LUẬN VĂN: Tình hình thực hiện luật thuế GTGT của một số doanh nghiệp kinh doanh thương mại trên địa bàn Quận Hoàn Kiếm – Hà Nội
lượt xem 36
download
Tham khảo luận văn - đề án 'luận văn: tình hình thực hiện luật thuế gtgt của một số doanh nghiệp kinh doanh thương mại trên địa bàn quận hoàn kiếm – hà nội', luận văn - báo cáo, tài chính - kế toán - ngân hàng phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Tình hình thực hiện luật thuế GTGT của một số doanh nghiệp kinh doanh thương mại trên địa bàn Quận Hoàn Kiếm – Hà Nội
- LUẬN VĂN: Tình hình thực hiện luật thuế GTGT của một số doanh nghiệp kinh doanh thương mại trên địa bàn Quận Hoàn Kiếm – Hà Nội
- Lời mở đầu Đối với bất kỳ một Quốc gia nào thì thuế cũng đóng một vai trò quan trọng và chiếm phần lớn trong tổng thu Ngân sách nhà nước. Việc thực thi một chính sách thuế có hiệu quả sẽ đảm bảo ổn định cho nguồn thu này, từ đó tạo điều kiện mở rộng sản xuất và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việt Nam, theo thống kê của tổng cục thuế thì 92% Ngân sách nhà nước là thu từ thuế nên cần phải có chính sách thuế hoàn chỉnh mà muốn vậy luật thuế đưa ra phải có phương pháp tính thuế hợp lý nhằm đảm bảo sự công bằng cho các đối tượng nộp thuế kết hợp với việc hạch toán thuế tại các doanh nghiệp phải đúng chế độ kế toán, tài chính và quy định của pháp luật. Nếu như trước đây trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, thuế lợi tức, thuế hàng hoá và thuế Doanh thu tỏ ra tương đối phù hợp và góp phần không nhỏ vào thu Ngân sách nhà nước thì khi chuyển sang nền kinh tế thị trường những loại thuế này trở nên không còn phù hợp, mắc phải nhiều nhược điểm. Chính vì vậy đến ngày 01/01/1999 một luật thuế mới ra đời, đó là thuế GTGT tạo nên bước ngoặt trong quá trình cải cách thuế giai đoạn II của nước ta. Về mặt lý thuyết, thuế GTGT mang tính khoa học rất cao, có khả năng tạo được công bằng trong việc thu thuế, thúc đầy xuất khẩu, khuyến khích phát triển sản xuất, bảo đảm nguồn thu cho Ngân sách nhà nước. Đặc biệt là sau hơn ba năm thực hiện luật thuế GTGT, chúng ta đã đạt được một số khích lệ. Tuy nhiên do thuế GTGT là một phương pháp đánh thuế tiên tiến, nhưng còn rất mới đối với Việt Nam nên không tránh khỏi những vướng mắc trong quá trình thực hiện. Trong thời gian công tác và học tập tại chi cục thuế Quận Hoàn Kiếm thành phố Hà Nội cùng với những kiến thức tiếp thu tại trường kết hợp cùng thực tiễn nghiên cứu tìm tòi, nhận thức được vai trò quan trọng của các doanh nghiệp đối với Ngân sách nhà nước, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Tình hình thực hiện luật thuế GTGT của một số doanh nghiệp kinh doanh thương mại trên địa bàn Quận Hoàn Kiếm – Hà Nội ”. Nội dung của bản báo cáo thực tập gồm ba chương: Chương I : Những lý luận chung về thuế GTGT.
- Chương II: Tình hình đăng ký, kê khai và thanh quyết toán thuế GTGT của một số doanh nghiệp kinh doanh thương mại trên địa bàn Quận Hoàn Kiếm trong thời gian qua. Chương III: Đánh giá và đề xuất. Mục đích của đề tài này là qua nghiên cứu số liệu, tìm hiểu tình hình đăng ký, kê khai và thanh quyết toán thuế GTGT tại một số doanh nghiệp kinh doanh thương mại điển hình áp dụng thuế theo phương pháp khấu trừ trên địa bàn Quận Hoàn Kiếm để từ đó tìm ra nguyên nhân và đưa ra một số đề xuất - giải pháp nhằm làm hoàn thiện hơn luật thuế GTGT.
- Chương I Những lý luận chung về thuế giá trị gia tăng. I. Sơ lược về thuế nhà nước: 1.Khái niệm về thuế: Thuế là một phạm trù lịch sử, nó phát triển và tồn tại cùng với sự ra đời tồn tại và phát triển của nhà nước.Có thể khẳng định rằng, dưới bất kỳ chế độ xã hội nào khi đă có Nhà nước phải có thuế. Sự xuất hiện của Nhà nước đòi hỏi phải cơ sở vật chất để đảm bảo điều kiện cho Nhà nước tồn tại và thực hiện các chức năng của mình.Nhà nước dùng quyền lực chính trị của mình để ban hành những quy định pháp luật cần thiết nhằm làm công cụ phân phối lại một phần của cải xã hội và hình thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước. Đồng thời, sự xuất hiện của sản phẩm thặng dư trong xã hội cũng là cơ sở chủ yếu tạo khả năng và nguồn thu để thúc đẩy tồn tại và phát triển của Nhà nước. Thế nên thuế ra đời là một tất yếu khách quan xuất phát từ nhu cầu đáp ứng chức năng của nhà nước. Nhà nước sử dụng luật thuế như một cung cụ quan trọng đế điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thuế không những là nguồn thu nhập chủ yếu của ngân sách nhà nước mà còn ảnh hưởng lớn đến công cuộc phát triển kinh tế. Nhiệm vụ chính trị của mỗi Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử, đặc điểm của phương thức sản xuất, kết cấu giai cấp là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến vai trò, nội dung và đặc điểm của thuế khoá. Mặt khác, bản chất của thuế tuỳ thuộc vào bản chất nhà nước sinh ra nó. Nếu như trước thời kỳ phong kiến, hình thái ban đầu của thuế chỉ là hiện vật ngày công lao động thì đến chủ nghĩa tư sản cho đến nay, thuế đã chuyển sang hình thái phổ biến là tiền tệ và các sắc thuế khác nhau cũng không ngừng hòan thiện. Nhưng cơ cấu và nội dung cả hệ thống và từng sắc thuế phải được nghiên cưú, sửa đổi, bổ sung cải tiến và đổi mới để kịp thời thích hợp với tình hình, nhiệm vụ hợp tác, đủ sức thực hiện các quy định của pháp luật về thuế đã được nhà nước ban hành trong từng thời kỳ.
- Khái niệm về thuế nhà nước, chưa có về sự thống nhất tuỳ thuộc vào từng đối tượng mà có những khái niệm về thuế khác nhau: - Đối với nhà nước, thuế là nguồn thu nhập chủ yếu của ngân sách nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chỉ tiêu cho mục đích kinh tế xã hội. - Đối với các tổ chức và mọi thành viển trong xã hội khoản thu này mang tính chất bắt buộc theo pháp luật, không hoàn trả trực tiếp. - Đối với người nộp thuế: thuế là khoảng đóng góp có tính chất bắt buộc mà các tổ chức kinh tế hay người kinh doanh phải thực hiện theo luật định nộp vào ngân sách nhà nước để đáp ứng nhu cầu chỉ tiêu của bộ máy nhà nước. Tóm lại, thuế là một khoản thu mang tính chất bắt buộc gắn liền với quyền lực chính trị của nhà nước bằng các sắc lệnh do nhà nước quy định. Nó được thể hiện thông qua luật và văn bản dưới luật được cơ quan nhà nước quyền lực cao nhất ban hành đó là Quốc hội. Thuế được tập trung vào ngân sách nhà nước, đáp ứng các nhu cầu chỉ tiêu của mục đích: phát triển kinh tế, văn hoá xã hội, quản lý nhà nước và an ninh quốc phòng. Một phần thuế đã nộp đảm bảo cho công bằng xã hội thông qua việc trả lại cho người dân một cách gián tiếp dưới hình thức trợ cấp xã hội, phúc lợi xã hội và tiêu dùng xã hội khác. Nền kinh tế càng phát triển, xã hội càng công bằng văn minh thì yêu cầu phải có một hệ thống thuế khoá phù hợp càng cao. Chúng ta phải luôn luôn đổi mới, bổ xung không ngừng hoàn thiện hệ thống thuế hiện hành và phát huy vai trò lớn của nó phục vụ cho nhà nước, cho quốc gia của mình. 2. Đặc điểm của thuế: * Thuế là một biện pháp tài chính của nhà nước được thiết lập trên nguyên tắc lập định, mang tính quyền lực, tính cưỡng chế và tính pháp lý cao. Đồng thời khi được thực hiện thì có thể làm thay đổi quyền sở hữu về tài sản. * Thuế bao giờ cũng chứa đựng các yếu tố thuộc về kinh tế xã hội. Thế nên việc xác lập một hệ thống các loại sắc thuế khác nhau, trước hết bắt nguồn từ sự chi tiêu của nhu
- cầu nhà nước, song trong thực thế mức độ động viên qua thuế bao giờ cúng chịu sự giàng buộc của các yếu tố kinh tế và xã hội của một quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử. * Thuế là khoản đóng góp không mang tính chất hoàn trả trực tiếp. 3.Phân loại thuế: Tuỳ theo mục đích, yêu cầu của việc xem xét, đánh giá phân tích và phân loại các sắc thuế mà có các cách phân loại sau: Phân loại theo tính chất chuyển giao của thuế: * Thuế trực thu: là người trực tiếp nộp thuế đồng thời là người chịu thuế. Ví dụ: Thuế nhập doanh nghiệp, thuế nhập cá nhân… * Thuế gián thu: là loại thuế đánh vào người tiêu dùng thông qua giá cả hàng hoá và dịch vụ, đồng thời người chịu thuế gián thu và người nộp thuế không đồng nhất. Ví dụ: Thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu… Phân loại theo đối tượng tính thuế: * Thuế đánh vào sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Ví dụ: Thuế doanh thu. * Thuế đánh vào sản phẩm hàng hoá. Ví dụ: Thuế tiêu thụ đặc biệt. * Thuế đánh vào việc sử dụng tài sản của nhà nước. Ví dụ: Thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp… Phân loại theo hình thức thuế: * Thuế bằng hiện vật. Ví dụ: Thuế nông nghiệp thu bằng thóc. * Thuế bằng tiền. Ví dụ: Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu…
- 3.4Phân loại thuế theo quan hệ điều của thuế: * Thuế tỉ lệ cố định. * Thuế tích lũy tiến. * Thuế luỹ thoái. 4. Các yếu tố cấu thành thuế: 4.1 Tên gọi: Là cách quy ước gọi tên thuế do nhà nước quy định nhằm chỉ rõ loại sắc thuế nào đó theo tính chất của chúng. Ví dụ: Thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp… 4.2 Đối tượng nộp thuế: Là những cơ sở kinh doanh được Nhà nước công nhận về mặt pháp luật có các hoạt động kinh doanh, tài sản hoặc thu nhập thuộc phạm vi điều tiết của thuế. Ví dụ: Các cơ sở kinh doanh có thu nhập phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp… 4.3 Đối tượng tính thuế: Là căn cứ để từ đó tính ra tiền thuế. Đối tượng tính thuế là một yếu tố cần thiết của sắc thuế và phải triệt nhiều mặt của chính sách động viên đối với thuế đó. Ví dụ: Tất cả các hàng hoá và dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trên lãnh thổ Việt Nam là đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng. 4.4 Thuế suất, mức thuế: - Thuế suất: là linh hồn của sắc thuế, biểu hiện yêu cầu động viên trên đối tượng tính thuế. - Mức thuế: là số thuế phải nộp cho ngân sách nhà nước căn cứ vào giá trị tính thuế và thuế suất. 4.5 Giá tính thuế: Là giá cả hàng hoá, dịch vụ, tài sản, súc vật…làm căn cứ tính thuế.
- Ví dụ: Giá tính thuế của một vô tuyến Sony là giá bán của của hãng hay giá mua của khách hàng. 4.6 Chế độ miễn giảm thuế: Là số thuế được quy định về trách nhiệm và cách thức nộp thuế của đối tượng nộp thuế trước cơ quan hữu quan.Thủ tục nộp thuế là căn cứ pháp lý để thực hiện nộp thuế đúng, đủ, kịp thời. 4.7 Thủ tục nộp thuế: Bao gồm những quy định về trách nhiệm và cách thức nộp thuế của đối tượng nộp thuế trước cơ quan hữu quan. Thủ tục nộp thuế là căn cứ pháp lý để thực hiện nộp thuế đúng, đủ, kịp thời. 4.8 Xử lý các trường hợp vi phạm: Tuỳ theo mức độ nặng nhẹ về việc vi phạm các quy định của luật thuế ban hành mà bị cảnh cáo. phạt tiền hay truy tố trước pháp luật. 5 Vai trò của thuế: 5.1 Thuế là công cụ tạo lập nên nguồn thu chủ yếu cho ngân sách nhà nước vì: - Thuế là một khoản đóng góp mang tính chất pháp lệnh của Nhà nước đối với tổ chức, cá nhân trong xã hội - Thuế là một khoản mang tính chất ổn định. - Thuế không trả trực tiếp cho người nộp mà thông qua các quá trình thực hiện các chức năng của mình. - Hình thức thu thuế bao quát các hoạt động sản xuất kinh doanh, các nguồn thu nhập và mọi tiêu dùng trong xã hội Thuế bảo đảm được tính tự chủ trong cân đối ngân sách. - Việc thu thuế thể hiện một nền tài chính quốc gia lành mạnh. 5.2 Thuế là công cụ quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế của nhà nước: Thuế tác dụng trực tiếp đến giá cả và thu nhập. Một phần thu nhập của người tiêu dùng là khoản đóng thuế. Đồng thời, thuế cũng là một trong những biện pháp chế ngự
- lạm phát.Vì vậy, dựa vào công cụ thuế mà nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc tích luỹ và đầu tư, khuyến khích kinh tế phát triển công bằng lành mạnh. 5.3 Thuế là công cụ góp phần điều hoà thu nhập và thực hiện bình đẳng, công bằng xã hội: Nền kinh tế hàng hoá thị trường sẽ tạo ra hai thái cực đối lập nhau đó là: giàu- nghèo nếu không có sự can thiệp của Nhà nước để phân phối thu nhập trong xã hội. Trên thực tế, sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đều do những đóng góp nỗ lực của toàn dân, của mỗi thành viên trong xã hội.Vì vậy để có được sự công bằng thì tất cả mọi người đều được hưởng thành quả của sự phát triển kinh tế đó. Do đó, sự can thiệp của Nhà nước trong việc phân phối lại thu nhập thông qua công cụ đặc biệt là thuế là hết sức quan trọng, góp phần tạo sự cân bằng và bình đẳng xã hội. II.Thuế giá trị gia tăng ( GTGT ): 1. Khái niệm “giá trị gia tăng” và thuế GTGT : Lịch sử ra đời của thuế GTGT: thuế GTGT có nguồn gốc từ thuế doanh thu. Từ sau Đại chiến hế giới lần thứ nhất (1914-1918), thuế doanh thu đã được nghiên cứu, áp dụng nhằm động viên đóng góp rộng rãi của quảng đại quần chúng nhân dân cho nhu cầu chi tiêu của nhà nước, để nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh.Thuế doanh thu được áp dụng ở Pháp từ năm 1917. Thời kỳ đầu, thuế doanh thu chỉ áp dụng ở giai đoạn cuối cùng ở quá trình lưu thông hàng hoá với thuế suất thấp. Đầu năm 1920, thuế doanh thu được điều chỉnh, đánh vào từng khâu của quá trình sản xuất. Qua trưc tiếp, cách đánh thuế này đã bộc lộ rõ nhược điểm đó là thuế tính chồng chéo, trùng lặp. Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, thuế doanh thu vẫn tồn tại nhược điểm trên. Để khắc phục việc thu thuế chồng chéo trong quá trình sản xuất, năm 1954, Chính phủ Pháp đã ban hành loại thuế mới có tên gọi: “Ta xe Sur La Valeur ajoutea” (viết tắt là TVA), theo tiếng anh là “ Value added Tax” (viết tắt là VAT), theo tiếng việt là “thuế giá trị gia tăng”. Đến năm 1966, trong xu hướng cải tiến hệ thống thuế “ đơn giản, hiện đại” nói chung ở Châu Âu, TVA được ban hành chính thức để thay thế một số sắc thuế gián thu. Năm 1986, lưu thông hàng hoá, dịch vụ, nhằm đáp ứng lại mục tiêu quan trọng: bảo đảm
- số thu kịp thời, thường xuyên cho ngân sách nhà nước, và khắc phục thu thuế từng lặp lại của thuế doanh thu. ở thời điểm này, thuế GTGT được áp dụng ở 130/210 quốc gia trên thế giới và trở thành nguồn thu quan trọng của nhiều nước. ở niềm Nam - Việt Nam trước năm 1975 chính quyền Sài Gòn cũng đã ban luật thuế GTGT trùng với thời điểm cải cách thuế 1972. Ngày 05/ 07/1993, được Chính phủ cho phép, Bộ Tài Chính đã có quyết định số đơn vị được chọn làm thí điểm như: nhà máy xi măng Bỉm Sơn, nhà máy đường Biên Hoà, công ty dệt kim Đông Xuân… Tuy nhiên việc thực hiện thí điểm đã không mang lại kết quả do hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong xã hội có mối quan hệ chặt chẽ lẫn nhau, từ quá trình cung cấp nguyên vật liệu đến quá trình tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, VAT không thể thực hiện riêng rẽ ở một khâu hay một số doanh nghiệp. Nhận thấy cần phải có một chính sách thuế phù hợp nên tại kỳ họp thứ XI, Quốc hội khoáIX, từ ngày 02/04 đến ngày 10/05/1997 đã thông qua Luật thuế GTGT và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999 thay cho luật thuế doanh thu. Chính phủ có Nghị định 79/2000 hướng dẫn nghị định số 79/2000/TT-BTC ngày 29/12/2000 của Chính phủ. Thông tư này thay thế các Thông tư hướng dẫn về thuế GTGT, ta hãy xét những điểm giống nhau và khác nhau của hai luật thuế này: Những điểm giống nhau: Thuế GTGT và thuế doanh thu là thuế gián thu đánh vào người tiêu dùng hàng hoá được cung ứng dịch vụ. Thuế này do người sản xuất - kinh doanh, dịch vụ nộp nhà nước , nhưng thực chất người tiêu dùng là người chịu thuế. Nhà doanh nghiệp là người đóng vai trò là người thu hộ cho nhà nước, họ đã cộng số thuế gián thu phải nộp vào giá bán sản phẩm hoặc giá dịch vụ để người tiêu dùng trả nên họ phải nộp thuế đầy đủ số thuế thu hộ này vào ngân sách nhà nước. Thuế gián thu đảm bảo cho người tiêu dùng có thể tự do lựa chọn hàng hoá để chịu thuế cao hay tuỳ thuộc vào túi tiền, sở thích của mình. Thuế tránh được mối quan hệ trực tiếp giữa người tiêu dùng và người chịu thuế nên có phần dễ thu hơn thuế trực thu.Đồng
- thời, dễ điều chỉnh mức thuế tăng lên vì thuế gián thu thường nằm ẩn trong giá cả hàng hoá, dịch vụ. Về mặt quản lý, thuế GTGT và thuế doanh thu không quan tâm đến các chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ của doanh nghiệp, nên chi phí có phần thấp hơn thuế trực thu. Những điểm khác nhau: - Thuế GTGT chỉ đánh vào mức giá trị tăng thêm sản phẩm ở từng khâu sản xuất kinh doanh, lưu thông. Nhưng thuế doanh thu lại đánh trên toàn bộ doanh thu sản phẩn, qua mỗi lần chuyển dịch từ sản xuất đền lưu thông. - Thuế GTGT có khấu trừ đã nộp ở giai đoạn trước.Thuế doanh thu không khấu trừ ở giai đoạn trước. - Tổng số thuế GTGT thu đối với từng sản phẩm không phụ thuộc vào sự tổ chức và phân chia các chu kỳ kinh tế. - Thuế GTGT thường có ít thuế suất hơn thuế doanh thu nên có phần đơn giản, rõ ràng, dễ thực hiện hơn thuế doanh thu. Sau khi tìm hiểu rõ về điểm giống nhau và khác nhau của thuế GTGT và thuế doanh thu ta thấy rõ ưu điểm và nhược điểm của thuế GTGT. 1.1.3 Ưu điểm: - Thuế GTGT khắc phục được việc thu trùng lặp của thuế doan thu.Đối với hàng xuất khẩu không những không phải nộp thuế GTGT mà còn được khấu trừ hoặc trả lại số thuế GTGT đầu vào, tạo điều kiện để hạ giá bán, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường Quốc tế, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu. - Thuế GTGT có diện điều chỉnh rộng áp dụng với tất cả các loại sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, sản xuất, cung cấp trong nước và hàng hoá nhập khẩu. Diện điều chỉnh của thuế GTGT có phạm vi rộng, bao trùm lên mọi tổ chức, cá nhân, thuộc mọi lĩnh vực sản xuất – kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. Lý do là thuế GTGT đánh vào tiêu dùng của mọi người trong xã hội kể cả hàng hoá nhập khẩu.
- - Thuế GTGT được thực hiện thống nhất, chặt chẽ theo nguyên tắc căn cứ vào hoá đơn mua hàng hoá để khấu trừ phần thuế đã nộp ở khâu trước,vì vậy khuyến khích các cơ sở sản xuất – kinh doanh khi mua bán hàng hoá phải sử dụng hoá đơn và hạn chế những sai sót, gian lận trong việc ghi chép hoá đơn, đồng thời đưa mọi hoạt động kinh tế vào nề nếp, tạo điều kiện cho việc kiểm tra, kiểm soát của cơ quan chức năng, giúp chính phủ có những biện pháp hữu hiệu trong việc điều hành vĩ mô nền kinh tế. - Thuế GTGT có ít mức thuế suất hơn so với thuế Doanh thu do đó đơn giản hơn, dễ hiểu hơn, dễ áp dụng và dễ kiểm tra hơn thuế Doanh thu. - Hạn chế được việc thất thu thuế do thuế GTGT được tập trung ngay từ đầu mà thu thuế ở khâu sau còn kiểm tra được việc tính thuế, nộp thuế ở khâu trước, đảm bảo động viên số thu quan trọng và tương đối ổn định cho ngân sách Nhà nước. - Tăng cường công tác hoạch toán và thúc đẩy việc mua bán hàng hoá ở khâu đơn, chứng từ. Việc tính thuế ở đầu ra được khấu trừ số thuế đầu vào là biện pháp kinh tế góp phần thúc đẩy cả người mua và người bán thực hiện tốt chế độ hoá đơn, chứng từ. - Góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế phù hợp với sự vận động và phát triển của nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện mở rộng hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và thế giới , phù hợp với xu thế cải cách thuế ở các nước trên thế giới. Nhược điểm: Rõ ràng thuế GTGT có nhiều ưu điểm nổi bật hơn thuế Doanh thu. Mục đích chủ yếu của việc áp dụng thuế GTGT là tạo thêm lợi nhuận cho các doanh nghiệp phát triển và không nhằm mục đích tăng thêm mức động viên. Bên cạnh những ưu điểm nổi bật so với thuế Doanh thu, thuế GTGT bước đầu áp dụng ở nước ta không tránh khỏi những vướng mắc nhất định như: - Thuế GTGT đòi hỏi phải có quy trình quản lý chặt chẽ, nghiêm ngặt. Trong khi điều kiện nền kinh tế nước ta từ một điểm xuất phát thấp, nhận thức của các cơ sở kinh doanh và người tiêu dùng về chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ còn chưa cao, do đó chi phí cho quản lý thu thuế GTGT sẽ tốn kém hơn so với thực hiện luật thuế Doanh thu.
- - Thuế GTGT có rất ít mức thuế sút cho nên người tiêu dùng có thu nhập cao hay thấp đều phải nộp thuế giống nhau. Do đó, mức động viên qua thuế GTGT của người có thu nhập thấp thực tế cao hơn người có thu nhập cao. Từ đó có khoảng cách giữa hai thái cực giàu nghèo ngày càng xa hơn, ảnh hưởng đến vấn đề xã hội. - Thuế GTGT thiếu tính linh hoạt, nềm dẻo ít mức thuế suất, phạm vi áp dụng lại rộng, cho nên chưa thích ứng ngay với nền kinh tế nước ta bước đầu chuyển sang cơ chế thị trường. Tóm lại: Tuy thuế GTGT vẫn có một số nhược điểm nhưng so với thuế Doanh thu thì thuế GTGT có nhiều ưu điểm nổi bật vượt xa những nhược điểm vốn có của nó và rất phù hợp với công cuộc phát triển công nghiệp hoá- hiện đại hoá của đất nước ta. Vì vậy, việc áp dụng thuế GTGT ở nước ta là rất cần thiết. Sự cần thiết phải áp dụng thuế GTGT ở nước ta hiện nay: Việc ban hành và thực hiện thuế GTGT ở nước ta là cần thiết vì : - Nó có thể khắc phục được những tồn tại lớn của thuế Doanh thu đó là: trùng lặp, nhiều thuế suất, chưa khuyến mạnh đối với xuất khẩu và đầu tư. - Thuế GTGT đảm bảo được mức động viên số thu cho Ngân sách nhà nước tương ứng với số thuế Doanh thu hiện hành, nhưng với ưu điểm của chính sách thuế GTGT sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh trên cơ sở tăng thu thuế cho Ngân sách nhà nước. - Thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện tốt hơn việc hạch toán kế toán và thực hiện mua bán hàng hoá dịch vụ có hoá đơn chứng từ. - Góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế ở nước ta, thúc đẩy mở rộng hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Qua những điều đã nói trên, chúng ta đã thấy được tính đúng đắn của việc thay thế luật thuế Doanh thu bằng luật thuế GTGT ở nước ta. Khái niệm “ Giá trị gia tăng ” Giá trị gia tăng là giá trị tăng thêm của một sản phẩm hàng hoá, dịch vụ khi qua mỗi một công đoạn của quá trình sản xuất, mua bán hàng hoá hay thực hiện dịch vụ. Nói cách
- khác, đây là số chênh lệch giữa giá đầu ra với giá đầu vào do các cơ sở sản xuất – kinh doanh tạo ra trong quá trình sản xuất – kinh doanh, dịch vụ. Khái niệm “ Thuế GTGT ” Thuế GTGT là loại thuế chỉ đánh vào phần giá trị gia tăng thêm qua mỗi khâu của quá trình sản xuất – kinh doanh. Thuế GTGT là một loại thuế gián thu, một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hoá, dịch vụ nhằm động viên một phần thu nhập thông qua sự đóng góp của người tiêu dùng. Tổng số thuế thu ở mỗi khâu bằng chính số thuế tính trên giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng. Bản chất của thuế GTGT: Thuế GTGT do nhà sản xuất - kinh doanh nộp hộ người tiêu dùng thông qua việc tính gộp thuế này vào giá bán mà người tiêu dùng phải thanh toán. Do vậy, thuế GTGT là một loại thuế gián thu. 2. Đối tượng nộp thuế và đối tượng tính thuế: Đối tượng nộp thuế: Theo quy định tại điều 3 Luật thuế GTGT và điều 3 Nghị định số 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000: tất cả các tổ chức, các nhân có hoạt động sản xuất – kinh doanh hàng hoá dịch vụ chịu thuế ( gọi chung là cở kinh doanh) và tổ chức cá nhân khác có nhập khẩu hàng hoá chịu thuế ( gọi chung là người nhập khẩu ) đều là đối tượng nhập thuế GTGT. Cụ thể: Doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia hợp tác kinh doanh theo luật đầu tư nước ngoài tham gia tại Việt Nam. 2.1.3 Doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn,công ty cổ phần thành lập và hoạt động theo luật pháp Việt Nam. Công ty nước ngoài và tổ chức nước ngoài hoạt động kinh doanh trên
- lãnh thổ Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 2.1.5 Các tổ chức kinh tế của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội chính trị của đơn vị sự nghiệp… 2.1.6 Những người kinh doanh độc lập, tự do, hộ gia đình các cá nhân hợp tác kinh doanh… nhưng không hình thành pháp nhân kinh doanh. Đối tượng tính thuế ( chịu thuế ): Theo quy định tại điều 2 Luật thuế GTGT và điều 2 Nghị định số 79/2000/NĐ - CP ngày 29/12/2000: tất cả hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất – kinh doanh và người tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu thuế GTGT loại trừ 26 loại hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện thuộc thuế GTGT được quy định tại điều 4 của luật này. 3. Căn cứ tính thuế GTGT: Theo điều 6 Luật thuế GTGT thì căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất. Giá tính thuế: Khái niệm: Giá tính thuế là giá bán chưa có thuế GTGT khác phải nộp, giá tính thuế GTGT là giá bán chưa có thuế GTGTđược ghi trên hoá đơn bán hàng, người cung cấp dịch vụ hoặc người nhập khẩu. Cách xác định giá tính thuế GTGT của hàng hoá dịch vụ: Theo quy định tại điều 7 Luật thuế GTGT và điều 6 nghị định số 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000, giá tính thuế GTGT của hàng hoá dịch vụ được tính như sau: * Đối với hàng hoá dịch vụ do cơ sở sản xuất – kinh doanh bán hàng ra hoặc cung ứng cho đối tượng khác là giá bán chưa có thuế GTGT. Cơ sở sản xuất – kinh doanh khi bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ phải ghi rõ trên hoá đơn các yếu tố quy định là: - Giá bán chưa có thuế GTGT. - Thuế GTGTphải nộp.
- - Giá thanh toán ( giá người mua phải trả cho người bán, trong đó có cá thuế GTGT ) * Đối với trường hợp cho thuê tài sản, tài sản cho thuê bao gồm: nhà xướng, kho, bến bãi, phương tiện vận chuyển, máy móc, thiết bị ….giá tính thuế GTGT là giá cho thuê chưa có thuế GTGT. Nếu cho thuê nhiều kỳ mà tiền thuế trả cho từng kỳ, hoặc trả trước cho từng kỳ, hoặc trả trước cho nhiều kỳ thì giá tính thuế GTGTlà số tiền thuê trả ( đã trả cho kỳ này hoặc trả nhiều cho kỳ sau ). Giá tính thuế GTGT còn bao gồm các khoản chi trả dưới nhiều hình thức khác như cho thuê nhà có thu tiền để hoàn thiện, sửa chữa nâng cấp nhà cho thuê theo yêu cầu bên thuê. Giá cho thuê tài sản do các bên thoả thuận được xác định trong hợp đồng. Trường hợp pháp luật có quy định khung giá cho thuê được xác định theo khung giá quy định. * Đối với hàng hoá bán theo phương thức trả góp, giá tính thuế GTGT là giá bán chưa có thuế GTGT của hàng hoá xuất bán tính theo giá trả một lần không tính số tiền trả hay không. * Đối với hàng hoá dịch vụ dùng để trao đổi sử dụng nội bộ biếu, tặng… giá tính thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ này được xác định theo giá tính thuế của hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh hoạt động này. Theo nghị định số 32/1999/NĐ-CP ngày 05/05/1999 về khuyến mại, quảng cáo thương mại, hội trợ triển lãm thương mại thì các sản phẩn hàng hoá dùng để khuyến mại, quảng cáo không phải tính thuế GTGT. * Đối với hàng hoá gia công, giá tính thuế là giá gia công chưa có thuế, bao gồm tiền công, tiền nhiên liệu động lực, vật liệu phụ các chi phí khác để gia công. * Đối với hàng hoá vận tải, bốc xếp giá tính thuế GTGT là giá cước vận tải, bốc xếp chưa có thuế GTGT. * Đối với hàng hoá nhập khẩu là giá nhập tại cửa khẩu Việt Nam ( CIF ) cộng với thuế phải nhập khẩu, giá nhập khẩu tại cửa làm căn cứ tính thuế GTGT được xác dịnh theo quy định về giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
- Nếu hàng hoá nhập khẩu được miễn giảm thuế nhập khẩu thị giá tính thuế GTGT là giá nhập khẩu tại cửa khẩu cộng với thuế nhập khẩu theo mức thuế đã được miễn giảm. Nếu dịch vụ do phía nước ngoài cung ứng cho đối tượng tiêu dùng tại Việt Nam thì giá chưa có thuế GTGT được xác định theo hợp đồng. Nếu trong hợp đồng lại không xác định cụ thể số thuế GTGT là giá dịch vụ mà phía Việt Nam phải trả cho người nước ngoài. * Đối với hàng hoá mang tính đặc thù dùng chứng từ như tem, bưu chính vé cước vận tải, vé xổ số kiến thiết… giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT, thuế GTGTđược tính như sau: Giá chưa có Giá thanh toán (tiền tem, tiền bán) = Thuế GTGT 1+ % thuế suất của hàng hoá dịch vụ. * Giá chưa có thuế GTGT là giá đủ tính thuế GTGTphải nộp. Giá tính thuế đối với các hàng hoá dich vụ theo quy định bao gồm cả khoản thu và phí thu thêm ngoài giá hàng hoá dịch vụ mà cơ sở kinh doanh được hường (trừ các khoản phụ thu theo chế độ của nhà nước không không tính vào doanh của cơ sở kinh doanh). * Đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ hưởng tiền công hoặc tiền hoa hồng như các đại lý mua bán hàng hoá, đại lý tầu biển… thì giá tính thuế GTGT là tiền công hoặc tiền hoa hồng được hưởng trù vào một khoảng phí tiền nào mà cơ sở thu được từ việc thực hiện các hoạt động này. - Nếu mua bán hàng hoá theo theo đúng giá bán bên chủ cửa hàng qui định chỉ hưởng hoa hồng.Thuế GTGT hàng hoá bán ra do chủ hàng khê khai nộp. - Nếu mua hoặc bán hàng hoá hoá không theo đúng qui định giá thuế GTGT lad tiền hoa hồng được hưởng. * Đối với hoạt động xây dựng và lắp đặt chưa có thuế GTGT ( không phân biệt có bao nhiêu thầu vật tư, thiết bị ).
- - Trường hợp xây dựng lắp đặt thực hiện thanh toán theo hạn mục công trình hoặc giá trị khối lượng xây dựng, lắp đặt hoàn thành bàn giao thị tính thuế tính theo hạng mục công trình hoặc giá trị khối lượng công việc hoàn thành bàn giao chưa có thuế GTGT. 3.2 Thuế suất thuế GTGT: - Luật thuế GTGT qui định 4 mức thuế suất: 0%, 5%, 10%, 20% và Bộ Tài Chính quy định cụ thể trong thông tư 89/1998/TT-BTC ngày 11/05/1998 của chính phủ qui định chi tiết thi hành luật thuế GTGT được áp dụng bắt dầu từ 01/01/1999. - Mức thuế suất, thuế GTGT trên đây được áp dụng thống nhất theo loại hàng hoá dịch vụ đối với cùng loại hàng hoá không phân biệt hàng nhập khẩu với hàng sản xuất trong nước khâu sản xuất kinh doanh chuyên nghiệp. - Theo quy định của luật thuế GTGT và các văn bản pháp luật thuế có 4 mức thuế suất như đã trình bày ở trên. Tuy nhiên tuỳ theo điều kiện hoàn cảnh cụ thể của đất nước và nền kinh tế, các cơ quan quản lý nhà nước có thảm quyền điều chỉnh thuế cho phù hợp với từng nghành nghề, từnh lĩnh vực sản xuất kinh doanh cụ thể để vừa bảo đảm tăng thu cho Ngân sách, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. 4. Phương pháp tính thuế GTGT: Có hai phương pháp tính đó là: phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp trên GTGT. 4.1 Phương pháp khấu trừ thuế. - Đối tượng áp dụng: là các đơn vị, tố chức kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế ( trừ các đối tượng áp dụng tính thuế theo phương pháp trực tiếp trên thuế GTGT ). Khi áp dụng phương pháp này yêu cầu phải sử dụng hoá đơn GTGT ). Khi lập hoá đơn phải ghi đầy đủ, đúng các yếu tố quy định và ghi rõ: giá bán chưa có thuế cả phụ thu và phí ngoài giá bán nếu có, thuế GTGT, tổng gọi là thanh toán đối người mua. Số thuế GTGT phải nộp được xác định như sau: Số thuế GTGT Số thuế GTGT Số thuế GTGT đầu = - phải nộp đầu ra vào được khấu trừ. Thuế giá trị gia tăng đầu ra:
- Công thức thuế GTGT đầu ra được xác định như sau: Thuế GTGT Giá thuế của hàng hoá Thuế xuất, thuế GTGT của = x đầu ra dịch vụ chịu thuế bán ra hàng hoá, dịch vụ nào đó Thuế GTGT đầu vào: Thuế GTGTđầu vào được xác định bằng tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGT của hàng hoá, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT của hàng hoá nhập khẩu. Tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGT mua hàng hoá Thuế GTGT dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT của hàng nhập khẩu đầu vào (hoặc số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ theo tỷ lệ %) 4.1.2.1.Trường hợp 1: Hàng hoá và dịch vụ là loại chịu thuế GTGT có hoá đơn GTGT mua vào để sản xuất, kinh doanh hàng hoá dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT của hàng hoá nhập khẩu. 4.1.2.2. Trường hợp 2: Hàng hoá, dịch vụ là loại hàng không chịu thuế GTGT mua vào để sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT được khấu trừ thuế đầu vào theo một tỷ lệ 3- 5% tính trên giá trị hàng hoá mua vào. 4.1.2.3: Trường hợp 3: Hàng hoá dịch vụ là loại chịu thuế GTGT có hoá đơn GTGT mua vào đồng thời để sản xuất, kinh doanh dịch vụ chịu thuế GTGT nhưng lhông hạch toán riêng thì thuế GTGT đầu vào được khấu trừ theo phần trăm doanh thu bán ra của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT so với tổng số. 4.1.2.4: Trường hợp 4: Hàng hoá, dịch vụ là loại thuế GTGT, có hoá đơn GTGT mua vào để sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ mang tính đặc thù mà giá thanh toán là giá trọn gói, trong giá
- trọn gói bao gồm các khoảng thuế không chịu thuế GTGT thì khoảng này được tính giảm trừ trong giá trị thuế GTGT đầu ra. 4.1.2.5: Trường hợp 5: Hàng hoá dịch vụ là loại chịu thuế GTGT, có hoá đơn GTGTmua vào để khuyến mại, tiếp thị, quảng cáo: Không tính thuế GTGTđầu vào bằng cách tính chi phí khác theo mức khống chế của chế độ hiện hành. Trường hợp 6: Hoá đơn dịch vụ là loại hàng chịu thuế GTGT, có hoá đơn GTGT mà thuế GTGT đầu vào được khấu trừ lớn hơn thuế GTGT đầu ra thì chỉ khấu trừ thuế GTGT đầu vào bằng thuế GTGT đầu ra tháng đó và khấu trừ liên tục trong 3 tháng sau hoăc yêu cầu cơ quan thuế xét hoàn thuế. 4.1.2.7. Trường hợp 7: Hàng hoá dịch vụ là loại chịu thuế GTGT không có hoá đơn GTGT. Đối với cơ sở kinh doanh bán hàng hoá - dịch vụ: thuế GTGT đầu ra phải tính trên giá thanh toán. Đối với cơ sở kinh doanh mua hàng hoá - dịch vụ: không được tính thuế khấu trừ thuế GTGTđầu vào. Phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT: Các cá nhân sản xuất, kinh doanh là người Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn, chứng từ để làm căn cứ tính theo phương pháp khấu trừ thuế. Số thuế GTGT phải nộp được xác định như sau: Số thuế GTGT Thuế GTGT của hàng hoá, dịch Thuế suất thuế GTGT của = - phải nộp vụ chịu thuế bán ra hàng hoá, dịch vụ tương ứng
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: Tình hình Lạm phát ở Việt Nam hiện nay: Nguyên nhân và giải pháp
201 p | 1078 | 270
-
Luận văn“Tình hình đầu tư phát triển ngành Công nghiệp Dệt May quốc doanh thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội”
107 p | 380 | 141
-
Luận văn Tình hình xúc tiến bán tại công ty TNHH Sản Xuất và Thương Mại Minh Sơn, thực trạng và giải pháp
81 p | 293 | 83
-
Luận văn: Tình hình cho vay vốn đối với hộ sản xuất nông nghiệp tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Giồng Riềng tỉnh Kiên Giang
73 p | 232 | 79
-
LUẬN VĂN: Tình hình thực hiện các dự án FDI ở Việt Nam trong thời gian qua
40 p | 261 | 63
-
Luận văn: Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua
48 p | 191 | 57
-
Luận văn Tình hình xuất khẩu lao động ở Việt Nam giai đoạn 2007 - 2011
32 p | 193 | 45
-
Luận văn: Tình hình hoạt động bán hàng và một số giải pháp phát triển hoạt động bán hàng bằng hình thức thương mại điện tử ở Việt Nam
46 p | 229 | 44
-
Luận văn Tình hình sử dụng nguồn nhân lực và các chínhsách phát triểnở Việt Nam
51 p | 105 | 41
-
Luận văn: Tình hình đầu tư phát triển tại Công ty TNHH nhà nước một thành viên Xây lắp Hoá chất: Thực trạng và giải pháp
90 p | 165 | 38
-
LUẬN VĂN: Phân tích thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh và hiệu quả hoạt động của xí nghiệp Điện Tử Truyền Hình trong thời gian qua
69 p | 179 | 37
-
LUẬN VĂN: Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng công thương Ba Đình
42 p | 162 | 33
-
Luận văn: Tình hình sản xuất giống cá rô đầu vuông ở Hậu Giang
36 p | 179 | 30
-
Luận văn: Tình hình phát triển và một số biện pháp thúc đẩy thị trường nhà đất tại Hà Nội
167 p | 168 | 28
-
Luận văn:Tình hình nhập khẩu thép phế liệu và các biện pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền
27 p | 200 | 28
-
Luận văn: Tình hình hoạt động về công tác tiêu thụ sản phẩm và doanh thu sản phẩm ở Công ty TNHH Thương mại An Phú
52 p | 119 | 25
-
Luận văn: Tình hình thực hiện hạch toán các nghiệp vụ kế toánvà Công tác phân tích các hoạt động kinh tế của Công ty Vận chuyển Khách Du Lịch
36 p | 154 | 18
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn