Luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục Tài liệu tham khảo, nội dung của Luận án được kết cấu làm 4 chương, 9 tiết.
  12. 8 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ JOHN LOCKE, VẤN ĐỀ NHÀ NƯỚC VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN TRONG TƯ TƯỞNG JOHN LOCKE VÀ CÁC NHÀ TƯ TƯỞNG LIÊN QUAN ĐẾN TƯ TƯỞNG CỦA JOHN LOCKE Samuel Enoch Stump & Donald C. Abel trong Nhập môn triết học phương Tây [77] đã giới thiệu dưới dạng bài đọc một cách khái lược chương II, chương VII, chương IX tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền của John Locke. Mặc dù trình bày hết sức sơ lược trong 4 trang nhưng Bài đọc này đã khái quát được logic của tác phẩm, qua việc bắt đầu lịch sử xã hội từ trạng thái tự nhiên, đến việc giải thích vì sao con người cần phải tham gia vào xã hội chính trị qua việc ký kết với nhau bản khế ước để ủy quyền cho nhà nước thay mình thực thi và bảo vệ các quyền tự nhiên của mình, đồng thời chỉ ra mục đích của xã hội chính trị và chính quyền là để bảo vệ “mạng sống, quyền tự do và tài sản” của các công dân trong nhà nước. Logic trình bày của tác giả đã giúp tôi hệ thống hóa được những vấn đề cốt lõi trong tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền của John Locke, nhất là trong tìm hiểu và luận giải về nguồn gốc và bản chất của nhà nước. Lê Tuấn Huy trong Triết học chính trị Montesquieu với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam [51] đã chỉ ra những đóng góp của Montesquieu về tinh thần pháp quyền và những nguyên tắc để thực thi nó. Nội dung tư tưởng của Montesquieu có những điểm thống nhất với John Locke, có những điểm bổ sung, hoàn thiện tư tưởng của John Locke, cũng có những điểm chưa vượt qua quan niệm của John Locke về pháp quyền. Tuy nhiên, quan trọng hơn, những tư tưởng ấy của nhà tư tưởng vĩ đại
  13. 9 Montesquieu cùng với John Locke là những gợi mở tuyệt vời có thể kế thừa trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nguyễn Thị Hồi trong Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy nhà nước ở một số nước [49] đã giành 30 trang (từ trang 44- 73) để trình bày và phân tích tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước (phân quyền) của John Locke, chủ yếu là trong tác phẩm “Hai chuyên luận về chính quyền”. Trong sách, tác giả phân tích mối quan hệ, giới hạn và sự phụ thuộc giữa cơ quan lập pháp và hành pháp, quyền lực lập pháp và quyền lực hành pháp theo quan niệm của Locke. Bên cạnh đó, tác giả còn phân tích, chỉ ra mối quan hệ, sự phụ thuộc giữa quyền hành pháp và liên bang theo quan niệm của Locke, về đặc quyền hành động của chính phủ, về sự tan rã của chính quyền khi quyền lực bị lạm dụng. Trong các mối quan hệ đó, tác giả cũng chỉ ra quan niệm nhất quán, xuyên xuốt của John Locke về vai trò tối thượng của nhân dân, vai trò quyết định của nhân dân trong các mối quan hệ công việc của chính quyền và các cơ quan quyền lực nhà nước. Có thể khẳng định, phần nghiên cứu về John Locke trong sách này là sâu nhất trong các nghiên cứu về John Locke khi tác phẩm “Two treatises of Government” chưa được dịch sang tiếng Việt. Logic các vấn đề tác giả giới thiệu trong sách đã bao quát nội dung chính yếu của tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền – Chính quyền dân sự” do Lê Tuấn Huy dịch sau này (2007). Đây là nội dung rất gần nội dung Luận án của tôi. Đinh Ngọc Thạch trong bài viết Một số tư tưởng triết học chính trị của Gi.Lốccơ: Thực chất và ý nghĩa lịch sử [85] đã trình bày tư tưởng về nhà nước pháp quyền với tư cách sản phẩm tất yếu của xã hội công dân, về quyền con người, về mối quan hệ giữa quyền và luật pháp, về sự phân quyền trong quyền lực nhà nước, về sự tự do của công dân trong quan niệm của John Locke và có đặt trong sự so sánh với quan điểm của các nhà triết học trước và
  14. 10 sau ông. Trong bài viết, tác giả đã khẳng định quan điểm của John Locke: “nhà nước là sự kế thừa và củng cố các quyền con người đã có trong trạng thái tự nhiên”. Đây là tư tưởng cốt yếu của John Locke và là sự dẫn dắt quan trọng và xuyên suốt toàn bộ tư tưởng về vấn đề nhà nước pháp quyền của John Locke. Điều khẳng định này đã nói lên thực chất vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng của John Locke và là một gợi ý quan trọng cho tôi trong định hướng nghiên cứu vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng của John Locke trong Luận án. Dagobert D. Runes trong Lịch sử triết học từ cổ đại đến cận hiện đại [16] dù chỉ giới thiệu về John Locke trong hơn 1 trang sách nhưng đã đưa ra nhiều khẳng định quan trọng: (1) “Có một sự kiện không thể chối cãi được là những mầm mống của bản tuyên ngôn độc lập Mỹ nằm trong tập thứ hai của cuốn Two Treatises on Government (Hai khái luận về chính quyền của John Locke)” [16, tr.335], (2) “Trong nhiều thập niên của thế kỷ 18, người Mỹ rất có lý khi cho mình là những người thừa kế ý chí chính trị của Locke, điều mà người ta xao lãng ở Anh, quê hương của triết gia. Chủ nghĩa tự do Anh đã mạnh lên khi trở lại với Locke, mà những ý tưởng, với Montesquieu và Voltaire là trung gian, đã chinh phục nước Pháp và sau đó đã thấm đượm tinh thần của Hà Lan và Scandinavia” [16, tr.335-336]. Hai khẳng định trên của tác giả đã nói lên tầm vóc lớn lao và ảnh hưởng của tư tưởng John Locke đối với nhiều quốc gia và nhiều nhà tư tưởng lỗi lạc sau ông. Điều này đã giúp tôi mở rộng góc nhìn về những đánh giá giá trị và hạn chế cũng như tầm ảnh hưởng của tư tưởng John Locke trong lịch sử nhân loại. Trần Văn Phòng, Nguyễn Thanh Hải trong Tư tưởng của J.Locke về tính chủ thể của nhân dân đối với chính quyền [68] đã trình bày những nội dung cơ bản của tư tưởng về chính quyền của John Locke. Trong bài, các tác giả đã phân tích một cách có hệ thống quá trình ra đời, tồn tại, tổ chức hoạt
  15. 11 động của các cơ quan quyền lực trong chính quyền dân sự và đặc biệt nhấn mạnh quan điểm cốt lõi trong tư tưởng về chính quyền của John Locke, đó là vai trò tối thượng của nhân dân, quyền lực của nhân dân trong chính quyền dân sự. Các tác giả cũng nêu bật được những giá trị mang tính thời đại và những hạn chế cơ bản trong tư tưởng về chính quyền của John Locke. Đây là những gợi ý quan trọng cho tôi trong quá trình làm Luận án. Nguyễn Thị Châu Loan trong Luận án Tiến sĩ Triết học chính trị J.J. Rousseau và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay [58] đã trình bày quan niệm của Rousseau về triết học chính trị và những quan niệm nền tảng về triết học chính trị của Rousseau như quan niệm về quyền tự nhiên, về nguồn gốc của sự bất bình đẳng, về ý chí chung, về chủ quyền tối cao, về khế ước xã hội… Đặc biệt, Luận án trình bày một cách cơ bản tư tưởng của Rousseau về nhà nước pháp quyền với quan điểm đây là thiết chế thực hiện các quyền tự nhiên của con người và nó được cụ thể hóa thông qua phương thức tổ chức, phân định, phân chia và kiểm soát quyền lực nhà nước – dù là được cụ thể hóa như thế nhưng Rousseau khẳng định quyền lực nhà nước là không thể phân chia, do nó là quyền lực của nhân dân giao cho nhà nước nên nhà nước không có quyền phân chia – đây là cốt lõi của tư tưởng tập quyền không được nhiều nhà nước pháp quyền tư sản kế thừa. Trong nội dung tư tưởng về triết học chính trị và nhà nước pháp quyền của Rousseau có những quan niệm gần giống với John Locke, kế thừa và phát triển vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng của John Locke. Thế nên nội dung Luận án có giá trị tham chiếu đối với Luận án của tôi. Luận án của tôi đi sâu nghiên cứu vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng của John Locke với những quan niệm ban đầu còn chưa đầy đủ, rõ ràng như Rousseau nhưng đã mang tính hệ thống, tính cách mạng triệt để. Có thể khẳng định, tư tưởng của John Locke về vấn đề nhà nước pháp quyền đã tạo nguồn cảm
  16. 12 hứng và khai mở tư tưởng của các nhà Khai sáng sau này, trong đó có Rousseau, Motesquieu. Nguyễn Đăng Dung trong Nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa ba quyền theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 [20] đã khẳng định rằng: từ lâu học thuyết phân quyền “đã trở thành xương sống của việc tổ chức quyền lực nhà nước khắp nơi trên thế giới” [20, tr.3]. Tác giả đã phân tích và luận giải rằng: sự thống nhất quyền lực nhà nước nằm trong sự phân quyền và việc tổ chức tốt các chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tinh thần này đã từng được John Locke và Montesquieu khẳng định. Đồng thời, tác giả còn phân tích mối quan hệ tác động qua lại giữa cơ quan lập pháp và hành pháp, xem nó như là cơ sở để tạo nên sự thống nhất và kiểm soát quyền lực. Từ đó, tác giả đi đến việc khẳng định phải xác lập một nền hành pháp mạnh, kể cả việc hành pháp can thiệp vào lập pháp. Đây là lý lẽ đã được John Locke phân tích. Việc này cũng cần thiết ở Việt Nam hiện nay. Ở góc độ này thì có thể khẳng định rằng: cơ chế phân quyền theo tư tưởng của John Locke đáng để chúng ta lưu tâm trong việc xác lập phương thức phân công, phối hợp, kiểm soát giữa ba cơ quan quyền lực nhà nước, nhất là giữa cơ quan lập pháp và hành pháp. Nguyễn Đình Tường, Lê Văn Tùng trong Vấn đề giáo dục đạo đức qua một số lý thuyết triết học giáo dục phương Tây [102] đã phân tích các lý thuyết giáo dục đạo đức trong lịch sử triết học phương Tây, trong đó các tác giả có dẫn ra tư tưởng tabula rasa của John Locke, xem như là luận điểm gốc của chủ nghĩa hành vi (Behaviorism) trong giáo dục. Dẫn ra luận điểm của John Locke trong tác phẩm Một số tư tưởng giáo dục (Some Thoughts concerning Education – còn dịch là Một số suy nghĩ về giáo dục - tg) viết năm 1693: “sự trải nghiệm về việc học (và thực hành) là cơ sở của hiểu biết và chúng thể hiện ra một cách khác nhau ở những cá nhân khác nhau… Giáo dục đạo đức là con đường đưa trẻ em đến đức hạnh, lịch thiệp và học tập” [102,
  17. 13 tr.70]. Quan điểm này ngoài việc khẳng định sự cần thiết của giáo dục đối với việc hoàn thiện nhân cách của con người, nó còn thể hiện chủ nghĩa duy nghiệm trong quan niệm của John Locke. Quan điểm nhận thức luận này của ông đã được thống nhất từ trước và nó có tác động rất lớn đến những trải nghiệm thực tiễn của ông, giúp ông đúc rút thực tiễn nước Anh thành những lý luận vượt thời đại, nhất là trong các quan niệm về nhà nước của ông. Đỗ Thị Kim Hoa trong Quyền con người trong tư tưởng của John Locke về nhà nước [45] đã phân tích quan niệm của John Locke về các quyền tự nhiên của con người như: quyền sống, quyền tự do, quyền sở hữu, quyền bình đẳng và khẳng định rằng: việc đảm bảo thực hiện các quyền này là “cơ sở cho sự tồn tại của chính quyền dân sự. Nó phản ánh chân thực sự hiện diện của một nhà nước pháp quyền. Phải có được sự đảm bảo các quyền đó thì nhà nước mới là nhà nước pháp quyền” [45, tr.57]. Qua phân tích nội dung tư tưởng các quyền con người theo quan niệm của John Locke, tác giả cũng chỉ ra những giá trị và hạn chế trong quan niệm này của John Locke, cuối cùng đi đến khẳng định: “Mặc dù còn mang những hạn chế về mặt thế giới quan, hạn chế của lịch sử, nhưng những tư tưởng của ông đã góp phần làm giàu có thêm kho tàng lý luận về nhà nước pháp quyền của nhân loại” [45, tr.63]. 1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM Lê Minh Quân trong Mối quan hệ giữa việc xây dựng nhà nước pháp quyền với sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa [72] đã luận giải mối quan hệ biện chứng giữa nhà nước pháp quyền với sự phát triển của xã hội thông qua những dẫn chứng trong lịch sử tư tưởng về nhà nước pháp quyền nhân loại. Từ đó tác giả khẳng định tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trên cơ sở những kiến giải đó, tác giả đã đề xuất những phương hướng cơ bản giải quyết mối quan hệ giữa việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với sự phát triển
  18. 14 của xã hội Việt Nam. Đây là những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn quan trọng khẳng định là “có” nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nó đang được xây dựng ở Việt Nam, rằng nó là giá trị của nhân loại, không phải là “đặc sản” của nhà nước tư sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng có thể kế thừa và phát triển trong quá trình xây dựng, củng cố và hoàn thiện mô hình của nhà nước mình. Luận án này rất có giá trị tham khảo, nhất là ở những kiến giải, kết luận về mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng nhà nước pháp quyền với phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đỗ Quang Khắc trong Thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong tiến trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay [54] đã phân tích một cách khá cơ bản thực trạng thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở nước ta trong thời kỳ đổi mới; chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế trong việc thực thi quyền lực đó và bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở nước ta. Luận án đã nêu lên một vấn đề bức thiết trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nội dung lý luận của Luận án có những gợi ý quan trọng cho Luận án của tôi. Từ Luận án này tôi nhận thức rằng: quyền lực chính trị của nhân dân trong nhà nước xã hội chủ nghĩa là rất rộng, trong đảm bảo xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì càng rộng lớn, không chỉ dừng lại trong phạm vi hệ thống chính trị. Thế nên, bên cạnh hệ thống chính trị, trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyền lực của nhân dân còn phải thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội. Nguyễn Đăng Thông trong Nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng giai cấp và chức năng xã hội của nhà nước trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay [93] đề cập đến việc thực hiện chức năng giai cấp và chức năng xã hội của nhà nước nói chung và Nhà nước xã hội chủ
  19. 15 nghĩa ở nước ta nói riêng - nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ cơ sở lý luận đó, Luận án nêu, luận giải tính chất, nội dung của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời đề xuất những nhân tố đảm bảo cho việc thực hiện chức năng giai cấp và chức năng xã hội của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Không dừng lại ở đó, tác giả còn nêu ra những tồn tại và hạn chế trong việc thực hiện chức năng giai cấp và chức năng xã hội của Nhà nước ta thời gian qua, qua đó cũng đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chức năng giai cấp và chức năng xã hội trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cách tiếp cận vấn đề của Luận án rất hợp lý và có tính thực tiễn. Đến nay, dù thực tế nước ta đã thay đổi và đạt được nhiều kết quả nhưng cách tiếp cận và vấn đề nghiên cứu của Luận án vẫn luôn có giá trị. Vũ Anh Tuấn trong Vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay [101] đã đưa ra quan niệm về công bằng xã hội và luận chứng ý nghĩa của nó trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Tác giả đã khẳng định rằng: để đảm bảo công bằng xã hội trong quá trình đổi mới ở nước ta phải dựa trên nền tảng pháp luật, đảm bảo tính tối thượng của pháp luật trong thi hành các chính sách xã hội. Tác giả tiếp cận nghiên cứu vấn đề dưới góc độ lý luận về pháp luật, thông qua việc nghiên cứu, phân tích, khái quát những cái riêng, cái đặc thù của các luật đơn lẻ để khẳng định cái chung, cái phổ biến – vai trò của pháp luật trong quá trình thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam. Hướng tiếp cận nghiên cứu này phản ánh một khía cạnh của vấn đề nhà nước pháp quyền – tính thượng tôn pháp luật, là mặt rất quan trọng có giá trị tham khảo cho Luận án của tôi. Đào Ngọc Tuấn trong Tính phổ biến và tính đặc thù trong xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam [99] luận giải sự kết hợp tính phổ biến và tính đặc thù trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, trên cơ sở đó chỉ ra
  20. 16 tính đặc thù của nhà nước pháp quyền Việt Nam. Nội dung này được gắn kết với nền tảng lý luận được tác giả dẫn ra, đó là logic và lịch sử hình thành và phát triển khái niệm nhà nước pháp quyền. Luận án còn lý giải cội nguồn của lý luận về nhà nước pháp quyền và chỉ ra tính tất yếu và đặc thù trong xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Phạm Ngọc Anh – Bùi Đình Phong trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền kiểu mới ở Việt Nam [2] đã trình bày quan niệm, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền kiểu mới ở Việt Nam – đó là Nhà nước pháp quyền dân chủ nhân dân mang bản chất giai cấp công nhân, trong đó đặt ra yêu cầu để thực thi một cách có hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân thì nguyên tắc là phải thống nhất thượng tôn pháp luật gắn với thực hành đạo đức, tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ công chức trong Nhà nước pháp quyền dân chủ nhân dân phải đại diện cho quyền lợi và ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, phải là công bộc của dân, thực thi quyền lực công và bảo vệ nhân dân… Cùng với quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước pháp quyền, tác phẩm đã góp phần củng cố quan điểm mác-xít về xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đây là nội dung có tính định hướng về mặt quan điểm quan trọng cho Luận án của tôi. Đỗ Trung Hiếu trong Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay [44] đã tiếp cận nghiên cứu vấn đề dân chủ đặt trong mối quan hệ với nhà nước. Trong sách này tác giả đã trình bày một cách có hệ thống tiến trình dân chủ hóa nhà nước trong lịch sử nhân loại với điểm nhấn là nghiên cứu tác động của thời đại toàn cầu hóa ngày nay đối với sự biến đổi nhà nước và nền dân chủ, trong đó Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng sâu sắc của xu thế này. Với Việt Nam, quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng đã đặt ra yêu cầu nhà nước phải mở rộng nền dân chủ và xây
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
16=>1