intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: Tìm hiểu tình hình huy động nguồn vốn của các ngân hàng Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Tieng Tran | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

88
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việt Nam là một nước đang phát triển. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và nhà nước ta nền kinh tế Việt Nam ngày càng hoạt động có hiệu quả kể từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước thâm nhập vào sự phát triển chung của nền kinh tế khu vực và thế giới. Hàng loạt các doanh nghiệp, các nhà đầu tư mới trong và ngoài nước chọn Việt Nam làm điểm đầu tư an toàn và sinh lợi....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: Tìm hiểu tình hình huy động nguồn vốn của các ngân hàng Việt Nam hiện nay

  1. Chuyên đề tài chính ngân hàng Luận văn Tìm hiểu tình hình huy động nguồn vốn của các ngân hàng Việt Nam hiện nay GVHD: Th.S Trần Bá Trí Trang 1 SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang
  2. Chuyên đề tài chính ngân hàng CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Việt Nam là một nước đang phát triển. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và nhà nước ta nền kinh tế Việt Nam ngày càng hoạt động có hiệu quả kể từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước thâm nhập vào sự phát triển chung của nền kinh tế khu vực và thế giới. Hàng loạt các doanh nghiệp, các nhà đầu tư mới trong và ngoài nước chọn Việt Nam làm điểm đầu tư an toàn và sinh lợi. Bên cạnh đó, một nền kinh tế mở như thế không thể thiếu vắng tổ chức trung gian cụ thể là sự hoạt động của hệ thống Ngân hàng. Nó rất cần thiết đối với nền kinh tế. Thực trạng hiện nay cho thấy rằng Ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng trong việc đầu tư và phát triển nhằm để chuyển đổi kinh tế theo từng vùng, từng địa phương. Hiện nay trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển thì các cơ sở sản xuất phải có nguồn vốn đủ mạnh nhằm để mở rộng quy mô sản xuất, tăng chất lượng sản phẩm và hạ giá thành. Vì vậy, cần phải có một hệ thống Ngân hàng có đủ khả năng cung cấp vốn cho các doanh nghiệp. Mặt khác, kể từ khi Việt Nam gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì tình hình hoạt động kinh tế trong nước ngày càng sôi động và thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài ngày càng tăng, sự hoạt động của ngân hàng ngày càng mạnh mẽ. Các ngân hàng quốc doanh phát triển nhanh chóng và cùng với sự ra đời của đông đảo các ngân hàng cổ phần, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã bước vào giai đoạn tăng trưởng, đáp ứng nhu cầu phát triển của khu vực kinh tế tư nhân đang bắt đầu khởi động mạnh mẽ. Do sự hội nhập ngày càng sâu rộng của nền kinh tế Việt Nam vào thế giới nên Việt Nam chịu những tác động nhất định, tuy không trực tiếp. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường chứng khoán và quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước lớn trong các năm tới. Việc huy động vốn thông qua thị trường vốn khó khăn trong khi thị trường tín dụng thắt chặt sẽ chặn dòng vốn và đẩy chi phí tài chính của các doanh nghiệp lên cao. GVHD: Th.S Trần Bá Trí Trang 2 SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang
  3. Chuyên đề tài chính ngân hàng Do đó, các doanh nghiệp sẽ đồng loạt rút các nguồn vốn gửi từ ngân hàng, làm cho nguồn tài chính trong các ngân hàng mất cân đối. Ngoài ra, vấn đề lạm phát và bùng phát nợ xấu sẽ ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy đề tài “tìm hiểu tình hình huy động nguồn vốn của các ngân hàng Việt Nam hiện nay” cần thiết được nghiên cứu. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU Phân tích, đánh giá, so sánh tình hình huy động nguồn vốn ở các ngân hàng Việt Nam qua các năm 2007 và năm 2008 và những tháng đầu năm 2009. Qua đó, xem xét tác động của nó đã ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động, tình hình huy động nguồn vốn của các ngân hàng Việt Nam ở hiện tại và trong tương lai. Từ đó, đưa ra biện pháp can thiệp nhằm khắc phục và hạn chế sự ảnh hưởng đến lượng vốn trong ngân hàng, nhằm ổn định cho các doanh nghiệp vay ở để nền kình tế hoạt động ổn định và ngày càng phát triển trong thời gian tới. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Thu thập số liệu: số liệu thứ cấp thể hiện ở các ngân hàng qua các năm 2006, 2007, 2008 và những tháng đầu năm 2009. - Phân tích, so sánh số liệu qua các năm nhằm thấy rõ được sự tác động của nền kinh tế đến nguồn vốn huy động của các ngân hàng trong nước. 4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu tình hình hoạt động, huy động nguồn vốn của các ngân hàng ở Việt Nam qua các năm 2007, 2008 và những tháng đầu năm 2009. 4.2. Thời gian nghiên cứu Từ năm 2007, 2008 và những tháng đầu năm 2009. GVHD: Th.S Trần Bá Trí Trang 3 SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang
  4. Chuyên đề tài chính ngân hàng CHƯƠNG 2 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HUY ĐỘNG VỐN 2.1. KHÁI NIỆM VỀ HUY ĐỘNG VỐN 2.1.1. Khái niệm Huy động vốn là điều động tất cả các khoản tiền gởi mà các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng và dân cư gởi vào Ngân hàng hoặc phát hành các loại giấy tờ có giá. 2.1.2. Bản chất Tín dụng thể hiện ra bên ngoài như một sự chuyển giao tạm thời quyền sử dụng một vật hay một số tiền tệ giữa người đi vay và người cho vay. Vì vậy, người ta có thể sử dụng được giá trị của hàng hóa trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua trao đổi. - Phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay. - Sử dụng vốn tín dụng trong quá trình tái sản xuất. - Hoàn vốn tín dụng. - Đặc điểm của quỹ cho vay là nhằm thỏa mãn nhu cầu tạm thời cho sản xuất, lưu thông hàng hóa và tiêu dùng. 2.2. CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG NGUỒN VỐN 2.2.1. Huy động từ tiền gửi của các tổ chức kinh tế và tiền gửi tiết kiệm trong dân cư. 2.2.1.1. Tiền gửi của các tổ chức kinh tế Là số tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của các đơn vị được gửi tại Ngân hang. Nó bao gồm một bộ phận vốn tiền tạm thời nhàn rỗi được giải phóng ra khỏi quá trình luân chuyển vốn nhưng chưa có nhu cầu sử dụng vốn hoặc sử dụng cho những mục tiêu định sẳn vào một thời điểm nhất định. Các tổ chức kinh tế thường gửi tiền vào Ngân hàng dưới các hình thức sau: a) Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà khách hàng gửi tiền và rút tiền bất cứ lúc nào mà không cần báo trước cho Ngân hàng. - Khi gửi tiền khách hàng được hưởng lãi suất, góp phần tăng thêm lợi nhuận cho khách hàng. Mặt khác, khi có nhu cầu sử dụng thì khách hàng chủ GVHD: Th.S Trần Bá Trí Trang 4 SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang
  5. Chuyên đề tài chính ngân hàng động rút ra, nên vẫn thỏa mãn nhu cầu về vốn sản xuất kinh doanh của họ. Ngoài ra, khách hàng còn được phép sử dụng tiền gửi để phục vụ cho công tác thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng. - Mặc dù đối với loại tiền gửi này, người gửi tiền có thể gửi tiền và rút tiền bất cứ lúc nào, song giữa việc gửi tiền và rút tiền có sự chênh lệch về thời gian và số lượng nên trên các loại tài khoản này luôn có số dư, Ngân hàng có thể huy động số dư đó làm nguồn vốn tín dụng để cho vay. b) Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà khi khách hàng gửi tiền có sự thỏa thuận về thời hạn rút tiền giữa Ngân hàng và khách hàng. - Tiền gửi có kỳ hạn: là nguồn vốn mang tính chất ổn định, Ngân hàng có thể sử dụng loại tiền gửi này một cách chủ động để làm nguồn vốn kinh doanh. Vì vậy, để khuyến khích khách hàng gửi tiền, các Ngân hàng thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau để đáp ứng nhu cầu gửi tiền của khách hàng. Thông thường có các loại kỳ hạn như sau: 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng,… với mỗi kỳ hạn Ngân hàng áp dụng mỗi mức lãi suất khác nhau phù hợp theo nguyên tắc: kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao. 2.2.1.2. Tiền gửi trong dân cư Là một bộ phận thu nhập bằng tiền của dân cư gửi tại Ngân hàng. Là một bộ phận thu nhập bằng tiền của dân cư gửi tại Ngân hàng bao gồm: - Đây là hình thức huy động vốn truyền thống của Ngân hàng. Trong hình thức huy động này, người gửi tiền được cấp một sổ tiết kiệm, sổ này được coi là một giấy chứng nhận có gửi tiền vào quỹ tiết kiệm của Ngân hàng. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư cũng được chia làm 2 loại: tiết kiệm có kỳ hạn và tiết kiệm không kỳ hạn. - Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: cũng giống như loại tiền gửi có kỳ hạn, nó cũng có sự thỏa thuận về thời hạn rút tiền, nhưng nguồn hình thành của tiền gửi tiết kiệm chủ yếu là tiền nhàn rỗi trong dân cư. Về tính chất thì tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm giống nhau, hiện nay vẫn còn sự phân biệt này là do khi gửi tiết kiệm khách hàng được cấp một sổ tiết kiệm để giao dịch với Ngân hàng. GVHD: Th.S Trần Bá Trí Trang 5 SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang
  6. Chuyên đề tài chính ngân hàng 2.2.2. Nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng Trong quá trình hoạt động kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phát sinh tình trạng tạm thời thừa vốn và ngược lại. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cũng không tránh khỏi tình trạng đó. Đối với Ngân hàng cũng thường tổ chức các hình thức huy động vốn, nhưng nhu cầu vay vốn của các tổ chức lại thấp hơn so với vốn huy động, nên Ngân hàng cũng dùng số tiền nhàn rỗi này để gửi vào Ngân hàng khác. Tuy nhiên, cũng có những thời điểm cầu vượt cung do đó Ngân hàng cũng không thể đáp ứng, để đáp ứng được cầu thì Ngân hàng chủ động vay lại của các Ngân hàng khác để đảm bảo khả năng thanh toán cho các tổ chức. 2.2.3. Nguồn vốn vay của Ngân hàng Trung Ương - Ngân hàng Trung Ương đóng vay trò là Ngân hàng của các Ngân hàng, là người cho vay cuối cùng của nền kinh tế. Vì vậy, khi có nhu cầu, các Ngân hàng thương mại sẽ được Ngân hàng Trung Ương cho vay vốn. - Việc vay vốn của Ngân hàng Trung Ương đối với các Ngân hàng thương mại thông qua hình thức tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có đảm bảo của Ngân hàng Trung Ương nhằm cung cấp vốn ngắn hạn và các phương tiện thanh toán cho các Ngân hàng thương mại. Ngân hàng Trung Ương thực hiện tái cấp vốn cho các Ngân hàng thương mại thông qua các hình thức sau: + Cho vay theo hồ sơ tín dụng. + Chiết khấu các chứng từ có giá trị ngắn hạn. + Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố các chứng từ có giá. 2.2.4. Lãi suất huy động vốn. Là lãi suất mà các tổ chức tín dụng sử dụng để huy động vốn cho các mục tiêu hoạt động kinh doanh của mình như: lãi suất tiền gửi không kỳ hạn (LKK), lãi suất tiền gửi có kỳ hạn (LCK), lãi suất tiền gửi của các tổ chức kinh tế (LTC), lãi suất tiền gửi của dân cư (LDC). Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, thì các Ngân hàng thương mại không được huy động vốn vượt mức 20% so với vốn điều lệ của Ngân hàng. GVHD: Th.S Trần Bá Trí Trang 6 SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang
  7. Chuyên đề tài chính ngân hàng CHƯƠNG 3 TÌM HIỂU TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NGÂN HÀNG VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. CÁC THỊ TRƯỜNG MỤC TIÊU CỦA NGÂN HÀNG Do nét đặc thù về sản phẩm và mục tiêu kinh doanh của Ngân hàng nên ta có thể chọn thị trường ra thành các nhóm có những nét đặc trưng khác nhau: 3.1.1 Nhóm khách hàng truyền thống Nhóm khách hàng truyền thống là những đơn vị xây lắp, đơn vị sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng: Với đặc điểm là tỉnh mới thành lập, cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn, nên việc đầu tư nâng cấp, sửa chữa và xây dựng mới là nhu cầu rất cần thiết. 3.1.2. Nhóm khách hàng tiềm năng - Nhóm khách hàng tiềm năng là dân cư có thu nhập cao và ổn định. - Ngân hàng huy động vốn với nhiều hình thức khác nhau nhưng điển hình nhất là tiền gửi của các tầng lớp dân cư. Để huy động triệt để nguồn vốn từ nhóm khách hàng này Ngân hàng cần triển khai nhiều hình thức huy động vốn đa dạng như nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ với với kỳ hạn không giống nhau (không kỳ hạn, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng, 24 tháng). - Với khách hàng có thu nhập ổn định thì việc triển khai tín dụng bằng tín chấp là hợp lý. Lãi và gốc sẽ được trừ dần vào tiền lương hàng tháng của khách hàng. 3.1.3. Nhóm các tổ chức kinh tế Công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân: - Với nhóm khách hàng này thì ngoài việc nhận tiền gởi và cho vay, Ngân hàng còn có thể thực hiện các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền,… với nhịp độ phát triển kinh tế như hiện nay, lượng giao dịch mua bán ngày càng nhiều và đòi hỏi cao về sự nhanh chóng, an toàn và hiệu quả thì Ngân hàng sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ thanh toán. Để ngày càng thu hút thêm những khách hàng ở nhóm này Ngân hàng cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ tạo uy tín với khách hàng. GVHD: Th.S Trần Bá Trí Trang 7 SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang
  8. Chuyên đề tài chính ngân hàng - Theo các nhà kinh tế thì cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước nói chung và tỉnh Hậu Giang nói riêng. Đặc biệt là tỉnh mới thành lập có nhiều tiềm năng tự nhiên chưa được khai thác hết, là nơi mưa thuận gió hòa thích hợp phát triển kinh tế nông nghiệp, thuận lợi cho phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại – dịch vụ phát triển theo… Thì các doanh nghiệp có quy mô sản xuất vừa và nhỏ sẽ xuất hiện nhiều, như vậy nhu cầu vốn sẽ rất lớn. Ngân hàng nên đặc biệt chú ý đến những nhóm khách hàng này. Tóm lại: Qua việc phân tích trên đã giúp cho Ngân hàng có những biện pháp tích cực để thực hiện tốt công tác huy động vốn có hiệu quả, góp phần thúc đẩy Ngân hàng kinh doanh ngày càng có hiệu quả hơn. Để hiểu rõ hơn về tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong năm qua tôi phân tích từng mặt, từng lĩnh vực hoạt động. 3.2. TÌM HIỂU TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG NGUỒN VỐN CỦA CÁC NGÂN HÀNG 3.2.1. Tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng nước ta trong thời gian qua Trong thời gian qua, hệ thống ngân hàng nước ta có 6 ngân hàng thương mại nhà nước, 37 ngân hàng thương mại cổ phần, 31 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 6 ngân hàng liên doanh, 6 công ty tài chính và 10 công ty cho thuê tài chính, 926 tổ chức tín dụng nhân dân và 46 văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài. Hơn nữa, hiện nay ngân hàng nhà nước đã chấp nhận về nguyên tắc cho ra đời thêm 4 ngân hàng nhà nước cổ phần, càng chứng tỏ hệ thống ngân hàng đang vững mạnh hơn. Nếu so với cách đây hơn chục năm thì đây quả là một sự trưởng thành vượt bậc. Thứ nhất, hệ thống ngân hàng đã huy động và cung cấp một lượng vốn khá lớn cho nền kinh tế, ước tính hàng năm chiếm khoảng 16-18% GDP, gần 50% vốn đầu tư toàn xã hội. Tăng trưởng tín dụng liên tục tăng trong các năm và năm 2006 ước tăng khoảng 24%, cao hơn mức 19% năm 2005. Hệ thống ngân hàng cũng có nhiều đóng góp cho tăng trưởng, phát triển và ổn định nền kinh tế trong những năm qua. GVHD: Th.S Trần Bá Trí Trang 8 SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang
  9. Chuyên đề tài chính ngân hàng HÌNH 1: TỐC ĐỘ TĂNG DƯ NỢ TÍN DỤNG QUA CÁC NĂM (Nguồn: Báo cáo thông tin Ngân hàng Nhà nước) Thứ hai, hệ thống ngân hàng đã có cuộc đổi mới toàn diện. Nhiều văn bản luật đã được ban hành một cách đồng bộ; Cơ chế chính sách về hoạt động ngân hàng đã ngày một hoàn chỉnh và phù hợp với thông lệ quốc tế; Khuôn khổ thể chế ngày một thông thoáng và minh bạch hơn. Những phân biệt đối xử giữa loại hình tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng trong nước và tổ chức tín dụng nước ngoài đã từng bước được loại bỏ; Chức năng cho vay tín dụng chính sách và cho vay tín dụng thương mại đã được tách bạch; Các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng đã được tự chủ và tự chịu trách nhiệm khá đầy đủ. Tính cạnh tranh của các tổ chức tín dụng được nâng cao; Thị trường dịch vụ ngân hàng được phát triển an toàn và hiệu quả. Thứ ba, chính sách tiền tệ được đổi mới và điều hành theo nguyên tắc thị trường và phù hợp với thông lệ quốc tế. Các công cụ gián tiếp điều hành chính sách tiền tệ đã được hình thành và phát triển. Chính sách lãi suất và tỷ giá hối đoái đã được áp dụng linh hoạt theo cơ chế thị trường. Chính sách tín dụng được mở rộng và đổi mới theo hướng tạo sự công bằng, bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp và mọi đối tượng dân cư. Thứ tư, hệ thống ngân hàng đã được cơ cấu lại tài chính, tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại nhà nước, xử lý nợ xấu (hiện tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ đã giảm từ gần 20% trong những năm 90 xuống còn khoảng 3,1%), GVHD: Th.S Trần Bá Trí Trang 9 SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang
  10. Chuyên đề tài chính ngân hàng đào tạo cán bộ và nâng cấp hệ thống trên cơ sở công nghệ hiện đại, nối mạng và thanh toán điện tử… Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đáng được ghi nhận nêu trên, hệ thống ngân hàng còn nhiều bất cập, nhiều vấn đề cần được khắc phục để hội nhập được tốt, có khả năng cạnh tranh cao trong môi trường quốc tế.  Vào năm 2006, cả hai thành phố lớn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, vốn huy động của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng đều tăng cao so với cùng kỳ nhiều năm và có tốc độ tăng trước sự ngỡ ngàng của chính giới kinh doanh tiền tệ. Tại thành phố Hồ Chí Minh nguồn vốn huy động là 234.224 tỷ đồng, số dư huy động vốn tăng trên 32,5% so với năm 2005. Như vậy, tổng số dư vốn huy động chỉ ở riêng hai thành phố nói trên sẽ bằng số dư vốn huy động của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng tăng trưởng nhanh trong năm 2006. Nguyên nhân mức huy động vốn của ngân hàng ở hai thành phố lớn tăng là do: Thứ nhất: Thu nhập của người dân ngày càng cải thiện. Nhiều gia đình, nhiều người có nhu cầu tích lũy, nguồn tiết kiệm bằng tiền lớn. Thực tế này không chỉ thấy qua kênh tiền gửi ngân hàng, mà còn thấy một lượng vốn không nhỏ của người dân đầu tư mua chứng khoán, mua cổ phiếu trên thị trường OTC, mua cổ phiếu của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, mua bảo hiểm nhân thọ,…Nhưng kênh ngân hàng vẫn là nơi thu hút vốn trong dân lớn nhất. Thứ hai: Trong các kênh để dành và tiết kiệm: mua vàng, cất trữ ngoại tệ trong nhà và gửi Đồng Việt Nam tại ngân hàng, thì kênh đầu tư vào tiền gửi ngân hàng là sự lựa chọn tối ưu và minh bạch hơn cả. Thứ ba: Sau hơn 20 năm đổi mới đất nước, gần 18 năm đổi mới hoạt động ngân hàng, thay cho để dành dưới nhiều hình thức khác nhau tại nhà hay trong dân cư. Hệ thống ngân hàng ngày càng vững mạnh. Thứ tư: dịch vụ ngân hàng hiện đại và tiện ích, các loại tiền gửi đa dạng như tiền gửi bậc thang, tiền gửi với lãi suất lũy tiến, tiền gửi ngắn hạn,…tạo sự thuận lợi lựa chọn cho khách hàng và doanh nghiệp. Thứ năm: Lãi suất tiền gửi hấp dẫn và được điều chỉnh linh hoạt theo diễn biến của thị trường. Đặc biệt lãi suất tiền gửi USD của các ngân hàng thương mại nước ta thường xuyên được điều chỉnh tăng theo xu hướng tăng lên của lãi suất GVHD: Th.S Trần Bá Trí Trang 10 SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang
  11. Chuyên đề tài chính ngân hàng USD trên thị trường quốc tế, với mức tăng khoảng 0,5% - 0,55% năm trong năm 2006. Vốn huy động tăng nhanh đó là xu hướng tích cực và đáng mừng. Vốn nhàn rỗi trong dân cư được huy động tối đa vào các tổ chức trung gian tài chính từ đó đầu tư cho các nhu cầu phát triển kinh tế.  Năm 2007 tiếp tục là một năm sôi động của ngành ngân hàng Việt Nam với tốc độ tăng trưởng huy động vốn ước đạt 36,5% và tăng trưởng dư nợ tín dụng đạt 34% gấp gần hai lần so với mức dự báo hồi đầu năm. Theo Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, trong năm qua, cơ cấu dư nợ tín dụng đã có sự thay đổi tích cực theo hướng tăng dư nợ cho vay trung, dài hạn và tập trung hỗ trợ cho những ngành, lĩnh vực kinh tế quan trọng như nâng cấp, xây dựng cơ sở hạ tầng, bất động sản, thúc đẩy xuất khẩu và dịch vụ, nuôi trồng thủy sản, kinh doanh chứng khoán và tiêu dùng. Bảng 1: TỔNG DƯ NỢ CỦA MỘT SỐ NGÂN HÀNG TRONG NĂM 2007 Ngân hàng Tổng dư nợ Vốn điều lệ Sacombank 35.000 tỷ đồng 4.448 tỷ đồng ABC 31.600 tỷ đồng 2.630 tỷ đồng VIB Bank 19.000 tỷ đồng 2.000 tỷ đông OCB 7.557 tỷ đồng 1.000 tỷ đồng Eximbank 18.407 tỷ đồng 2.800 tỷ đồng DongA Bank 18.000 tỷ đồng 1.600 tỷ đồng VAB 5.747 tỷ đồng 1.000 tỷ đồng (Nguồn: Đầu tư – Tài chính, 2008) Đến hết tháng 12/2007, tổng vốn huy động của các ngân hàng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ước đạt trên 442.500 tỷ đồng, tăng 55% so với cuối năm 2006; tổng dư nợ cho vay tăng 51%, đạt gần 347.000 tỷ đồng. Tại Hà Nội, nơi tập trung hội sở và đầu mối của hầu hết các ngân hàng trong cả nước, tăng trưởng huy động vốn ước đạt khoảng 44% và tổng dư nợ cho vay ước đạt 38,5% so với năm ngoái. Song, trước nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp đang tăng cao vào dịp cuối năm, trong khi huy động vốn lại có dấu hiệu chững lại, nhiều ngân hàng cổ phần đã đua nhau tăng lãi suất huy động vốn VND, điều này gây mất ổn định mặt bằng GVHD: Th.S Trần Bá Trí Trang 11 SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang
  12. Chuyên đề tài chính ngân hàng lãi suất, dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng và gây ảnh hưởng đến nền kinh tế trong bối cảnh chỉ số tiêu dùng đang ở mức cao.  Năm 2008 được đánh giá là một năm đầy khó khăn và với ngành ngân hàng. Từ đầu năm đến nay, sự biến động của nền kinh tế trong và ngoài nước đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng, nguyên nhân là do: * Lạm phát: Đầu năm phải đối mặt với lạm phát tăng cao (theo tính tóan sơ bộ lạm phát năm nay của Việt Nam là 24%) do đó việc thắt chặt tiền tệ đã gây khó khăn không nhỏ cho ngân hàng. Thứ nhất: họ phải tăng lãi suất vay vì thế cho nên phải tăng lãi suất cho vay. Lãi suất cho vay quá cao khiến càng ít doanh nghiệp vay vốn, làm cản trở đến việc kinh doanh của ngân hàng. Thứ hai: Do lãi suất cao nên khả năng hoàn trả của các con nợ bị giảm sút, việc thu hồi nợ khó khăn hơn, các khoản nợ xấu gia tăng, làm tăng khả năng rủi ro của các ngân hàng. Thứ ba: Do lý do thứ hai nên các ngân hàng trở nên dè dặt trong việc cho vay vốn, tiền không được mang ra sử dụng lưu thông trở thành những khoản tiền vô ích, làm tăng chí phí cho ngân hàng. * Cơn bão tài chính Mỹ: Gần cuối năm, ngành tài chính ngân hàng phải đón nhận tin cơn bão tài chính ở Mỹ. Nhưng có lẽ nó có ít tác động đến ngành ngân hàng Việt Nam mà nhiều khi còn là tin tốt. Tin tốt là vì: Khi nhìn thấy sự khủng hoảng của ngành ngân hàng tại Mỹ, các ngân hàng Việt Nam sẽ suy xét và nhìn nhận lại cách làm ăn của mình. Họ sẽ thận trọng hơn với các khoản cho vay của mình; họ sẽ tìm cách giảm rủi ro trong quá trình cho vay; họ sẽ đề phòng và miễn dịch với các dự án đầu tư hay cho vay mà ở đó các khoản nợ xấu, khó đòi là cao; họ sẽ tập trung vào các khoản mục sinh lợi tốt, khả năng hoàn vốn cao và có sự phát triển trong tương lai. * Cạnh tranh giữa các ngân hàng: Đầu tiên là sự cạnh tranh các ngân hàng trong nước và các ngân hàng nước ngoài. Càng ngày càng có nhiều ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam. Lợi thế của họ là có nhiều vốn, có tiềm lực tài chính và quản lý. HSBC là ngân hàng nước ngoài tích cực nhất hiện nay. HSBC vừa được Ngân hàng Nhà nước chính thức cho phép thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Việc thành lập ngân hàng con sẽ cho phép HSBC mở rộng mạng lưới phân phối rộng hơn, tới các khách hàng hiện tại cũng GVHD: Th.S Trần Bá Trí Trang 12 SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang
  13. Chuyên đề tài chính ngân hàng như khách hàng mới. HSBC trở thành ngân hàng nước ngoài đầu tiên tại Việt Nam sở hữu 20% cổ phần tại một ngân hàng trong nước sau khi nâng cổ phần sở hữu tại Techcombank từ 14,4% lên 20%. Điều này cho phép HSBC mở rộng sức ảnh hưởng và gia tăng tầm hoạt động của mình. Sức ép cạnh tranh ngày càng gia tăng đối với các ngân hàng nội. Cạnh tranh với ngân hàng trong nước: Điều này là hiển nhiên nhưng có xu thế mới đó là việc hợp tác của các ngân hàng nội. Việc rõ ràng nhất là “liên minh ATM”. Cầm thẻ ATM của ngân hàng Techcombank nhưng khi đến trạm rút tiền của ngân hàng Vietcombank bạn vẫn có thể rút tiền được. Điều này làm gia tăng tầm hoạt động, khả năng cạnh tranh, sức thu hút khách hàng hơn là những ngân hàng không nằm trong liên minh. Nhưng sự cạnh tranh dù là giữa nội – ngoại hay nội – nội vẫn là cần thiết. Vì như thế các ngân hàng sẽ không ngừng cải thiện, không ngừng gia tăng chất lượng dịch vụ, luôn luôn sáng tạo để làm thỏa mãn những đòi hỏi của đất nước, của người dân và các doanh nghiệp. * Cạnh tranh với thị trường chứng khoán: Càng ngày chứng khoán càng trở nên lộ diện là đối thủ cạnh tranh trực tiếp với các ngân hàng về mặt huy động vốn trong dân. Trước kia chưa có chứng khoán thì người dân sẽ gửi tiền nhàn rỗi của mình vào các ngân hàng nhằm kiếm các khoản lợi tức. Nhưng nay, chứng khoán đã làm giảm lượng huy động vốn nhàn rỗi của các ngân hàng. Những người dân có tiền nhàn rỗi họ sẵn sàng lao vào đầu tư chứng khoán với hi vọng kiếm lời cao hơn là gửi tiền vào ngân hàng (tuy có rủi ro cao hơn). Bên cạnh đó, các doanh ngiệp ngoài kênh huy động vốn là vay mượn các ngân hàng họ còn có cách là phát hành cổ phiếu ra thị trường. Đấy cũng là một cách tốt để huy động vốn. Bảng 2: QUI MÔ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM (ĐVT: Tỷ đồng) Ngân Tài sản có Vốn huy động ROA (%) ROE (%) hàng 2007 2008 2007 2008 200 200 2007 2008 7 8 NHTMN 923.35 1.14315 710.63 842.78 0,64 0,69 9,7 10,8 N 9 5 9 7 7 GVHD: Th.S Trần Bá Trí Trang 13 SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang
  14. Chuyên đề tài chính ngân hàng NHTMCP 564,72 720,538 346,63 462,41 1,51 1,46 12,2 10,9 1 1 6 5 7 NHLD, 201.78 255.538 112.68 124.09 1,25 1,31 14,6 15,0 NN 2 0 5 5 3 (Nguồn: Đầu Tư và Tài chính, 2009) Qua bảng trên cho ta thấy tài sản có của các ngân hàng tăng lên từ năm 2007 sang năm 2008, bên cạnh đó nguồn vốn huy động cũng tăng theo. tỷ suất lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (ROA) và tỷ suất lợi nhuận ròng trên vốn chủ sơ hữu (ROE) của NHTMNN và NHLD, NN đều tăng lên. Trong khi đó thì tỷ suất lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (ROA) và tý suất lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE) của ngân hàng thương mại cổ phần lại giảm xuống. Điều này cho thấy tình hình hoạt động của NHTMCP vào năm 2008 lại hoạt động chưa tốt và kém hiệu quả hơn so với NHTMNN và NHLD. 3.2.2. Tình hình hoạt động của các ngân hàng và thị trường tiền tệ trong nước từ những tháng đầu năm 2009 đến nay 3.2.2.1. Lãi suất huy động vốn tăng Vào những tháng đầu năm 2009 tiền gửi vào ngân hàng có tăng nhẹ do quyết định điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản từ mức 8,5%/năm xuống còn 7%/năm của ngân hàng Nhà nước từ đầu tháng 2/2009 và giữ nguyên trong tháng 3/2009 đã tạo nên những biến động lãi suất trên thị trường ngân hàng. So với thời điểm cuối năm 2008, mặt bằng lãi suất huy động đang giảm khoảng 0,5 – 1,5%/năm và lãi suất cho vay theo đó cũng giảm thêm 2,5 – 4%/năm. Song bắt đầu từ giữa tháng 2, một số ngân hàng bắt đầu điều chỉnh tăng lãi suất huy động với mức tăng 0,3 – 1%/năm. Mặt bằng lãi suất huy động nhờ đó mà phổ biến ở mức 6,8 – 7,5%/năm và vượt mức 8,0%/năm tại một số ngân hàng. Lãi suất cho vay phổ biến ở mức 8 – 10,5%/năm và riêng lãi suất cho vay đối với các khoản cho vay được hỗ trợ lãi suất chỉ có 4 – 6%/năm. Với các khoản vay phục vụ nhu cầu đời sống và thông qua thẻ tín dụng, lãi suất cho vay khá cao khi ở mức 12 – 14%/năm. Ngược với VND, các mức lãi suất huy động và cho vay USD đều có xu hướng giảm so với cuối năm 2008 với mức giảm 0,2 – 0,5%/năm đối với huy động và 0,2 – 1,5%/năm đối với cho vay. Lãi suất huy động USD do đó hiện chỉ GVHD: Th.S Trần Bá Trí Trang 14 SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang
  15. Chuyên đề tài chính ngân hàng còn phổ biến ở mức 2,2 – 3,5%/năm và 5,7 – 7,4%/năm đối với lãi suất cho vay. Với các điều chỉnh trên, theo tính toán của NHNN, tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các TCTD đến cuối tháng 2.2009 có mức tăng nhẹ 1,62% so với tháng trước và tăng khoảng 0,44% so với cuối năm 2008. Điểm đáng lưu ý là số dư tiền gửi VND chỉ tăng khoảng 0,23% trong khi số dư tiền gửi ngoại tệ có mức tăng đáng kể 1,13% so với cuối năm trước. lãnh đạo Vietcombank nhận định, nhu cầu vay vốn của DN trong năm 2009 tăng mạnh theo chương trình hỗ trợ LS của Chính phủ, đặc biệt với các khoản vay VND là động lực để NH tung ra các sản phẩm mới với LS ưu đãi nhằm làm tăng vốn huy động. Ở một khía cạnh khác, khi LS cơ bản của NHNN giảm liên tục và có khả năng được giữ ở mức 7% trong ngắn hạn, mức LS huy động kỳ hạn 12 tháng tại các NH như hiện nay (8,0- 8,2%/năm) thực sự đang là mức LS hấp dẫn. Tình hình hoạt động của các ngân hàng trong nước vào những tháng đầu năm 2009 cho thấy vốn huy động ngắn hạn trên thị trường hiện cũng không dồi dào như năm trước. Chứng khoán có nhiều triển vọng đi lên, khả năng sinh lời từ vàng và tỷ giá, bất động sản khó giảm thêm…là những lý do khiến tiền nhàn rỗi tìm đường đến với các kênh đầu tư sinh lợi cao hơn lãi suất tiết kiệm. Bên cạnh nguồn vốn huy động ngắn hạn không khả quan thì vốn trung dài hạn cũng không dễ huy động. Trong tháng 4/2009 nhu cầu vốn trung dài hạn ở một số ngân hàng đã tăng lên khiến các ngân hàng thương mại đang tăng trưởng phát hành các giấy tờ có giá với lãi suất cao để huy động nguồn vốn trung dài hạn. Tuy nhiên, không phải ngân hàng cũng có điều kiện để thực hiện huy động này. Trong khi đó có khá nhiều ngân hàng lớn đều xúc tiến cho việc ra đời các sản phẩm nhằm thu hút vốn trung dài hạn để phục vụ cho các khách hàng của mình. Trong giữa tháng 4 ngân hàng VietinBank đã phát hành chứng chỉ tiền gửi đợt 1 năm 2009 với lãi suất khá hấp dẫn (mức cao nhất là 9%) so với mức lãi suất trung bình 7,8 – 8,4% của các ngân hàng trên thị trường. Tổng giá phát hàng trong đợt là 6.000 tỉ đồng với năm loại kỳ hạn là 6, 9, 12, 24 và 36 tháng. Lãi suất nằm trong khoản từ 7,9% đến 9%/năm, cao hơn khoảng một điểm phần trăm so với lãi suất huy động cùng kỳ hạn của ngân hàng cổ phần. Tuy nhiên, chứng chỉ tiền gửi này không được rút vốn trước hạn. Trong khi đó ngân hàng ACB, có dành ngân sách cho vay dài hạn với các tổng công ty lớn khoảng 10.000 tỉ đồng, nhưng ngân hàng sẽ GVHD: Th.S Trần Bá Trí Trang 15 SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang
  16. Chuyên đề tài chính ngân hàng lấy thêm một phần vốn từ hạn mức 6.000 tỉ đồng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ trước đây để chuyển qua cho vay trung dài hạn. Trong khi đó các ngân hàng cổ phần luôn có nhu cầu vốn trung và dài hạn nhưng cơ cấu vốn huy động khoảng 80 – 90% là vốn ngắn hạn. Vì vậy, để phát hành giấy tờ có giá dài hạn thì các ngân hàng quy mô nhỏ và trung bình phải tính toán rất kỹ. Nhưng nếu muốn phát hành giấy tờ có giá trung dài hạn thành công thì lãi suất phải cao, nhưng đi kèm đó là rủi ro khá lớn cho ngân hàng, nếu lãi suất cơ bản liên tục giảm trong ngân hàng đã huy động vốn trung dài hạn lãi suất cao thì sẽ thiệt thòi rất nhiều. Bên cạnh đó, các ngân hàng lớn có nguồn vốn gửi thanh toán không kỳ hạn lớn từ các doanh nghiệp lớn, nên lãi suất đầu vào bình quân của các ngân hàng này sẽ giảm thấp. Trong những ngày đầu tháng 5/2009 lãi suất tăng cao ở các kỳ hạn dài từ 12 – 36 tháng. Thế nhưng các ngân hàng vẫn khó khăn trong việc thu hút vốn trung và dài hạn bởi người dân còn mang nặng tâm lý giữ tiền mặt để ứng phó với những biến động. Tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng ước tăng 3,74% so với cuối tháng 4 và tăng 9,88% so với cuối năm trước (số dư tiền gửi VND tăng 4,52% và số dư tiền gửi ngoại tệ tăng 1,07%). Đây là mức tăng đáng kể nếu như so với tháng 3/2009, chỉ tăng 3,4%; tháng 2 tăng 1,62%; tháng 1 tăng 0,18%. Trong khi đó, ở chiều ra, mức tăng trưởng tín dụng trong tháng 4/2009 của hệ thống ngân hàng lại có sự gia tăng đột biến. Ngân hàng Nhà nước cho biết, trong tháng 4 vừa qua, nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế ước tăng 4,86% so với cuối tháng trước và tăng 11,6% so với cuối năm 2008. Đây là tín hiệu tốt đối với nhu cầu vốn như trên. Vì thế, các ngân hàng đã tăng lãi suất huy động. Các đỉnh lãi suất lần lượt được vượt qua từ hơn 8% đầu tháng 4 đã nhanh chóng lên đến 9%. Và cao nhất là lên đến 9,3% tại một số ngân hang cổ phần. Hầu hết là huy động vốn dài hạn 12 – 60 tháng. Bên cạnh việc tăng lãi suất, các ngân hàng đang tìm nhiều cách khác để tăng huy động vốn cho nhu cầu dài hạn. Bên cạnh đó, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc tế Việt Nam (VIB) phát hành giấy tờ có giá dài hạn năm 2009 với tổng mệnh giá 5.000 tỷ đồng quy đổi. Không chỉ riêng VIB, đây cũng chỉ là cách mà các ngân hàng áp dụng để huy động vốn trung và dài hạn. Sacombank cũng nhận được chấp nhận của ngân hàng Nhà nước huy động 10.000 tỷ đồng, Vietinbank nhận được hạn mức 10.000 và GVHD: Th.S Trần Bá Trí Trang 16 SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang
  17. Chuyên đề tài chính ngân hàng 400 triệu USD. Tuy nhiên, tăng lãi suất chưa chắc đủ sức thu hút người dân gửi tiền vào các kỳ hạn dài như các ngân hàng kỳ vọng. Theo nhận định của các chuyên gia thì việc thu hút vốn là một khó khăn đối với các ngân hàng vì người giữ tiền đang có nhiều lựa chọn khi chứng khoán và bất động sản bắt đầu ấm lại, đầu tư vàng, ngoại tệ vẫn còn sôi động. Không chỉ vậy, khi kinh tế còn biến động, người gửi tiền thường có tâm lý gửi tiền ngắn hạn để ứng phó với biến động thị trường. Hơn nữa, khi các ngân hàng tạo ra xu thuế tăng lãi suất, người gửi tiền cũng có tâm lý gửi ngắn hạn để có thể quay vòng nhanh khi lãi suất tăng cao hơn trong các giai đoạn tiếp theo. 3.2.2.2.Lãi suất huy động tăng nhưng các ngân hàng vẫn khó hút vốn Vốn huy động ngắn hạn trên thị trường hiện cũng không dồi dào như năm trước, do các kênh đầu tư khác đã có dấu hiệu phục hồi. Nó được thể hiện đỉnh lãi suất huy động đã được thiết lập ở mức 10,1% /năm trong ngày 16/6/2009 tại HDBank cho kỳ hạn 36 tháng và xu hướng chung của lãi suất được nhiều chuyên gia ngành ngân hàng dự báo, sẽ tiếp tục tăng cùng với nhiều chương trình khuyến mãi tiết kiệm được ngân hàng tung ra. Song do lãi suất tăng chủ yếu ở kỳ hạn dài ngày, từ 18 tháng trở lên, nên vẫn khó thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư. Trong khi đó dư nợ tiếp tục được cải thiện. Đến cuối tháng 5/2009, số dư huy động bình quân của Dong Á Bank đạt 31.368 tỷ đồng, tăng 27,5% so với cùng kỳ năm 2008, bằng 98% kế hoạch năm 2009; dư nợ tín dụng đạt 26.999 tỷ đồng, tăng 23,2% so với cùng kỳ và bằng 100% kế hoạch. Hiện lãi suất tiền gửi tăng mạnh ở một số ngân hàng quy mô vừa và nhỏ. Chẳng hạn, ABBank có ABBank có 2 sản phẩm tiết kiệm mới với lãi suất rất hấp dẫn lên tới 9,99%/năm. Lãi suất cao nhất áp dụng cho kỳ hạn 18 tháng tại DaiA Bank hiện là 8,6%/năm. Gửi tiết kiệm tại OCB từ ngày 16/6, khách hàng sẽ được tặng lãi suất thưởng tùy theo số tiền gửi. Ngoài ra, khi sổ tiết kiệm đến hạn, khách hàng tiếp tục gửi lại (với số tiền không hạn chế) thì sẽ được tặng lãi suất thưởng lên đến 0,50%/năm… So với đầu năm 2009, lãi suất tiền gửi đã tăng bình quân khoảng 2%/năm tùy từng kỳ hạn khác nhau, cho dù NHNN tiếp tục giữ nguyên lãi suất cơ bản. Các dự báo được đưa ra từ nhiều chuyên gia cũng cho thấy, khả năng lãi suất cơ bản sẽ tiếp tục ổn định trong những tháng tới, không thay đổi nhiều so với hiện nay. Thế nhưng, trước xu hướng tín dụng tăng trưởng mạnh qua mấy tháng qua, GVHD: Th.S Trần Bá Trí Trang 17 SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang
  18. Chuyên đề tài chính ngân hàng các ngân hàng đã chạy đua tăng lãi suất, song vẫn khó hút được nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư. Nguyên nhân chính là do giá chứng khoán tăng mạnh đã thu hút nguồn tiền tiết kiệm. Những người có tiền nhàn rỗi cũng muốn thử sức và tìm cơ hội lợi nhuận cao gấp hai, gấp ba, thậm chí gấp 10 lần trên sàn chứng khoán, thay vì gửi ở ngân hàng như năm trước. Trên thực tế, so với năm 2008, hiện lãi suất tiền gửi đã giảm xuống 2/3. Trong khi đó, chứng khoán đã tăng từ dưới 250 điểm lên gần 500 điểm trong thời gian gần đây. Ngoài ra, bất động sản đã giảm giá khá mạnh so với đợt “sốt” năm 2007 và năm 2008, nên nhiều người đã rút tiền gửi tiết kiệm ngân hàng để sở hữu nhà, đất.Với những người có nhu cầu về nhà ở thực sự cũng bắt đầu vay vốn ngân hàng trở lại, bên cạnh phần vốn tự có để tranh thủ mua nhà, đất dưới dạng trả góp. Do đó, ngoài áp lực chứng khoán, bất động sản, ngân hàng còn phải tăng tốc huy động tiền nhàn rỗi để đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng tranh thủ cơ hội mở rộng tín dụng cá nhân. Đây cũng là lý do khiến nhiều ngân hàng tiếp tục điều chỉnh lãi suất tiền gửi VND. Vì với tín dụng tiêu dùng, ngân hàng được thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận. Không chỉ khó với nguồn vốn huy động trung, dài hạn (dù lãi suất áp dụng các kỳ hạn dài ngày luôn cao hơn ngắn ngày), vốn huy động ngắn hạn hiện cũng không dồi dào như năm trước, do các kênh đầu tư khác đã có dấu hiệu phục hồi. Lãi suất huy động của bình quân thị trường liên ngân hàng là 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng với mức lãi suất tương đối hấp dẫn cho khách hàng. Song do lãi suất tăng chủ yếu ở kỳ hạn dài ngày, từ 18 tháng trở lên, nên vẫn khó thu hút được vốn nhàn rỗi trong dân cư. Trong khi đó, tăng trưởng dư nợ tiếp tục được cải thiện. Số liệu thống kê hoạt động 5 tháng đầu năm của các ngân hàng cho thấy, tỷ lệ dư nợ tăng cao, đạt gần bằng tốc độ huy động vốn. Bảng 3: LÃI SUẤT BÌNH QUÂN THỊ TRƯỜNG LIÊN NGÂN HÀNG TRONG THÁNG 6/2009 (Đơn vị tính: %/năm) Kỳ hạn 1 tháng 3 tháng 6 tháng 12 tháng VND 7,33 8,14 7,95 8,48 USD 1,18 1,62 0,95 2,09 (Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam) Đến cuối tháng 5/2009, số dư huy động bình quân của DongA Bank đạt 31.368 tỷ đồng, tăng 27,5% so với cùng kỳ năm 2008, bằng 98% kế hoạch năm GVHD: Th.S Trần Bá Trí Trang 18 SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang
  19. Chuyên đề tài chính ngân hàng 2009; dư nợ tín dụng đạt 26.999 tỷ đồng, tăng 23,2% so với cùng kỳ và bằng 100% kế hoạch năm. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, khoảng 2 tháng trở lại đây, tỷ lệ dư nợ luôn tăng cao hơn huy động vốn. Hiện lãi suất tiền gửi tăng mạnh ở một số ngân hàng quy mô vừa và nhỏ. Chẳng hạn, ABBank có 2 sản phẩm tiết kiệm mới với lãi suất rất hấp dẫn lên tới 9,99%/năm. Lãi suất cao nhất áp dụng cho kỳ hạn 18 tháng tại DaiA Bank hiện là 8,6%/năm. Gửi tiết kiệm tại OCB từ ngày 16/6, khách hàng sẽ được tặng lãi suất thưởng tùy theo số tiền gửi. Ngoài ra, khi sổ tiết kiệm đến hạn, khách hàng tiếp tục gửi lại (với số tiền không hạn chế) thì sẽ được tặng lãi suất thưởng lên đến 0,50%/năm… So với đầu năm 2009, lãi suất tiền gửi đã tăng bình quân khoảng 2%/năm tùy từng kỳ hạn khác nhau, cho dù NHNN tiếp tục giữ nguyên lãi suất cơ bản. Các dự báo được đưa ra từ nhiều chuyên gia cũng cho thấy, khả năng lãi suất cơ bản sẽ tiếp tục ổn định trong những tháng tới, không thay đổi nhiều so với hiện nay. Thế nhưng, trước xu hướng tín dụng tăng trưởng mạnh 2 tháng qua, các ngân hàng đã chạy đua tăng lãi suất, song vẫn khó hút được nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư. Nguyên nhân chính là do giá chứng khoán tăng mạnh đã thu hút nguồn tiền tiết kiệm. Những người có tiền nhàn rỗi cũng muốn thử sức và tìm cơ hội lợi nhuận cao gấp hai, gấp ba, thậm chí gấp 10 lần trên sàn chứng khoán, thay vì gửi ở ngân hàng như năm trước. Trên thực tế, so với năm 2008, hiện lãi suất tiền gửi đã giảm xuống 2/3. Trong khi đó, chứng khoán đã tăng từ dưới 250 điểm lên gần 500 điểm trong thời gian gần đây. Ngoài ra, bất động sản đã giảm giá khá mạnh so với đợt “sốt” năm 2007 và năm 2008, nên nhiều người đã rút tiền gửi tiết kiệm ngân hàng để sở hữu nhà, đất. Với những người có nhu cầu về nhà ở thực sự cũng bắt đầu vay vốn ngân hàng trở lại, bên cạnh phần vốn tự có để tranh thủ mua nhà, đất dưới dạng trả góp. Do đó, ngoài áp lực chứng khoán, bất động sản, ngân hàng còn phải tăng tốc huy động tiền nhàn rỗi để đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng tranh thủ cơ hội mở rộng tín dụng cá nhân. Đây cũng là lý do khiến nhiều ngân hàng tiếp tục điều chỉnh lãi suất tiền gửi VND. Vì với tín dụng tiêu dùng, ngân hàng được thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận. Không chỉ khó với nguồn vốn huy động trung, dài hạn (dù lãi suất áp dụng các kỳ hạn dài ngày luôn cao hơn ngắn ngày), tổng giám đốc một ngân GVHD: Th.S Trần Bá Trí Trang 19 SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang
  20. Chuyên đề tài chính ngân hàng hàng cho biết, vốn huy động ngắn hạn hiện cũng không dồi dào như năm trước, do các kênh đầu tư khác đã có dấu hiệu phục hồi. Bảng 4: LÃI SUẤT HUY ĐỘNG CỦA LIÊN NGÂN HÀNG TRONG THÁNG 6/2009 Lãi suất huy Không kỳ 3 tháng 6 tháng 12 tháng động bình Loại tiền hạn (% năm) (% năm) (% năm) quân (% năm) Nhóm VND 2,88 7,52 7,71 8,05 NHTMNN USD 0,22 1,14 1,30 1,50 Nhóm VND 2,91 7,91 8,19 8,42 NHTMCP USD 0,41 1,49 1,66 1,99 (Nguồn: theo vntrade.com, 6/2009) Mặt khác, lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND của nhóm Ngân hàng thương mại nhà nước phổ biến ở mức từ 8,5-10%/năm, trung và dài hạn từ 10- 10,5%/năm. Lãi suất cho vay VND của nhóm NHTMCP phổ biến ở mức từ 10- 10,5%/năm. Lãi suất cho vay sau khi trừ đi phần hỗ trợ lãi suất phổ biến ở mức từ 4,5-6%/năm. Lãi suất cho vay thỏa thuận đối với các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng phổ biến từ 12-16,5%/năm. Lãi suất cho vay USD tương đối ổn định so với tuần trước. Hiện tại lãi suất cho vay ngắn hạn bằng USD của nhóm Ngân hàng thương mại nhà nước phổ biến ở mức 3%/năm, trung và dài hạn từ 3,5-5%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng USD của nhóm NHTMCP phổ biến ở mức từ 3-5%/năm, trung và dài hạn từ 4-6%/năm. Theo NHNN, hoạt động ngân hàng và thị trường tiền tệ trong nước ổn định; lãi suất cho vay ổn định so với tuần trước. Đến ngày 11/6/2009, lãi suất huy động bằng VND kỳ hạn 12 tháng của các ngân hàng thương mại nhà nước ở mức khoảng 8,05 %/năm, của các ngân hàng thương mại cổ phần ở mức khoảng 8,42%/năm. Lãi suất cho vay bằng VND của khối ngân hàng thương mại Nhà nước phổ biến ở mức 8,5-10%/năm đối với cho vay ngắn hạn, 10-10,5%/năm đối với cho vay trung và dài hạn, lãi suất cho vay đối với các khoản cho vay được hỗ trợ lãi suất là 4-6%/năm; lãi suất cho vay bằng VND của khối ngân hàng thương mại cổ phần phổ biến ở mức 10-10,5%/năm, lãi suất cho vay phục vụ nhu cầu đời sống và cho vay thông qua thẻ tín dụng phổ biến ở mức 12-16,5%/năm. GVHD: Th.S Trần Bá Trí Trang 20 SVTH: Huỳnh Thị Thùy Trang
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1