intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Tình hình triển khai áp dụng thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động bưu chính viễn thông trên địa bàn thành phố Hà nội

Chia sẻ: Pham Ly | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:75

85
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việc áp dụng thuế giá trị gia tăng thay thế thuế doanh thu hiện nay ở Việt Nam là một đòi hỏi cấp bách mang tính tất yếu khách quan, nhằm khắc phục các nhược điểm của luật thuế doanh thu, thúc đẩy phát triển sản xuất, lưu thông và xuất khẩu hàng hoá; phù hợp với xu hướng chung trên thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập với sự với sự hoạt động, phát triển kinh tế trong khu vực và quốc tế. Luật thuế giá trị gia...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Tình hình triển khai áp dụng thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động bưu chính viễn thông trên địa bàn thành phố Hà nội

  1. LUẬN VĂN: Tình hình triển khai áp dụng thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động bưu chính viễn thông trên địa bàn thành phố Hà nội
  2. Lời nói đầu Việc áp dụng thuế giá trị gia tăng thay thế thuế doanh thu hiện nay ở Việt Nam là một đòi hỏi cấp bách mang tính tất yếu khách quan, nhằm khắc phục các nhược điểm của luật thuế doanh thu, thúc đẩy phát triển sản xuất, lưu thông và xuất khẩu hàng hoá; phù hợp với xu hướng chung trên thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập với sự với sự hoạt động, phát triển kinh tế trong khu vực và quốc tế. Luật thuế giá trị gia tăng được quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kì họp thứ 11 thông qua ngày 10/5/97 và bắt đầu được triển khai áp dụng từ ngày 1/1/1999. Với việc triển khai áp dụng luật thuế gia trị gia tăng, các cơ quan quản lí - nhất là cơ quan thuế - đã chuẩn bị chu đáo kỹ càng và hoạch định bước đi thật cụ thể. Tuy nhiên, việc triển khai áp dụng luật thuế này trong công tác quản lí kinh doanh và hạch toán kế toán cụ thể của các doanh nghiệp bưu chính viễn thông còn mang nhiều nét đặc thù riêng. Trên cơ sở nhận thức như vậy, trong thời gian thực tập và nghiên cứu thực tế tai Cục thuế Hà nội, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Tình hình triển khai áp dụng thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động bưu chính viễn thông trên địa bàn thành phố Hà nội ” Nội dung đề tài gồm 3 chương: * Chương I: Thuế và sự cần thiết áp dụng thuế giá trị gia tăng. * Chương II: Tình hình triển khai áp dụng thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động bưu chính viễn thông trên địa bàn thành phố Hà nội. * Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lí thu thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động bưu chính viễn thông trên địa bàn thành phố Hà nội.
  3. Chương I: thuế và sự cần thiết áp dụng thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động bưu chính viễn thông I. Những vấn đề lí luận chung về thuế nhà nước. 1. Sự ra đời và tồn tại của thuế trong nền kinh tế thị trường. Thuế tồn tại cùng với nhà nước. Sự xuất hiện của nhà nước đòi hỏi cơ sở vật chất để đảm bảo điều kiện cho nhà nước tồn tại và thực hiện chức năng của mình. Nhà nước dùng quyền lực chính trị của mình để ban hành những qui phạm pháp luật làm công cụ phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, hình thành quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước. Mà nguồn thu đó chỉ có thể có được từ việc động viên đóng góp một phần thu nhập xã hội do các tổ chức và các tầng lớp dân cư tạo ra dưới hình thức thuế. Do đó, sự xuất hiện của thuế là một tất yếu khách quan với chức năng chủ yếu, đầu tiên là nhằm đảm bảo nguồn thu để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng trong việc củng cố bộ máy an ninh, quốc phòng, kinh tế, xã hội... hầu hết các nhà nước đều phải khai thác mọi nguồn thu dưới mọi hình thức như: vay mượn, bán tài nguyên, tài sản quốc gia.... Song hình thức động viên nguồn thu qua thuế, phí và lệ phí là phổ biến và chủ yếu nhất. Có thể nói thuế là hình thức động viên cổ xưa nhất của tài chính nhà nước. Trải qua những giai đoạn lịch sử với sự ra tăng về quyền lực và nhiệm vụ của nhà nước, thuế cũng được hoàn thiện hơn về nội dung và hình thức. Thuế tồn tại cùng với sự xuất hiện của sản phẩm thặng dư. Sự hình thành sản phẩm thặng dư trong xã hội là cơ sở chủ yếu tạo ra khả năng và các nguồn động viên về thuế. Như vậy, thuế là một phạm trù có tính lịch sử và là một tất yếu khách quan xuất phát từ nhu cầu đáp ứng chức năng của Nhà nước. Thuế phát sinh, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Nhà nước sử dụng thuế làm công cụ để thực hiện các chức năng của mình. Mặt khác, mỗi Nhà nước
  4. mang bản chất giai cấp nhất định nên thuế mang bản chất giai cấp của nhà nước sinh ra nó. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ và nửa đầu của xã hội phong kiến, nền kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào tự nhiên, tự cung, tự cấp, do đó nguồn thu chủ yếu của NSNN là hiện vật (1 bộ phận của sản phẩm thặng dư). Cơ sở chủ yếu để đánh thuế trong giai đoạn này là tài sản nên nó đem lại kết quả thấp, đặc biệt trong trường hợp thiên tai xảy ra thì thuế có thể lấy vào một phần của sản phẩm tất yếu. Đến thời kì quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản, việc đóng thuế bằng tiền ngày càng trở thành hình thức chủ yếu, giai cấp tư sản còn có nhiều hình thức thu thuế thông qua công trái, phát hành thêm giấy bạc và hình thức thu thuế bằng tiền đã dược áp dụng cho đến ngày nay. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhu cầu chi tiêu của Nhà nước ngày càng tăng lên đòi hỏi nguồn động viên qua thuế cũng ngày càng tăng. Thuế không chỉ tạo ra nguồn thu cho NSNN mà còn là công cụ để quản lí và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Vì vậy, sự tồn tại của thuế trong nền kinh tế thị trường là tất yếu. Như vây, nhiệm vụ chính của mỗi Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử, đặc điểm của phương thức sản xuất, kết cấu giai cấp là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới vai trò, nội dung và đặc điểm của thuế. Do đó, cơ cấu và nội dung của cả hệ thống nói chung cũng như của từng sắc thuế nói riêng phải được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, cải tiến và đổi mới kịp thời, thích hợp với tình hình nhiệm vụ của từng giai đoạn. Đồng thời phải giải quyết tổ chức phù hợp, đủ sức đảm bảo thực hiên các qui định pháp luật về thuế đã được Nhà nước ban hành trong từng thời kì. Hệ thống thuế được coi là phù hợp không thể chỉ nhìn vào số lượng các sắc thuế ít hay nhiều, vào mục tiêu đơn thuần về động viên tài chính mà phải được phân tích một cách toàn diện mối quan hệ chặt chẽ với yêu cầu phát triển kinh tế lành mạnh với đời sống xã hội, không đối lập với quyền lợi và khả năng đóng góp của nhân dân. Đặc biệt mức động viên đóng góp về thuế không vì mục tiêu phục vụ yêu cầu chi tiêu lãng phí, phô trương bất hợp lí, hoặc để đảm bảo sự hoạt động của một bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực, quá sức chịu đựng của nhân dân...
  5. 2. Khái niệm, đặc điểm của thuế: 2.1 Khái niệm thuế. Chúng ta đều biết, cùng với sự phát triển của nhà nước, thuế ngày càng hoàn thiện hơn về nội dung và hình thức. Tuy vậy, xét trên góc độ khái niệm, nhìn nhận về thuế nhà nước chưa có một sự thống nhất tuyệt đối. Theo David Recardo: thuế được cấu thành từ phần của chính phủ lấy trong sản phẩm đất đai và lao động trong nước, xét cho cùng thì thuế được lấy vào tư bản hoặc thu nhập của người chịu thuế. Anghen quan niệm: Để duy trì quyền lực công cộng cần phải có sự đóng góp của công dân cho nhà nước, đó là thuế. Còn theo KarlMarc, thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy nhà nước, là thủ đoạn giản tiện do kho bạc thu được bằng tiền hoặc sản vật mà người dân phải đóng góp để dùng vào mọi chi tiêu của nhà nước. Một số nhà kinh tế Việt Nam lại lập luận, thuế là khoản đóng góp mang tính chất bắt buộc mà mọi thành viên trong xã hội hoặc các tổ chức kinh tế phải nộp vào NSNN theo qui định của pháp luật. Một số nhà kinh tế nước ngoài thì cho rằng, thuế là hình thức đóng góp bắt buộc được xây dựng và thu bằng con đường quyền lực nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu theo chức năng của nhà nước. Trên phương diện kinh tế, thuế là một phương tiện làm thay đổi các cơ cấu tác động `đến tình hình kinh tế. Về xã hội, thuế là phương tiện phân phối lại thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Những khái niệm về thuế nói trên tuy được diễn đạt theo các cách khác nhau nhưng đều có chung một số đặc điểm chủ yếu, đó là: thừa nhận sự gắn bó trực tiếp không thể tách rời giữa thuế và nhà nước. Chỉ có nhà nước là tổ chức duy nhất ban hành các sắc thuế và thuế là công cụ chủ yếu để tạo lập các nguồn thu cho NSNN nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Nhà nước dùng quyền lực của mình để đặt ra các loại thuế thông qua cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước là Quốc hội. Kết hợp tất cả những hạt nhân hợp lí của các quan điểm trên về thuế, có thể nhận thức về thuế một cách toàn diện như sau:
  6. “ Thuế là một biện pháp động viên bắt buộc của nhà nước đối với các thể nhân và pháp nhân nhằm buộc các thể nhân và pháp nhân trích một phần thu nhập do kinh doanh, do lao động, do đầu tư tài chính, do lưu giữ, chuyển dịch tài sản mang lại nộp cho NSNN “ Khái niệm trên cho thấy rõ tính chất của thuế. Đồng thời phân biệt thuế với các nguồn khác, thấy rõ mục đích, đặc điểm nguồn động viên của thuế. Để thấy rõ hơn tính chất của thuế, chúng ta xét đặc điểm của thuế. 2.2 Đặc điểm của thuế. Thuế là một biện pháp tài chính của nhà nước mang tính quyền lực, tính cưỡng chế và tính pháp lí cao. Đặc điểm này đã được thể chế hoá trong hiến pháp của mọi quốc gia, ở mỗi quốc gia việc đóng thuế cho nhà nước được coi là một trong những nghĩa vụ bắt buộc đối với công dân. Mọi công dân làm nghĩa vụ đóng thuế theo những luật thuế được cơ quan quyền lực tối cao là quốc hội qui định, và nếu không thi hành sẽ bị cưỡng chế theo những hình thức nhất định. Thuế là hình thức động viên tài chính gắn liền với diễn biến, tình hình kinh tế xã hội của một quốc gia. Khi nhà nước xác lập một hệ thống thuế với các loại thuế suất khác nhau, trước hết bắt nguồn từ nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Song trong thực tế, mức động viên qua thuế bao giờ cũng chịu sự ràng buộc của các yếu tố kinh tế xã hội của một quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử. Yếu tố kinh tế ràng buộc đến chính sách thuế, hệ thống thuế trước hết phải kể đến thu nhập bình quân đầu người của một quốc gia, đến cơ cấu kinh tế đó cũng như chính sách, cơ chế quản lí của nhà nước. Cùng với yếu tố đó, còn phải kể đến phạm vi, mức độ chi tiêu của nhà nước nhằm thể hiện các chức năng kinh tế của mình. Yếu tố xã hội ràng buộc đến chính sách thuế, hệ thống thuế chính là phong tục, tập quán của quốc gia, kết cấu giai cấp cũng như đời sống thực tế của các thành viên trong từng giai đoạn lịch sử.
  7. Đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay, ngoài những yếu tố kinh tế xã hội nội tại của đất nước cũng cần phải nhắc đến yếu tố mở cửa hội nhập với các quốc gia trên thế giới khi hoạch định chính sách, ban hành hệ thống thuế. Như vậy, có thể hình dung mức động viên qua thuế trong GDP của một quốc gia phụ thuộc vào nhu cầu chi tiêu của nhà nước, các vấn đề kinh tế xã hội của một quốc gia. Thuế là khoản đóng góp không mang tính chất hoàn trả trực tiếp. Khoản đóng góp của công dân bằng hình thức thuế không đòi hỏi phải hoàn trả đúng bằng số lượng và khoản thu mà nhà nước thu từ công dân đó như là khoản vay mượn. Nó sẽ được hoàn trả lại cho người nộp thuế thông qua cơ chế đầu tư của NSNN choviệc sản xuất và cung cấp hàng hoá công cộng. Tóm lại, thuế là một biện pháp kinh tế của mọi nhà nước, song biện pháp đó chỉ xuất hiện và được thực thi khi hoạt động kinh tế tạo ra thu nhập hoặc sử dụng nguồn thu nhập được tạo ra. Thuế là công cụ để các chính phủ dùng để can thiệp vào kinh tế và là công cụ đắc lực để thực hiện chức năng quản lí kinh tế xã hội. Thuế không chỉ tạo ra nguồn thu cho chính phủ hoạt động mà còn đóng vai trò quan trọng trong hệ thống các biện pháp kinh tế vĩ mô của chính phủ. 3. Vai trò của thuế. Nhà nước có vai trò quản lí rất quan trọng nhằm tạo lập các cân đối vĩ mô, điều tiết thi trường, tạo môi trường và điều kiện cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm cho sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Nhà nước quản lí nền kinh tế bằng chiến lược và kế hoạch định hướng, chính sách và công cụ kinh tế như giá cả, tín dụng, lãi suất, thuế... là chủ yếu chứ không thể là sự can thiệp tuỳ tiện bằng mệnh lệnh hành chính như trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây. Trong những công cụ kinh tế được nhà nước sử dụng để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, thuế là phương tiện có tầm quan trọng đặc biệt. Một chính sách thuế được ban hành hợp lí, phù hợp với khả năng của nền kinh tế, đáp ứng yêu cấu của thực tiễn thì nó sẽ góp phần khắc phục sự trì trệ và lạc hậu, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng, ổn định lâu dài. Ngược lại, một chính sách không phù hợp sẽ trở thành
  8. một vật cản gây trở ngại cho sự lớn mạnh của nền kinh tế, làm cho nền kinh tế hoạt động kém hiệu quả, thậm chí có thể gây khủng hoảng về kinh tế, chính trị. Vai trò của thuế được thể hiện: 3.1 Thuế là khoản thu chủ yếu của NSNN. Xã hội càng phát triển thì chức năng của nhà nước càng nặng nề. Vì vậy, cần phải có nguồn thu để thực hiện chức năng đó. Nhà nước có thể tạo ra nguồn thu bằng nhiều cách như vay, bán tài nguyên, in tiền... nhưng một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân. Trong hệ thống đòn bẩy của cơ chế mới, thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân, theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, nguồn thu từ nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại trở thành mối quan hệ “ có vay có trả “. Trước mắt, hệ thống thuế phải là một công cụ quan trọng để góp phần tích cực vào yêu cầu giảm bội chi ngân sách, giảm lạm phát, từng bước góp phần ổn định trật tự xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc phát triển lâu dài. Vì vậy, thuế phải trở thành nguồn thu chủ yếu, bộ phận cơ bản của một nền tài chính quốc gia lành mạnh. Mặt khác, với cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần, hệ thống thuế mới được áp dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Do đó, thuế phải bao quát được hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh, các nguồn thu nhập, mọi tiêu dùng trong xã hội. Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN vì nguồn thu từ thuế mang tính ổn định, không phụ thuộc vào các yếu tố khác, thu thuế đơn giản hơn, ít có điều kiện ràng buộc với nhà nước, qua thu thuế nhà nước biết được những tín hiệu của nền kinh tế để từ đó hoạch định chính sách phát triển nền kinh tế. 3.2 Thuế là công cụ quan trọng trong quản lí vĩ mô nền kinh tế. - Thuế góp phần ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát. Giá cả trong nền kinh tế thị trường được qui định bởi cung - cầu hàng hoá. Vì vậy, trong trường hợp lạm phát do cầu quá lớn, nhà nước dùng thuế tác động vào hàng hoá như đánh thuế cao lên làm nhu cầu tiêu thụ về hàng hoá giảm, để bán được hàng, người bán phải tìm cách giảm giá bán, làm cho giá cả giảm, lạm phát giảm.
  9. Trường hợp lạm phát do yếu tố đầu vào quá lớn (lạm phát do chi phí đẩy), nhà nước sẽ đánh thuế với thuế suất thấp các yếu tố đầu vào làm chi phí thấp hơn, do đó các nhà sản xuất sẽ bán với giá thấp hơn, lạm phát giảm. - Thuế là công cụ quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tạo ra công ăn việc làm cho người lao động. Thông qua việc xây dựng đúng đắn chính sách thuế, cơ cấu và mối quan hệ giữa các loại thuế, qua việc xác định hợp lí đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, thuế suất, chế độ miễn giảm... thuế góp phần khuyến khích phát triển các hoạt động sản xuất cần thiết đồng thời thu hẹp, kìm hãm những ngành nghề, mặt hàng cần hạn chế sản xuất và tiêu dùng theo hướng tiết kiệm Trong điều kiện hiện nay, hệ thống thuế khuyến khích việc bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất bằng cách giảm thuế, như thông qua việc giảm thuế thu nhập công ty, giảm thuế tài sản... góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong nước, tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài... tạo thêm nhiều công ăn, việc làm cho người lao động. - Thuế là công cụ góp phần bảo hộ sản xuất trong nước, tận dụng mọi nguồn nhân lực, vật lực sẵn có vào phát triển kinh tế, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển một cách lành mạnh theo định hướng của Nhà nước, góp phần thúc đẩy mối quan hệ hợp tác giữa các khu vực trên thế giới. Thông qua việc sử dụng các biện pháp thuế xuất nhập khẩu, hạn ngạch xuất nhập khẩu, quản lí ngoại hối, trợ giá hàng sản xuất trong nước, ưu đãi hoạt động tín dụng... thuế góp phần thúc đẩy, tạo điều kiện và bảo hộ nền sản xuất trong nước phát triển. Đồng thời, thuế được xây dựng trên quan điểm mở rộng thị trường một cách lành mạnh, nên khuyến khích hợp tác, giao lưu hàng hoá giữa các nước trên thế giới. 3.3 Thuế góp phần bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng xã hội. Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính sách động viên giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi hành phần kinh tế có những điều kiện hoạt động giống nhau và thu nhập giống nhau. Đảm bảo sự bình đẳng và công bằng
  10. về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi công dân, không có đặc quyền, đặc lợi bất hợp lí cho đối tượng nào. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường việc phân phối của cải xã hội thường dựa trên cơ sở chuẩn mực các yếu tố đầu vào. Mà không phải mọi thành viên trong xã hội đều có năng lực các yếu tố đấu vào như nhau nên đòi hỏi phải có sự phân phối khác nhau. Của cải tập trung phần lớn vào nhóm người có năng lực yếu tố đầu vào lớn nên tạo ra sự phân hoá giầu - nghèo, vì vậy làm giảm cầu của xã hội, không kích thích nền kinh tế phát triển. Do đó, phải tiến hành phân phối lại thu nhập trong nền kinh tế thị trường, đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng xã hội. Như vậy, thuế có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Để bao quát hết các nguồn thu cho NSNN, người ta chia ra nhiều loại thuế khác nhau. Trong đó, thuế GTGT là một loại thuế mới, mang tính ưu việt hơn thay cho thuế doanh thu. II. Thuế GTGT và sự cần thiết áp dụng thuế GTGT trong điều kiện hiện nay ở nước ta. 1. Lịch sử hình thành thuế GTGT. Thuế GTGT có nguồn gốc từ thuế doanh thu và người đầu tiên nghĩ ra loại thuế này là một người Đức (1918) tên là CARL FRIEDRICH VON SIEMENS. Mặc dù vậy, ông không thuyết phục được chính phủ áp dụng loại thuế mới. Pháp là nước đầu tiên ứng dụng triển khai thí điểm thuế GTGT trong thực tiễn thay thế cho thuế doanh thu không khấu trừ. Trên thực tế, thuế GTGT ra đời đầu tiên ở Pháp là do kết quả một quá trình lâu dài nhằm vào việc hoàn thiện hệ thống thuế khoá ở nước này mà trọng tâm của nó là để tăng cường các loại thuế gián thu. Sau chiến tranh thế giới lần thứ I, tại Pháp đã hình thành một cách thức tiếp cận mang tính chất tổng thể và khoa học hơn về thuế khoá. Vào năm 1917, Pháp đã bắt đầu áp dụng thuế doanh thu. Thời kì sơ khai người ta chỉ đánh thuế vào giai đoạn cuối cùng của quá trình lưu thông hàng hoá (khâu bán lẻ với thuế suất rất thấp 0,2%). Sau đó, tới năm 1920 người ta đưa ra loại thuế doanh thu đánh vào từng khâu của quá trình sản xuất. Trong thực tế, cách đánh thuế này đã
  11. phát sinh ra điều bất lợi là nó có tính chất dồn thuế, tức là quá trình sản xuất ra sản phẩm càng qua nhiều khâu thì càng phải chịu thuế cao vì thuế choòng lên thuế. Để khắc phục nhược điểm trên, năm 1936 Pháp đã cải tổ và quyết định hình thức thuế doanh thu theo hình thức thuế đánh một lần vào công đoạn cuối cùng của qua trình sản xuất (tức là khi sản phẩm được lưu thông lần đầu). Như vậy, việc đánh thuế độc lập với độ dài của quá trình sản xuất, khắc phục được hiện tượng đánh trùng thuế trước đó. Nhưng lúc này nảy sinh hiện tượng bất lợi mới là việc thu thuế của Nhà nước bị chậm trễ so với trước vì chỉ khi sản phẩm được đưa vào lưu thông lần đầu thì Nhà nước mới thu được thuế. Năm 1948 thuế doanh thu lại tiếp tục được hoàn thiện trên cơ sở đánh thuế vào từng công đoạn của quá trình sản xuất và tính thuế phải nộp ở giai đoạn sau được trừ thuế phải nộp ở giai đoạn trước. Nhằm khắc phục tính chất dồn thuế, lúc đầu thuế này chỉ áp dụng đối với hoạt động sản xuất công nghiệp với thuế suất đồng loạt là 20% và chỉ cho khấu trừ thuế ở khâu trước đối với nguyên vật liệu. Sau nhiều lần cải tổ, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện, thuế GTGT được áp dụng đầu tiên vào ngày 1 tháng 7 năm 1954 trong một số ngành cá biệt và đến ngày 1 tháng 1 năm 1968 nó được áp dụng chính thức và có hiệu lưc cả trong lĩnh vực bán lẻ hàng hoá và cung ứng dịch vụ. Theo một số nhà nghiên cứu kinh tế, thuê GTGT là một trong những đặc điểm riêng có của một nền kinh tế phát triển nhưng ở Pháp ngay từ buổi sơ khai thuế GTGT ra đời nhằm đáp ứng hai mục tiêu quan trọng: đó là đảm bảo số thu kịp thời, thường xuyên cho NSNN và khắc phục tình trạng thuế đánh trùng lắp qua các khâu sản xuất kinh doanh của thuế doanh thu. Năm 1986 thuế GTGT ở Pháp được áp dụng rộng rãi đối với các ngành nghề sản xuất, lưu thông hàng hoá, dịch vụ với 4 mức thuế suất khác nhau. Khai sinh ở Pháp, thuế GTGT đã nhanh chóng được áp dụng rộng rãi trên thế giới, trở thành nguồn thu quan trọng của nhiều nước. Đến nay đã có trên 100 nước áp dụng thuế GTGT. Nhìn chung các nước áp dụng thuế GTGT vì thấy rõ nhược điểm của hệ thống thuế đang tồn tại ở nước họ trên các mặt: - Thuế doanh thu tính chồng chéo, không đáp ứng được yêu cầu của chính sách động viên hợp lí về thuế.
  12. - Thuế quan đối với hàng nhập có trường hợp phải miễn giảm để phục vụ các quan hệ hợp tác trong khu vực hoặc trên thế giới, vừa gây thất thu cho NSNN, vừa không bảo vệ sản xuất nội địa. - Có nhiều sắc thuế làm cho hệ thống thuế trở nên nặng nề, cần được thay thế bằng thuế GTGT để có thể bao quát được các đối tượng đánh thuế, nhằm động viên đóng góp của người tiêu dùng. - Sự phát triển của hệ thống thuế không theo kịp sự phát triển của nền kinh tế. - Khắc phục một phần tình trạng thất thu thuế cho NSNN. Tại Việt Nam, thực ra ngay từ trước giải phóng 1975, chính quyền Sài Gòn cũng đã ban hành sắc luật số 035 - TT/SLU ngày 21 tháng 12 năm 1972 thiết lập thuế GTGT đánh trên các hàng hoá, dịch vụ có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 1973, thay thế các sắc thuế sản xuất, thuế tiêu thụ nước đá, thuế xay lúa... Nhưng đến ngày 1 tháng 1 năm 1999 luật thuế GTGT chính thức được đưa vào áp dụng ở nước ta. 2. GTGT và thuế GTGT. 2.1 Khái niệm về GTGT. Nhìn chung mỗi sản phẩm hàng hoá trước khi được phân phối đến tay người tiêu dùng thường phải trải qua nhiều công đoạn như sản xuất, bán buôn, bán lẻ. Giá trị của hàng hoá đó ngày càng tăng lên qua mỗi công đoạn. Thông thường, ở giai đoạn đầu tiên, cơ sở sản xuất phải dùng nguyên - nhiên - vật liệu là chủ yếu, còn đối với các giai đoạn sau, giá trị tăng thêm chủ yếu do công sức lao động và lợi nhuận tạo nên. Do đó, GTGT là giá trị tăng thêm của sản phẩm hàng hoá hoặc hoạt động dịch vụ (được gọi chung là sản phẩm hàng hoá) do cơ sở sản xuất,chế biến, gia công dịch vụ, tác động vào nguyên nhiên vật liệu thô, bán thành phẩm hoặc sản phẩm hàng hoá mua vào làm cho giá trị của chúng tăng thêm. Nói cách khác, GTGT là khoản chênh lệch giữa giá trị đầu ra và giá trị đầu vào của một sản phẩm hàng hoá. GTGTđược tính theo hai phương pháp: phương pháp cộng và phương pháp trừ. Theo phương pháp cộng, GTGT được hiểu là giá trị các yếu tố cấu thành nên giá
  13. trị tăng thêm bao gồm giá trị lao động (thường được tính bằng chi phí lao động) và lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Như vậy, GTGT = tiền công lao động + lợi nhuận Theo phương pháp trừ, GTGT được hiểu là khoản chênh lệch giữa giá trị đầu ra với giá trị của nguyên- nhiên - vật liệu, bán thành phẩm được sử dụng ở đầu vào để tạo ra sản phẩm hàng hoá. Ta có thể biểu diễn qua đẳng thức sau: GTGT = giá đầu ra - giá đầu vào. (Giá tính trên là giá chưa có thuế GTGT) 2.2 Khái niệm, đặc điểm thuế GTGT. Thuế GTGT là một loại thuế gián thu, đánh vào việc sử dụng thu nhập, tức là đánh vào sự chi tiêu, tiêu dùng hàng hoá dịch vụ. Thuế này được thu trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông và được nộp cho nhà nước trên cơ sở trị giá tăng thêm trong mỗi khâu, thuế do các nhà sản xuất, kinh doanh và cung cấp dịch vụ nộp nhưng người tiêu dùng là đối tượng chịu thuế thông qua giá cả hàng hoá dịch vụ. Theo điều I, chương I, luật thuế GTGT của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “ Thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông tới tiêu dùng. ” Thuế GTGT là loại thuế mới ra đời nhằm khắc phục việc đành thuế trùng lặp của thuế doanh thu. Thuế GTGT chỉ đánh vào giá trị tăng thêm của các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tại mỗi công đoạn sản xuất và lưu thông, làm sao để tới cuối chu kì sản xuất kinh doanh hoặc cung cấp dịch vụ thì tổng số thuế thu được ở các công đoạn sẽ bằng số thuế tính theo giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng. Để hiểu về thuế GTGT, chúng ta xét ví dụ về thuế GTGT đánh vào sản phẩm A. Giả thiết với thuế suất 10 %, thuế tính trên giá bán chưa có thuế và sản phẩm trải qua 4 công đoạn sản xuất kinh doanh. * Người khai thác bán với giá: 100 * Người sản xuất bán với giá: 200 * Người bán buôn bán với giá: 250 * Người bán lẻ bán với giá: 300
  14. Ta có thuế GTGT phát sinh, cách tính thuế, khấu trừ thuế và số thuế phải nộp được khái quát trong bảng sau: Bảng 1: Cơ chế vận hành của thuế GTGT Các khâu Giá mua GTGT Giá bán VAT VAT VAT SXKD chưa chưa đầu ra đầu vào phải VAT VAT nộp 1- Khai thác - - 100 10 - 10 2- Sản xuất 100 100 200 20 10 10 3- Bán buôn 200 50 250 25 20 5 4- Bán lẻ 250 50 300 30 25 5 VAT phải nộp 30 Như vậy, thuế GTGT người tiêu dùng phải nộp là 30. Qua bảng tính thuế trên đây, có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của thuế GTGT như sau: - Trong mỗi khâu tiêu thụ hàng hoá, thuế GTGT đều được tính trên giá bán hàng hoá (giá bán chưa có thuế GTGT). - Tính thuế GTGT phải nộp ở giai đoạn sau đều được khấu trừ thuế GTGT đã nộp ở giai đoạn trước nên không gây ra hiện tượng trùng lắp. Cũng vì đặc trưng này, người ta gọi thuế GTGT là thuế doanh thu có khấu trừ. Kết quả thu được ở mỗi khâu đều kiểm tra được việc tính thuế và thu thuế ở khâu trước - Hiệu quả của thuế GTGT không phụ thuộc vào việc tổ chức và sự phân chia các chu trình kinh tế, cho dù sản phẩm trải qua nhiều hay ít công đoạn, tổng số thuế phải nộp cũng chỉ bằng giá mua chưa có thuế của người tiêu dùng cuối cùng nhân với thuế suất. Đó chính là nguyên tắc cơ bản của thuế GTGT, vì vậy, thuế GTGT không làm giá đột biến khi phải trải qua nhiều công đoạn sản
  15. xuất, lưu thông hàng hoá và do đó có ảnh hưởng tích cực tới hoạt động sản xuất kinh doanh. - Theo ví dụ nêu trên, tổng số thuế GTGT do người tiêu dùng ở khâu cuối cùng phải chịu là 30, nhưng được thu qua từng công đoạn: khai thác : 10, sản xuất : 10, bán buôn : 5, bán lẻ : 5. Số thuế này được người bán ghi vào hoá đơn để thu toàn bộ qua từng khâu cho nên thuế này được chuyển toàn bộ cho người mua hàng và tiêu dùng cuối cùng. Nếu sản phẩm trên không tiêu thụ ở thị trường trong nước mà được xuất khẩu thì người xuất khẩu được hoàn lại số thuế đã nộp ở khâu bán hàng của người sản xuất, tức là 30. Tại từng công đoạn, người bán hàng phải: + Đưa hoá đơn cho khách hàng trong đó ghi rõ giá bán chưa có thuế, thuế GTGT phải nộp và toàn bộ số tiền mà khách hàng phải thanh toán. + Tính số thuế GTGT đã nộp ở khâu trước để được khấu trừ ở khâu này theo đúng qui định của luật thuế GTGT. + Chỉ nộp vào kho bạc Nhà nước số chênh lệch giữa số thuế GTGT phải nộp và số thuế GTGT được khấu trừ. Như vậy, một trong những nguyên tắc cơ bản của thuế GTGT là sản phẩm hàng hoá qua nhiều hay ít khâu trung gian từ sản xuất đến tiêu dùng đều chịu thuế như nhau. Sau khi chuyển nhượng lần đầu, những lần mua bán tiếp theo sản phẩm hàng hoá sẽ chỉ chịu thuế GTGT tính trên phần doanh thu tăng thêm. 3. Nội dung cơ bản của thuế GTGT hiện hành ở Việt Nam 3.1 Đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế. Đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng ở Việt Nam (tiêu dùng cho sản xuất và sinh hoạt) không kể là hàng hoá dịch vụ được sản xuất cung ứng từ trong nước hay nhập khẩu, trừ 26 nhóm mặt hàng được qui định tại điều IV luật thuế GTGT và mục I - thông tư 175.
  16. Đối tượng nộp thuế GTGT là tất cả các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc nhập khẩu hàng hoá dịch vụ (gọi chung là cơ sở kinh doanh) thuộc diện chịu thuế GTGT là đối tượng nộp thuế GTGT. Cụ thể: Các tổ chức kinh doanh không phân biệt thành phần kinh tế, doanh nghiệp trong nước hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, là doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp ngoài quốc doanh, là hợp tác xã hay bất kì một đơn vị kinh tế trực thuộc nào có hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ hàng hoá, cung cấp dịch vụ thuộc diện chịu thuế GTGT. Các cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác có sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc diện chịu thuế GTGT. 3.2 Căn cứ tính thuế GTGT. Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất. Giá tính thuế GTGT: - Đối với hàng hoá dịch vụ do cơ sở sản xuất kinh doanh bán ra hoặc cung ứng cho đối tượng khác là giá bán chưa có thuế GTGT. - Đối với hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu là giá nhập khẩu tại cửa khẩu (thường là giá CIF) cộng với thuế nhập khẩu. Trường hợp hàng hoá nhập khẩu được miễn hoặc giảm thuế thì giá tính thuế GTGT là giá hàng hoá nhập khẩu cộng với thuế nhập khẩu được xác định theo mức đã được miễn giảm. - Đối với dịch vụ do phía nước ngoài cung ứng cho các đối tượng tiêu dùng ở Việt Nam, là giá chưa có thuế GTGT ghi trong hợp đồng. - Đối với hàng hoá, dịch vụ sử dụng để trao đổi, tiêu dùng nội bộ, biếu tặng, là giá bán chưa có thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh các hoạt động trao đổi, sử dụng nội bộ hoặc biếu tặng. - Đối với hoạt động cho thuê tài sản, là số tiền thuê thu từng kì. - Đối với hàng hoá bán theo phương thức trả góp là giá bán của hàng hoá tính theo giá bán trả một lần, không tính theo số tiền trả từng kì, không bao gồm lãi trả góp.
  17. - Đối với gia công hàng hoá là giá gia công chưa có thuế GTGT, bao gồm: tiền công, tiền nhiên liệu, động lực, vật liệu phụ và các chi phí khác để gia công. - Đối với hàng hoá, dịch vụ khác là giá do chính phủ qui định. Giá tính thuế GTGT đối với hàng hoá, dịch vụ qui định ở trên bao gồm cả khoản phụ thu và phí thu thêm mà cơ sở kinh doanh được hưởng. Trường hợp đối tượng nộp thuế có doanh số mua bán bằng ngoại tệ thì phải qui đổi ngoại tệ ra đồng Việt Nam theo tỉ giá chính thức do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm phát sinh doanh số để xác định giá tính thuế. * Thuế suất thuế GTGT. Theo qui định tại điều 8 luật thuế GTGT và điều 7 NĐ 28/1998/ NĐ- CP và điều 5 mục 2 TT 175/1998/ TT- BTC, thuế GTGT có 4 mức thuế suất: 0%, 5%, 10%, 20%. Nhóm thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu. Nhóm thuế suất 5% áp dụng đối với hàng hoá dịch vụ thiết yếu dùng cho sản xuất và tiêu dùng. Nhóm thuế suất 10% là thuế suất phổ thông. Nhóm thuế suất 20% áp dụng đối với các hàng hoá dịch vụ không thiết yếu cần điều tiết. Nếu cơ sở sản xuất, kinh doanh nhiều loại hàng hoá dịch vụ khác nhau thì phải tổ chức hạch toán kế toán riêng doanh thu từng loại hàng hoá theo từng mức thuế suất qui định đối với hàng hoá dịch vụ. Nếu không hạch toán được như vậy thì doanh nghiệp phải tính thuế GTGT theo mức thuế suất cao nhất của hàng hoá dịch vụ mà cơ sở có sản xuất, kinh doanh trên tổng doanh thu của tất cả các hàng hoá, dịch vụ bán ra trong kì. 3.3 Phương pháp tính thuế GTGT: Có 2 phương pháp tính thuế GTGT: Phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên GTGT. Phương pháp khấu trừ thuế:
  18. Phương pháp khấu trừ thuế được áp dụng cho tất cả các CSSXKD đã thực hiện đầy đủ các yêu cầu về mở và ghi sổ kế toán, chấp hành đầy đủ các qui định của chế độ hoá đơn, chứng từ. CSKD đăng kí nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ phải sử dụng hoá đơn GTGT - mẫu số 01/GTGT (trừ trưòng hợp được dùng chứng từ ghi giá thanh toán đã có thuế GTGT). Trên hoá đơn phải ghi rõ: giá bán chưa có thuế GTGT, các khoản phụ thu, thuế GTGT và tổng số tiền phải thanh toán. Thuế GTGT phải nộp là số chênh lệch giữa thuế GTGT đầu ra và thuế GTGT đầu vào. Có thể biểu diễn qua công thức: Thuế GTGT phải nộp = thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra - thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào. Trong đó: Thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra là số thuế tính trên tổng giá bán (chưa bao gồm thuế GTGT) của hàng hoá, dịch vụ bán ra trong kì. Thuế GTGT đầu ra được tính theo công thức: Thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra = Giá tính thuế hàng hoá dịch vụ chịu thuế bán ra  thuế suất tương ứng của từng loại hàng hoá dịch vụ. Thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào là số thuế GTGT được ghi trên hoá đơn GTGT khi mua hàng hoá, dịch vụ hoặc trên chứng từ nộp thuế GTGT của hàng hoá dịch vụ nhập khẩu. Phương pháp trực tiếp trên GTGT. Theo phương pháp này thuế GTGT được tính trực tiếp trên giá tri gia tăng của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế do cơ sở kinh doanh bán ra. Đối tượng áp dụng phương pháp tính trực tiếp trên GTGT là các cá nhân, tổ chức kinh doanh chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn, chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế; các cơ sở sản xuất kinh doanh, mua bán vàng, bạc, đá quí, ngoại tệ.
  19. Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp này sử dụng hoá đơn thông thường - mẫu số 02/GTGT, trong đó giá tính thuế là giá đã có thuế GTGT. Thuế GTGT phải nộp = GTGT của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế  thuế suất thuế GTGT tương ứng. Hoặc: Thuế GTGT phải nộp =[giá thanh toán của hàng hoá dịch vụ bán ra - giá thanh toán của hàng hoá dịch vụ mua vào tương ứng]  thuế suất thuế GTGT tương ứng. Trong đó: GTGT là chênh lệch giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ bán ra và giá thanh toán hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng. Giá thanh toán hàng hoá, dịch vụ bán ra là số tiền bên mua phải thanh toán cho bên bán gồm cả thuế GTGT và phụ thu, phí thu thêm mà bên mua phải trả. Giá thanh toán hàng hoá dịch vụ mua vào được xác định bằng giá trị hàng hoá dịch vụ mua vào tương ứng với giá của hàng hoá dịch vụ bán ra được xác định bằng giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào (bao gồm cả thuế GTGT) mà cơ sở kinh doanh đã dùng vào sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT bán ra. Thuế suất thuế GTGT tương ứng là mức qui định đối với từng loại hàng hoá, dịch vụ tương ứng với hàng hoá, dịch vụ bán ra. 3.4 Miễn giảm thuế, hoàn thuế GTGT. - Về nguyên tắc không qui định miễn giảm thuế GTGT vì thuế GTGT là thuế gián thu do người tiêu dùng chịu, nhưng do trong thời gian chuyển từ thuế doanh thu với 11 mức thuế suất sang thuế GTGT chỉ còn 4 mức thuế suất nên có một số doanh nghiệp gặp phải khó khăn. Do vậy, điều 28 luật thuế GTGT qui định: Cơ sở sản xuất kinh doanh, xây dựng, vận tải hoạt động kinh doanh trong ba năm đầu (1999, 2000, 2001) nếu áp dụng thuế GTGT mà bị lỗ do số thuế GTGT phải nộp của các hoạt động này lớn hơn số thuế phải nộp tính theo mức thuế doanh thu trước đây thì được xét giảm thuế GTGT. Thuế được xét giảm theo từng năm (tính theo năm dương lịch).
  20. Các cơ sở kinh doanh dịch vụ khác nếu phát sinh lỗ thì không được xét giảm thuế GTGT. Mức thuế được xét giảm tương ứng với số lỗ của năm xét giảm nhưng tối đa không quá 50% số thuế GTGT phải nộp. Ngoài ra, còn một số trường hợp khác được xét giảm thuế theo TT 102 /TT- BTC. Hoàn thuế GTGT là việc NSNN trả lại cho cơ sở kinh doanh số tiền thuế GTGT đầu vào đã trả khi mua hàng hoá, dịch vụ mà cơ sở kinh doanh còn được khấu trừ trong kì tính thuế. Việc hoàn thuế GTGT chỉ thực hiện trong các trường hợp: - Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế được xét hoàn thuế hàng quí nếu số thuế đầu vào được khấu trừ của các tháng trong quí lớn hơn số thuế đầu ra hoặc được hoàn thuế đầu vào của tài sản cố định theo điểm c khoản I điều 10 của luật thuế GTGT. - Quyết toán thuế khi sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản có số thuế nộp thừa; - Quyết định xử lí hoàn thuế của cơ quan có thẩm quyền theo qui định của pháp luật. 4. Những ưu điểm, thách thức đặt ra và điều kiện áp dụng thuế GTGT. 4.1 Ưu điểm. Là một loại thuế gián thu, thuế GTGT cũng như thuế doanh thu đảm bảo cho mọi người có thể tự do lựa chọn hàng hoá, quyết định tiêu dùng để chịu thuế cao hay thấp tuỳ thuộc vào khả năng chi trả, sở thích của mình. Thuế GTGT tránh được mối quan hệ trực tiếp giữa người tiêu dùng - người chịu thuế, với cơ quan thuế nên có phần dễ thu hơn thuế trực thu. Đồng thời việc điều chỉnh tăng mức thuế suất cũng dễ hơn do thuế nằm ẩn trong giá cả hàng hoá, dịch vụ. Người chịu thuế thường ít cảm nhận ngay đầy đủ gánh nặng thuế. Do vậy phản ứng của dân chúng về thuế gián thu càng ít gay gắt hơn thuế trực thu. Về mặt quản lí, thuế GTGT và thuế doanh thu không quan tâm tới các khoản chi phí hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của doanh nghiệp nên chi phí sản xuất có phần thấp hơn thuế trực thu.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1