LUẬN VĂN: Tỉnh uỷ bắc giang lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông Trong giai đoạn hiện nay
lượt xem 26
download
Giáo dục là một hoạt động đặc thự của xó hội loài người. Từ khi hỡnh thành, tồn tại và phỏt triển, xó hội loài người đạt được những thành tựu, những bước tiến vĩ đại như ngày nay chính là kết quả của quá trỡnh lao động sáng tạo, đấu tranh và cải tạo thế giới của con người. Loài người có được kết quả như vậy là nhờ quỏ trỡnh giỏo dục thường xuyên, liên tục và không ngừng sáng tạo của các thế hệ loài người kế tiếp nhau. Giáo dục đặc biệt cần thiết đối...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Tỉnh uỷ bắc giang lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông Trong giai đoạn hiện nay
- LUẬN VĂN: Tỉnh uỷ bắc giang lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông Trong giai đoạn hiện nay
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giáo dục là một hoạt động đặc thự của xó hội loài người. Từ khi hỡnh thành, tồn tại và phỏt triển, xó hội loài người đạt được những thành tựu, những bước tiến vĩ đại như ngày nay chính là kết quả của quá trỡnh lao động sáng tạo, đấu tranh và cải tạo thế giới của con người. Loài người có được kết quả như vậy là nhờ quỏ trỡnh giỏo dục thường xuyên, liên tục và không ngừng sáng tạo của các thế hệ loài người kế tiếp nhau. Giáo dục đặc biệt cần thiết đối với sự phát triển của mỗi con người và của cả xó hội. Năng lực của một con người bao gồm toàn bộ thể lực, trí lực, phẩm chất đạo đức, nhân cách. Năng lực đó phần lớn do giáo dục đào tạo mà có, nó làm cho con người trở nên có ích, có giá trị, có chất lượng, hiệu quả của lao động cũng vỡ thế mà tăng lên không ngừng, làm cho xó hội loài người liên tục phát triển. Loài người đó và đang có ngày càng nhiều phát minh khoa học, công nghệ được ứng dụng vào cuộc sống, làm cho năng suất lao động xó hội tăng lên vượt bậc, thông qua giáo dục, đào tạo, nguồn nhõn lực cú trỡnh độ học vấn ngày càng cao, ngày càng tạo ra nhiều của cải vật chất và văn hoá, xó hội.Vị trớ của giỏo dục ngày càng cú ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của mỗi con người, mỗi gia đỡnh, mỗi địa phương, đơn vị và mỗi quốc gia, dân tộc, nhất là trong thời kỳ kinh tế tri thức hiện nay. Nhận thức rừ vị trí, vai trũ của giỏo dục đào tạo, đối với sự phát triển của con người và đất nước, nên ngay từ khi thành lập cho đến nay, Đảng ta đó đặc biệt quan tâm đến nền giáo dục của nước nhà. Trong các thời kỳ cách mạng Đảng đó kịp thời đề ra những chủ trương, nghị quyết đúng đắn để lónh đạo phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo trong cả nước. Vỡ thế từ một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu, hầu hết người dân đều mù chữ bởi chính sách ngu dân thuộc địa dó man của thực dân Pháp và bọn địa chủ phong kiến áp bức kéo dài ngót một thế kỷ, giờ đây nền giáo dục đào tạo ở Việt Nam đó đạt được nhiều thành tựu hết sức to lớn. Việt Nam cú tỉ lệ dõn số biết chữ, trỡnh độ giáo dục trung học và đại học cao hơn nhiều so với các quốc gia có thu nhập đầu người tương đương. Hằng năm số lượng học sinh, sinh viên đều tăng từ 1,8 đến 2 triệu người. Mạng lưới giáo dục phát triển rộng khắp toàn quốc, từ thành thị đến nông thôn, miền núi, hải đảo, đó tạo cơ
- hội cho con em các gia đỡnh ở khắp cỏc miền được đến trường (nhất là cấp tiểu học) tạo sự công bằng được hưởng thụ, tiếp cận giỏo dục. Cỏc hỡnh thức tổ chức trong giỏo dục đào tạo ngày càng đa dạng và mở rộng hơn, nhiều hỡnh thức giỏo dục được triển khai như: chính quy, tại chức, giáo dục thường xuyên, giáo dục từ xa...Chất lượng giỏo dục ở cỏc cấp học và trỡnh độ đào tạo có chuyển biến. Nội dung dạy học và kiến thức của học sinh phổ thông đó cú tiến bộ, toàn diện hơn. Trỡnh độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của học sinh, sinh viên được nõng cao. Cụng tỏc quản lý chất lượng giáo dục được đặc biệt chú trọng... Tuy nhiên đứng trước yêu cầu thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập hợp tác quốc tế, đũi hỏi nguồn nhân lực phải có chất lượng cao, thỡ nền giỏo dục nước nhà nói chung và giáo dục phổ thông núi riờng cũn bộc lộ nhiều mặt bất cập, yếu kộm. Chúng ta đang đứng trước nhiều thách thức lớn. Cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân chưa đồng bộ, thiếu tính liờn thụng giữa cỏc cấp học và cỏc trỡnh độ đào tạo. Chất lượng và hiệu quả của giáo dục đào tạo cũn hạn chế về kiến thức, kỹ năng, phương pháp tư duy khoa học cũn thấp hơn so với trỡnh độ của các nước tiên tiến trong khu vực. Nội dung giáo dục tuy được đổi mới nhưng cũn nhiều mặt hạn chế. Đội ngũ giáo viên và cỏn bộ quản lý giỏo dục cũn nhiều điểm bất cập, chưa đáp ứng được nhiệm vụ giáo dục trong thời kỳ mới...Với đũi hỏi từ thực tiễn hiện nay, Đảng cần tăng cường hơn nữa sự lónh đạo đối với công tác giáo dục và đào tạo. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển về kinh tế - xó hội, ngành giáo dục, đào tạo tỉnh Bắc Giang đó đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Quy mô cơ sở giáo dục đào tạo ngày càng được mở rộng; đa dạng hoỏ loại hỡnh đào tạo, đáp ứng nhu cầu học tập của người dân. Chất lượng giáo dục từng bước được nâng lên ở tất cả các cấp học. Tỷ lệ học sinh lên lớp và đỗ vào các trường đại học, cao đẳng năm sau cao hơn năm trước. Bắc Giang là tỉnh được xếp thứ 10 trong các tỉnh, thành phố của toàn quốc về chất l ượng giáo dục. Đội ngũ giáo viên cơ bản đáp ứng được yêu cầu giảng dạy... Bắc Giang cách Thủ đô Hà Nội 50 km về phía Bắc và nằm trên hành lang kinh tế Hà Nội - Hải Phũng - Quảng Ninh nên có điều kiện phát triển kinh tế công nghiệp trong tương lai gần. Những năm gần đây, nguồn vốn FDI được đầu tư vào tỉnh, thu hỳt hàng
- nghỡn lao động địa phương. Yêu cầu đặt ra đối với địa phương là phải đáp ứng yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực. Vỡ vậy Tỉnh uỷ Bắc Giang đó đặc biệt quan tâm phát triển giáo dục, đào tạo. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI khẳng định: Phỏt triển hợp lý, đa dạng cỏc loại hỡnh trường, lớp. Đổi mới mạnh mẽ phương phỏp dạy và học, cụng tỏc quản lý giỏo dục; đẩy nhanh tiến độ xây dựng trường chuẩn, tích cực thực hiện phổ cập bậc trung học, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện...Mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và đa dạng hoỏ cỏc loại hỡnh đào tạo nghề...[13, tr.52-53]. Song, nền giáo dục đào tạo của tỉnh Bắc Giang cũn nhiều mặt hạn chế, cả về quy mô, chất lượng, công tác quản lý, đội ngũ giáo viên và ở tất cả các cấp học mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông. Những mặt ưu điểm và hạn chế trên có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng, mang tính quyết định là sự quan tõm lónh đạo của Đảng bộ tỉnh mà trực tiếp, thường xuyên là Tỉnh uỷ và các cấp uỷ đảng trong tỉnh đối với sự nghiệp giáo dục đào tạo của tỉnh. Thực tiễn đang đặt ra yêu cầu phải tăng cường sự lónh đạo của Tỉnh uỷ đối với ngành giáo dục đào tạo tỉnh Bắc Giang trong thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới. Đảng phải không ngừng đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo nói chung, trong đó có phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục đào tạo, trước hết là giáo dục phổ thông. Do đó, việc nghiên cứu nhằm đề ra các giải pháp đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục và đào tạo đang đặt ra hết sức cần thiết. Với những lý do trờn, tôi lựa chọn đề tài : "Tỉnh uỷ Bắc Giang lónh đạo phát triển giáo dục phổ thông trong giai đoạn hiện nay’’ làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành xây dựng Đảng tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo của tỉnh nhà, nơi tôi hiện đang công tác. 2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu liờn quan đến đề tài Vấn đề Đảng lónh đạo đối với giáo dục đào tạo là vấn đề quan trọng, do đó đó được nhiều nhà khoa học, nhiều tác giả nghiên cứu ở các khía cạnh khác nhau, đó cú không ít đề tài cấp nhà nước, cấp bộ, sách chuyên khảo, bài viết trên các tạp chí nghiên cứu, tiêu
- biểu như: - Phạm Văn Đồng "Vấn đề giáo dục - đào tạo" Nxb Chính trị quốc gia, số XB.01553/XB-QLXD 1/7/1999. - Đỗ Mười "Phát triển mạnh giáo dục-đào tạo phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước" , Nxb Giỏo dục - mó số:8G230M6. - Nguyễn Trọng Bảo (1996), Gia đình, nhà trường, xã hội với việc phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ người tài, Nxb Giáo dục, Hà Nội; - Phạm Minh Hạc (1966), Phát triển giáo dục - phát triển con người - phục vụ phát triển kinh tế xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; - Vũ Đình Cự (chủ biên) (1999), Giáo dục hướng tới thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; - Nguyễn Hữu Châu (1999), Về định hướng chiến lược giáo dục đầu thế kỷ XXI của một số nước trên thế giới, Viện Khoa học giáo dục; - Phạm Minh Hạc (1997), Giáo dục nhân cách. Đào tạo nhân lực, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; - Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; - Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; - Nguyễn Đăng Tiến (chủ biên) (1996), Lịch sử giáo dục Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. - Luận cứ khoa học cho vịêc đổi mới chớnh sỏch xó hội, (1994) Chương trỡnh khoa học- cụng nghệ cấp nhà nước KX.04. - Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 (2002) Nxb Giáo dục, Hà Nội. - Đặng Hữu "Phỏt triển kinh tế tri thức, rỳt ngắn quỏ trỡnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" (2001), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. -"Phát triển giáo dục đáp ứng yêu cầu đào tạo nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từng bước phát triển kinh tế trí thức". Kỷ yếu hội thảo khoa học: Kinh tế tri thức với đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam trong thập niên đầu của thế
- kỷ XXI. Đại học Kinh tế Quốc dân, 8/2002 - Nguyễn Thị Bỡnh (2008) Suy nghĩ về chiến lược con người trong giai đoạn mới". Tạp chí Cộng sản. Số 792/2008. -"Một cách tiếp cận phạm trù Nhân tố con người trong lý thuyết phỏt triển và phương án đo đạc" của Đặng Quốc Bảo, Trương Thị Thuý Hằng, Tạp chớ Thụng tin Khoa học xó hội, 4/2003, Viện Thụng tin khoa học xó hội, Trung tõm Khoa học xó hội và nhõn văn Quốc gia. - Hà Nhật Thăng (1999), "Về cơ sở lý luận của việc thiết kế chiến lược giáo dục", Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, (10). - Nguyễn Thị Mỹ Trang (1997), "Phát triển đảng viên trong đội ngũ các nhà giáo tương lai", Tạp chí Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, (7). - Tạ Thế Truyền (1997), "Giải quyết tốt quan hệ giữa cái chung và cái riêng trong công tác cán bộ ngành giáo dục-đào tạo", Tạp chí Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, (12). - Mai Hương Giang "Chỡa khoỏ mở hướng nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông ở nước ta hiện nay" Tạp chí Cộng sản. Số 21/2008. - Đặng Thị Minh Hảo (2003), Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong các trường trung học phổ thông ở Hà Nội giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; - Nguyễn Sỹ Quyết Tâm (2003), Giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa qua môn giáo dục công dân cho học sinh trung học phổ thông ở Bà Rịa - Vũng Tàu hiện nay, Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; - Đặng Thanh Phương (2004), Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên, sinh viên Thủ đô trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; - Phan Quốc Huy (1996), Đảng Cộng sản Việt Nam với sự nghiệp đổi mới ngành giáo dục đại học nước nhà (1987 - 1995), Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; - Bùi Mạnh Hằng (1998), Một số quan điểm của Đảng về giáo dục và đào tạo trong
- công cuộc đổi mới 1986 - 1996 (qua thực tiễn ở tỉnh Đắc Lắc), Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; - Nguyễn Thành Phương (1998), Đảng bộ An Giang thực hiện đường lối giáo dục trong thời kỳ đổi mới (1986 - 1996), Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Các đề tài, cụng trỡnh nghiờn cứu, bài viết nờu trờn đó phõn tớch khỏ đầy đủ thực trạng và giải pháp nâng cao chất l ượng giáo dục- đào tạo ở nước ta hiện nay. Tuy nhiờn cũng cũn nhiều ý kiến khỏc nhau về quan điểm, phương pháp, cách thức nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, chưa có đề tài nào đi sâu khảo sát, nghiên cứu một cách toàn diện, cú hệ thống về sự lónh đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang đối với giáo dục phổ thông trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích Trên cơ sở những phân tích lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Bắc Giang đối với phát triển giáo dục phổ thông đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ - Phân tích làm rõ vị trí, vai trò khách quan, tính tất yếu về sự lãnh đạo của Đảng đối với phát triển giáo dục phổ thông trong cách mạng xã hội chủ nghĩa; - Đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân của ưu điểm, khuyết điểm và bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Bắc Giang đối với phát triển giáo dục phổ thông; - Đề xuất những giải pháp có tính khả thi, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Bắc Giang đối với phát triển giáo dục phổ thông giai đoạn hiện nay. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là sự lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông của Tỉnh uỷ Bắc Giang. Luận văn tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Bắc Giang đối với phát triển giáo dục phổ thông, trong thời gian từ năm 2000 đến nay. Những giải pháp đưa ra có giá
- trị đến năm 2015 và 2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng, về lãnh đạo phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng; nhất là những quan điểm của Đảng trong thời kỳ đổi mới từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) đến nay, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) và Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về giáo dục và đào tạo. Phương pháp nghiên cứu gồm: Phương pháp phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp điều tra xã hội học, tổng kết thực tiễn. Đồng thời, với việc thu thập thông tin và xử lý các tài liệu có liên quan đến đề tài. 6. Những đóng góp về khoa học của luận văn - Đánh giá đúng thực trạng, rút ra những kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Bắc Giang với phát triển giáo dục phổ thông trong thời gian vừa qua. - Đưa ra những giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Bắc Giang đối với phát triển giáo dục phổ thông đến năm 2015 và những năm tiếp theo. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Hệ thống những vấn đề lý luận về sự lãnh đạo của Đảng nói chung và của Tỉnh uỷ Bắc Giang nói riêng đối với phát triển giáo dục phổ thông trong giai đoạn hiện nay. - Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần giúp các cấp uỷ đảng địa phương trong việc tăng cường lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông. - Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác chỉ đạo, lãnh đạo thực tiễn đối với phát triển giáo dục phổ thông của địa phương; đồng thời là tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy ở các trường học thuộc địa bàn của tỉnh Bắc Giang. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục, nội dung
- của luận văn gồm 3 chương, 06 tiết.
- Chương 1 TỈNH UỶ BẮC GIANG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG HIỆN NAY – Cơ sở Lí LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. QUAN NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRề CỦA GIÁO DỤC VÀ GIÁO DỤC PHỔ THễNG 1.1.1. Quan niệm, vị trí, vai trũ của giỏo dục Hiện nay trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về giáo dục. Theo từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà nẵng, Trung tâm từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng xuất bản năm 2006, giáo dục có hai nghĩa chính: Thứ nhất (là động từ) chỉ “ hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra. Thứ hai (là danh từ) chỉ “hệ thống các biện pháp và cơ quan giảng dạy- giáo dục của một nước [65, tr.394]. Trước C.Mỏc, cỏc nhà xó hội học cũn nhầm lẫn hoặc cố tỡnh đánh đồng hiện tượng giáo dục của con người với hoạt động bản năng tự nhiên của sinh vật. Tiếp thu tri thức của khoa học, C.Mác và F. Ănghen lý giải nguồn gốc loài người và nguồn gốc tri thức (trong đú cú nguồn gốc của giỏo dục). Trong xó hội nguyờn thuỷ, con n gười có nhu cầu truyền thụ và lĩnh hội tri thức giữa cỏc thành viờn trong cụng xó thị tộc - hiện tượng giáo dục xuất hiện, là giáo dục nguyên thuỷ với đặc điểm là giỏo dục bỡnh đẳng cho mọi người. Quỏ trỡnh giỏo dục nảy sinh chớnh trong quỏ trỡnh lao động sản xuất và quan hệ xó hội. Mỗi người lao động vừa là người dạy vừa là người học. Giáo dục chính là những tri thức cần thiết cho đời sống như kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm chống sự đe doạ của thiên nhiên. Cuối thời kỳ cụng xó thị tộc, do xuất hiện kẻ giàu, người nghèo nên giáo dục mất đi tớnh bỡnh đẳng mà thay vào đó là giáo dục mang tính giai cấp, thể hiện ở mục đích, nội dung, phương phỏp, hỡnh thức, tớnh chất của nền giỏo dục, của phạm trự giỏo dục. Chế độ chiếm hữu nô lệ dựng ra trường học để dạy con cỏi họ những tri thức về số học, hỡnh học, y học, thiên văn học, tớnh toỏn, sử dụng số pi, tớnh diện tớch hỡnh trũn, tam giỏc, hỡnh nún…đó là những tri thức cần có để giai cấp chủ nô điều hành xó hội và
- bảo vệ nhà nước chủ nô. Hy Lạp cổ đại coi giáo dục là nhiệm vụ quan trọng của nhà nước, của xó hội, giáo dục là công cụ bảo vệ nhà nước chủ nô; giáo dục nhằm phát triển con người nhiều mặt (nhất là vừ nghệ và ý thức của giai cấp chủ nụ); giỏo dục coi trọng thực hành và giỏo dục cho phụ nữ cũng được quan tâm nhằm để phụ nữ tự vệ, khoẻ mạnh sinh ra lớp công dân khoẻ mạnh. Platôn - nhà giáo dục tiêu biểu Hy Lạp cổ đại cho rằng, việc giáo dục con người được diễn ra trong một hệ thống giáo dục hoàn chỉnh, phải được tiến hành từ sớm theo địa chỉ sau này cho từng đối tượng. Giáo dục là chức năng của xó hội do nhà nước đảm nhiệm. Arixtốt cho rằng mỗi người đều do ba yếu tố cấu thành đó là: xương thịt, ý chớ, lý trớ, nờn giỏo dục đúng đắn là đồng thời một lúc phải tác động vào ba yếu tố trên bằng ba nội dung tương ứng là thể dục, đức dục và trí dục. Khổng Tử đánh giỏ cao vai trũ của giỏo dục, ụng cho rằng con người muốn thành người phải được giáo dục và mọi người đều được giáo dục (trừ loại tiểu nhân và phụ nữ). Nhà trường phong kiến dồn hết công sức, trí tuệ vào việc rèn luyện chữ “Nhân” cho người quân tử, đó là nền đạo đức phong kiến trong quan điểm Nho giỏo của Khổng Tử. Trong quỏ trỡnh dạy học, ụng quan tõm đến việc cắt nghĩa kỹ một số quan điểm quan trọng nhất để từ đú học trũ tự giải đáp các vấn đề cũn lại. Đồng thời trong khi giải đỏp cho học trũ chữ “Nhõn”, ông đi từ đặc điểm của từng đối tượng để giải đáp và ông chú trọng nguyên tắc liên hệ với thực tiễn. Mặc Tử phê phán thuyết định mệnh của Khổng Tử, ông cho rằng giáo dục để người thương yêu người, làm lợi cho dân, trừ hại cho dân; đó là con người phát triển về tỡnh cảm, đạo đức và kỹ năng lao động làm cho người đói có ăn, rét có mặc, lao động vất vả được nghỉ ngơi. Mặc Tử đỏnh giỏ cao vai trũ của thực tiễn, của hoạt động các giác quan của trẻ trong quỏ trỡnh nhận thức. ễng cho rằng học là phải hành, phải đàm thoại với học sinh để buộc học sinh phải suy luận - đó chính là phương pháp, là con đường để trẻ nhận thức thế giới tốt nhất. Tômát Morơ quan niệm giỏo dục phải bỡnh đẳng cho mọi trẻ em, giáo dục bằng
- tiếng mẹ đẻ và coi trọng tự nhiên. Giáo dục đề cao phương phỏp trực quan, thớ nghiệm và thực hành trong quỏ trỡnh dạy học cho học sinh. Đồng thời giáo dục phát triển trẻ em về nhiều mặt như: thể chất, đạo đức, trí tuệ và kỹ năng lao động. J.A.Comenxki quan niệm giáo dục phải phù hợp với tự nhiên; con người là thực thể của tự nhiên, mà tự nhiên diễn ra theo quy luật của nó nên giáo dục con người cũng phải tuõn theo quy luật của tự nhiờn. Mỗi khi xõy dựng lý luận giỏo dục hoặc tổ chức cỏc hoạt động giáo dục thực tiễn, ông luôn đối chiếu với sinh hoạt của cỏ cây, hoa lá xem phù hợp với tự nhiên hay không. Ông quan niệm sự phù hợp với quy luật tự nhiên của trẻ em thể hiện ở các giai đoạn phát triển theo lứa tuổi. Ông là người đầu tiên trong lịch sử tổ chức học sinh theo lớp và học theo bài. Chương trỡnh giỏo dục của học sinh được ấn định với nội dung nhất định và được chia thành bài. Trong quỏ trỡnh học tập được chia thành năm học. Ông quan niệm nguyên tắc dạy học phải mang tính trực quan, dạy học phải vừa sức, có hệ thống, liên tục, thực tiễn và phải đảm bảo tính bền vững. Quan niệm đó của ông đến nay cũn nguyờn giỏ trị. J.J.Ruxô đưa ra quan điểm: Giáo dục tự nhiên và tự do. Muốn giáo dục con người phải căn cứ vào đặc điểm tự nhiờn của chỳng, trong quỏ trỡnh giỏo dục khụng được áp đặt trẻ về phía người lớn mà phải căn cứ vào đặc điểm tự nhiên của trẻ để giáo dục và giáo dục trẻ một cách tự do. Ông chia trẻ em thành bốn thời kỳ lứa tuổi và mỗi thời kỳ có đặc điểm riờng của chỳng. Vỡ vậy giỏo dục phải tuõn theo sự phỏt triển của từng thời kỳ lứa tuổi. Quan niệm giáo dục theo mụ hỡnh: “Nhà trường mới” của Reddie được áp dụng đầu tiên ở nước Anh sau đó lan sang Mỹ, Pháp, Bỉ, Thuỵ Sỹ, rồi trở thành hiện tượng quốc tế rộng rói. “Nhà trường mới” coi trọng hoạt động thể dục thể thao, tăng cường luyện tập, đi dạo, quan sát. Lý luận đi sau thực tiễn. Việc giảng dạy phải dựa vào hoạt động cá nhân, đáp ứng hứng thú của trẻ em, gọi là phương pháp tích cực và tự do; mỗi ngày trẻ em học hai môn và giảng dạy ngoại ngữ bằng phương phỏp trực tiếp. Tổ chức quản lý nhà trường theo nguyên tắc dân chủ. Do khoa học tự nhiên phát triển mạnh đó tỏc động đến giáo dục, xuất hiện nền giáo dục thực nghiệm. Theo đó giáo dục thực nghiệm là nghiên cứu trẻ em bằng phương phỏp
- thực nghiệm trong phũng thớ nghiệm để xõy dựng lý thuyết giỏo dục mới và tổ chức các hoạt động thực tiễn giáo dục đương thời. Các nhà giáo dục thực nghiệm quan niệm phương pháp nghiên cứu của họ là khoa học, là khách quan, họ dùng những phương pháp điều tra đặc biệt gọi là trắc nghiệm, để nghiên cứu trẻ em. Bằng phương pháp trắc nghiệm các nhà nhi đồng học cho rằng trí tuệ và đạo đức, nhõn cỏch của trẻ em mang tớnh di truyền. Vỡ thế, con nhà giàu cú tõm hồn lành mạnh, cú trớ tuệ mở mang, cũn con nhà lao động, nhà nghèo vĩnh viễn chỉ thuộc hạng trẻ em ốm yếu, bạc nhược, không có thiên hướng học tập. J.Dewey đưa ra quan điểm giáo dục - ông thừa nhận vị trí to lớn của giáo dục, nhưng ông cho rằng giáo dục trí tuệ chỉ để chỉ dành riêng cho con cái của giai cấp thống trị xó hội. Con em người lao động chỉ có khuynh hướng là hoạt động thực tiễn nên hệ thống giáo dục cho con em lao động chỉ nhằm phát triển mọi tiềm năng về hoạt động thực tiễn. Nhiệm vụ giáo dục cho con em người lao động là trang bị cho họ biết “làm thế nào” mà không cần biết “tại sao làm như thế”. Ông cho rằng giáo dục chỉ là một quỏ trỡnh phỏt triển những xu thế bẩm sinh về lý trớ và tỡnh cảm. Nghĩa là ụng phủ định việc rèn luyện nhân cách mà không nhằm đáp ứng những hứng thú và xu hướng riêng của trẻ. Ông nhấn mạnh việc giáo dục phải lấy trẻ em là trung tâm của mọi quá trỡnh sư phạm, nhưng ông lại hạ thấp đến mức độ triệt tiờu vai trũ của nhà giỏo dục. C.Mác và F. Ănghen quan niệm nền giáo dục mới, sau khi giành được chính quyền là giáo dục công cộng và không mất tiền cho mọi trẻ em, giáo dục kết hợp với sản xuất vật chất. Mục đích giáo dục là trung tõm của mọi lý luận giỏo dục, là mẫu nhõn cỏch ở mỗi con người mà nhà trường và xó hội phải cú trỏch nhiệm tạo ra. Cỏc ụng quan niệm nội dung giỏo dục phải giỏo dục đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục và giáo dục lao động. Quan niệm của Mác về giáo dục là bước phát triển cao của tư tưởng giáo dục nhân loại trên cơ sở khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. V.I. Lênin quan niệm giáo dục không mất tiền và bắt buộc, phổ thông và bách khoa, nghĩa là dạy, giáo dục và thực tiễn về tất cả các ngành sản xuất chủ yếu, cho các trẻ em trai, gái từ 16 tuổi trở xuống; kết hợp chặt chẽ công tác giáo dục với công tác lao động sản xuất xó hội; nhà nước đài thọ cho toàn thể học sinh các khoản chi phí về ăn, mặc và
- các dụng cụ học tập. V.I. Lê nin làm phong phú thêm tư tưởng giáo dục kỹ thuật tổng hợp do Mác nêu lên bằng sự chỉ dẫn cụ thể, đó là: Giáo dục kỹ thuật tổng hợp là vấn đề có tính nguyờn tắc của nền giỏo dục xó hội chủ nghĩa; tránh chuyên môn hoá quá sớm, đồng thời mở rộng các môn học phổ thông trong các trường chuyên; sử dụng mọi lực lượng xó hội vào việc giỏo dục kỹ thuật tổng hợp, mở bảo tàng, triển lóm về giỏo dục khoa học kỹ thuật. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặc biệt quan tâm đến sự nghiệp giáo dục. Trong bất kỳ giai đoạn cách mạng nào, dù ở trong hoàn cảnh nào, Người cũng là chiến sỹ tiên phong đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập, giải phóng họ khỏi ách áp bức, bóc lột và thống trị của thực dân phong kiến; khỏi sự ràng buộc của hệ tư tưởng, tập quán lạc hậu, vươn lên làm chủ văn hoá, làm chủ vận mệnh và tương lai của chớnh mỡnh. Cùng với thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám, Người đó khai sinh nền giỏo dục mới, tiến bộ, một nền giỏo dục dân tộc, khoa học và đại chúng, đặt nền móng cho nền quốc học nhân dân của chúng ta. Hồ Chí Minh quan niệm rằng: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vỡ vậy ngay từ buổi đầu mới giành được độc lập trong bộn bề khó khăn của kinh tế và đời sống, thù trong và giặc ngoài, Người đó kờu gọi toàn dõn ra sức thực hiện đồng thời ba nhiệm vụ vô cùng quan trọng và cấp bách là diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Nhờ vậy, sau khi cách mạng thành công không lâu, chúng ta từng bước thanh toán được giặc dốt; động viên toàn dân tham gia tích cực vào công việc kháng chiến và kiến quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là người đề xướng nhiều chủ trương đúng đắn về giáo dục như: phổ cập giáo dục sơ học, từng bước nõng cao trỡnh độ học vấn phổ thông cho người lao động, đào tạo cán bộ, đào tạo nhân tài trong các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc để thực hiện sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và của dân tộc. Trong suốt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, toàn Đảng, toàn dân ta luôn tôn vinh nghề dạy học và vị trí cao cả của người thày giáo. Đảng đó dày cụng xõy dựng đội ngũ giáo viên làm lực lượng nũng cốt trong sự nghiệp giỏo dục. Người thày giáo là chiến sỹ cách mạng trên mặt trận tư tưởng văn hoá. Đó là những người truyền thụ
- cho thế hệ trẻ lý tưởng và đạo đức cách mạng, bồi đắp cho các em văn hoá đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, dạy cho học sinh có tri thức và kỹ năng lao động. Dưới ánh sáng của đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lónh đạo, sự nghiệp giáo dục ở nước ta bước đầu có những khởi sắc và đạt những được tiến bộ đáng mừng, nhất là sau khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoáVII) và Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII). 1.1.2. Quan niệm về giáo dục phổ thông Hiểu một cách khái quát, giáo dục phổ thông là: Ngành giáo dục dạy những kiến thức cơ sở chung cho học sinh [65, tr.394], tức là dạy những kiến thức, kỹ năng cơ bản, cần thiết, sát thực nhất để học sinh có thể áp dụng vào cuộc sống, nhằm thớch nghi và hoà nhập tốt với xó hội hiện tại, là cơ sở của sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Ngay từ thời Hy Lạp cổ đại, nhiều triết gia đó đưa ra những quan niệm về giáo dục phổ thông. Platôn cho rằng: việc giáo dục con người được diễn ra trong một hệ thống giáo dục hoàn chỉnh, theo đó bậc giáo dục phổ thông tiếp nhận những học sinh từ 7 đến 18 tuổi. Trong đó từ 7 đến 12 tuổi, trẻ em vào học văn và trường học đàn, được học đọc, viết, tính toán, âm nhạc, tôn giáo, hội hoạ; từ 12 đến 18 tuổi, trẻ em được vào trường học thể thao. Tại đây nhà trường rất coi trọng giáo dục thể chất, toán học, địa lý, thiờn văn học với phương pháp thực tiễn. Arixtốt là người đầu tiờn trong lịch sử cú ý định phân kỳ lứa tuổi học sinh. Ông cho rằng độ tuổi của học sinh bậc giáo dục phổ thông từ 7 đến 21 tuổi. Ứng với mỗi lứa tuổi có đặc điểm phỏt triển riờng về tõm lý và sinh lý nờn phải cú nội dung và phương pháp giáo dục thích hợp cho trẻ em. J.A.Cômenxki cũng cho rằng giáo dục phải phù hợp theo đặc điểm từng lứa tuổi của học sinh, theo đó bậc giáo dục phổ thông tiếp nhận học sinh từ 6 đến 18 tuổi. Phải có trường thích ứng với nội dung, phương pháp của bậc giáo dục này. Theo quan niệm của J.J.Ruxô, muốn giáo dục con người phải căn cứ vào đặc điểm tự nhiờn của chỳng, vỡ vậy giáo dục phải tuân theo sự phát triển của trẻ để giáo dục trẻ.
- Ông cho rằng bậc giáo dục phổ thông từ 11 đến 15 tuổi. Đây là thời kỳ dạy chữ, là thời trí dục. Ông đó cho nhiều chỉ dẫn quan trọng về dạy học cho trẻ em bằng phương pháp thực nghiệm. Hiện nay ở nước ta, giáo dục phổ thông gồm giáo dục tiểu học được thực hiện trong 5 năm học, từ lớp một đến lớp năm. Tuổi của học sinh vào lớp một là 6 tuổi. Giáo dục phổ thông là cấp học không những bắt đầu dạy kiến thức khoa học cơ bản mà quan trọng là dạy học sinh cách làm người cả về đạo đức, nhân cách... Giáo dục trung học cơ sở được thực hiện trong 4 năm học, từ lớp 6 đến lớp 9. Học sinh vào học lớp 6 phải hoàn thành chương trỡnh tiểu học, cú tuổi là 11. Giáo dục trung học phổ thông được thực hiện trong 3 năm học, từ lớp 10 đến lớp 12. Học sinh vào học lớp 10 phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, có tuổi là 15. Giỏo dục tiểu học nhằm giỳp học sinh hỡnh thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn, lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở. Giáo dục trung học cơ sở giỳp học sinh củng cố và phỏt triển những kết quả của giỏo dục tiểu học; cú trỡnh độ học vấn phổ thụng ở trỡnh độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động. Nội dung giáo dục phổ thông phải đảm bảo tính phổ thông, cơ bản, toàn diện, hướng nghiệp và cú hệ thống, gắn với thực tiễn cuộc sống, phự hợp với tõm sinh lý lứa tuổi học sinh. Giáo dục phổ thông đảm bảo cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiờn, xó hội và con người; có kỹ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và tớnh toỏn; cú thúi quen rốn luyện thõn thể, giữ gỡn vệ sinh; cú hiểu biết ban đầu về hát, múa, âm nhạc, mỹ thuật; phát triển những nội dung đó học ở bậc học dưới, bảo đảm cho học sinh có những hiểu biết phổ thông cơ bản về tiếng Việt, toỏn, lịch sử dõn tộc, những kiến thức khỏc về khoa học xó hội, khoa học tự nhiờn, phỏp luật, tin học, ngoại ngữ, có hiểu biết tối thiểu về kỹ thuật hướng nghiệp. Ngoài nội dung chủ yếu nhằm đảm bảo kiến thức phổ thông, cơ bản, toàn diện và hướng nghiệp cho học sinh, giáo dục phổ thông cũn cú nội dung nõng cao ở một số mụn học để phát triển năng lực, đáp ứng nguyện vọng của học sinh. Sách giáo khoa sẽ cụ thể hoá các yêu cầu về nội dung kiến thức và kỹ năng quy định trong chương trỡnh giỏo dục của các môn học ở mỗi lớp. Chương trỡnh giáo dục
- phổ thông, sách giáo khoa được sử dụng chính thức, ổn định, thống nhất trong giảng dạy, học tập ở các cơ sở giáo dục phổ thông. Cơ sở giáo dục phổ thông là các trường tiểu học, trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông. Học sinh học hết chương trỡnh tiểu học cú đủ điều kiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo thỡ được hiệu trưởng trường tiểu học xác nhận trong học bạ việc hoàn thành chương trỡnh tiểu học. Học sinh học hết chương trỡnh trung học cơ sở có đủ điều kiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo thỡ được trưởng phũng giỏo dục và đào tạo cấp huyện cấp bằng trung học cơ sở. Học sinh học hết chương trỡnh trung học phổ thông có đủ điều kiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo thỡ được dự thi và nếu đạt yờu cầu thỡ được giám đốc sở giáo dục và đào tạo cấp tỉnh cấp bằng tốt nghiệp trung học phổ thông. Trong giáo dục phổ thông cú hai loại hỡnh quản lý: quản lý hệ thống và quản lý nhà trường. Trong đú quản lý nhà trường là hạt nhân cơ bản. Bởi lẽ, nhà trường là “rường cột” của hệ thống giáo dục quốc dân. Đây chính là nơi trực tiếp thực hiện quỏ trỡnh cung cấp kiến thức và những nhõn tố căn bản của nhân cách con người. Cùng với gia đỡnh, đó là khâu có tầm quan trọng quyết định đối với sự hỡnh thành nhõn cỏch học sinh. Nhưng vấn đề quản lý chất lượng trong nhà trường hiện nay cũn nhiều bất cập. 1.1.3. Vị trớ, vai trũ của giỏo dục và giáo dục phổ thông Chúng ta có thể thấy giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông giữ vai trũ đặc biệt cần thiết đối với sự phát triển của mỗi con người và của cả xó hội, nó là yếu tố quan trọng nhất hỡnh thành toàn bộ thể lực, trí lực, phẩm chất về đạo đức, về nhân cách của con người, nhất là những kiến thức cơ sở trong các bậc học phổ thông. Nó làm cho con người trở nên có ích, có giá trị, có chất lượng để sản xuất ra nhiều của cải vật chất, tinh thần cho xó hội. Trong bối cảnh chung của thế giới b ước vào kỷ nguyên thông tin, hội nhập và toàn cầu hoá về kinh tế, khi khoa học đó trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và cùng với công nghệ trở thành nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá thỡ vai trũ của giỏo dục cú ý nghĩa quyết định thực hiện thành công sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng và Nhà nước ta đó từ lõu nhận thức rất rừ vai trũ, vị trớ của giỏo dục và ngày
- càng chăm lo sự nghiệp giáo dục. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lấn thứ VII của Đảng khẳng định: “Khoa học và giáo dục đúng vai trũ then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xõy dựng chủ nghĩa xó hội và bảo vệ Tổ quốc, là một động lực đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lờn trỡnh độ tiên tiến của thế giới” [16, tr.79]. Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoỏ VII tiếp tục chỉ rừ: Phải coi đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước và phục vụ đắc lực sự phát triển kinh tế - xó hội. Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục – đào tạo, khoa học và công nghệ, coi đó là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự phát triển. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đó nhấn mạnh: “Thực sự coi giáo dục- đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc giáo dục- đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phỏt triển xó hội, đầu tư cho giáo dục- đào tạo là đầu tư cho phát triển” [18, tr.29]. Với tư cách là một thành tố cơ bản của nền văn hoá dân tộc, giáo dục có một vị trí trọng yếu hàng đầu trong chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đó xỏc định: “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” [20, tr.94-95]. Giáo dục và đào tạo là điều kiện phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phỏt triển xó hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Dưới sự lónh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chế độ xó hội mà nhõn dõn ta kiờn trỡ lựa chọn và xõy dựng là chế độ xó hội chủ nghĩa. Sự nghiệp giáo dục mà chúng ta xây dựng là sự nghiệp giáo dục xó hội chủ nghĩa, có nhiệm vụ đào tạo ra các thế hệ công dân trung thành với sự nghiệp cách mạng, có đầy đủ tài năng, phẩm chất và bản lĩnh để vượt qua những thách thức, đưa đất nước tiến lên theo kịp trào lưu phát triển chung của khu vực và quốc tế. Giỏo dục ngày càng cú ý nghĩa quyết định trong việc làm thay đổi nền sản xuất vật chất của xó hội. Trong thời đại chuyển dịch mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kiểu cũ, dựa vào bóc lột sức lao động và tàn phá môi trường tự nhiên là chính, sang cuộc cách mạng khoa học kiểu mới, hướng tới nâng cao năng suất lao động, bảo vệ môi trường sinh
- thái và nâng cao chất lượng cuộc sống con người, hàm lượng khoa học kết tinh trong các sản phẩm hàng hoá ngày càng tăng. Sự phát triển của lực lượng sản xuất xó hội gắn liền với sản xuất hàng hoỏ và thị trường, gắn liền với phân công lao động và hợp tỏc quốc tế, gắn liền với trỡnh độ và năng lực sáng tạo, tiếp nhận và trao đổi cụng nghệ mới. Xu thế toàn cầu hoỏ, khu vực hoỏ trong lĩnh vực kinh tế- xó hội làm cho cỏc quốc gia, kể cả cỏc quốc gia phỏt triển và cỏc quốc gia đang phát triển phải cấu trúc lại nền kinh tế theo hướng mở rộng liên kết để tối ưu hoỏ sức cạnh tranh và hợp tỏc toàn cầu. “Kinh tế tri thức” trong “xó hội thụng tin” đó hỡnh thành và phỏt triển trờn cơ sở hàm lượng trớ tuệ cao trong sản xuất dịch vụ và quản lý ở tất cả các quốc gia, với mức độ khác nhau, tuỳ thuộc vào sự chuẩn bị của hệ thống giáo dục quốc dân. Tài năng và trí tuệ, năng lực và bản lĩnh trong lao động sáng tạo của con người khụng phải xuất hiện một cỏch ngẫu nhiờn, tự phỏt mà phải trải qua một quỏ trỡnh chuẩn bị và đào tạo cụng phu, bền bỉ, cú hệ thống. Vỡ vậy giỏo dục hiện nay được đánh giá khụng phải là yếu tố phi sản xuất, tỏch rời sản xuất mà là yếu tố bờn trong, yếu tố cấu thành của nền sản xuất xó hội. Khụng thể phỏt triển được lực lượng sản xuất nếu không đầu tư cho giáo dục, đầu tư vào nhân tố con người, nhân tố quyết định của lực lượng sản xuất. Không thể xây dựng được quan hệ sản xuất xó hội chủ nghĩa nếu khụng nõng cao giỏc ngộ lý tưởng chớnh trị xó hội, nõng cao trỡnh độ học vấn, trỡnh độ tổ chức và quản lý kinh tế-xó hội cho đội ngũ lao động và quản lý lao động. Vỡ vậy đầu tư cho giáo dục, trước hết là giáo dục phổ thông là đầu tư cơ bản để phỏt triển kinh tế-xó hội, đầu tư ngắn nhất và tiết kiệm nhất để hiện đại hoỏ nền sản xuất xó hội. Cuộc chạy đua phát triển kinh tế- xó hội trên thế giới hiện nay thực chất là cuộc chạy đua về khoa học và công nghệ, chạy đua nâng cao chất lượng và hiệu quả lao động trên cơ sở hiện đại hoỏ nguồn nhõn lực. Giỏo dục khụng chỉ cú ý nghĩa lớn lao trong lĩnh vực sản xuất vật chất, mà cũn là cơ sở xây dựng nền văn hoá tinh thần của chế độ xó hội chủ nghĩa. Giáo dục có tác dụng vô cùng to lớn trong việc truyền bá tư tưởng chính trị, xây dựng nền văn hoá mới, lối sống và nhõn cỏch mới của toàn xó hội. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước khụng chỉ là quỏ trỡnh đổi mới về khoa học công nghệ, hiện đại hoá, thị trường hoỏ nền sản xuất xó hội mà cũn là quỏ trỡnh chuyển đổi tõm lý,
- phong tục, tập quỏn, lối sống thớch ứng với nhịp độ và tốc độ của xó hội cụng nghiệp và thị trường. Như vậy, giáo dục có tác động to lớn tới toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của xó hội. Phỏt triển giỏo dục là cơ sở để thực hiện chiến lược phỏt triển kinh tế - xó hội, xõy dựng chiến lược con người của Đảng và Nhà nước ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lờn chủ nghĩa xó hội, Đảng ta khẳng định quan điểm cơ bản để xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục là: Giáo dục và đào tạo gắn liền với sự nghiệp phát triển kinh tế, phát triển khoa học, kỹ thuật, xây dựng nền văn hoá mới và con người mới. Nhà nước có chính sách toàn diện thực hiện giáo dục phổ cập phù hợp với yêu cầu và khả năng của nền kinh tế, phát triển năng khiếu, bồi dưỡng nhân tài [15, tr.13]. Các dân tộc trên thế giới luôn đặt ra câu hỏi sẽ đi lên như thế nào? Vị thế của mỗi dân tộc ở đâu trong thế giới này. Ngày nay, tất cả đang chung một câu trả lời: Tri thức. Chỉ có điều trả lời câu hỏi đó, đối với mỗi dân tộc lại mang một sức nặng khác nhau, mang một độ cấp thiết khác nhau. Có dân tộc dùng tri thức để bảo vệ vị thế hàng đầu. Có dân tộc dùng tri thức để vươn lên tranh đoạt vị thế cao hơn, có dân tộc dùng tri thức để không tụt lại đằng sau. Thế giới đang có những nhóm quốc gia vượt lên phía trước, có những nhóm tụt lại phía sau. Đâu là sự khác biệt? Câu trả lời: trỡnh độ giáo dục. Trên thế giới không phải mọi dân tộc đều được tự nhiên ban tặng một cách công bằng. Có quốc gia ở xứ băng giá quanh năm, có quốc gia ở vùng sa mạc khô cằn. Nhưng lịch sử chứng minh đó không phải là rào cản để ngăn cản một dân tộc vươn lên. Thực tế đó chứng minh rằng những quốc gia càng được thiên nhiên ưu đói thỡ càng cú nguy cơ tụt hậu. Không ở đâu nhiều dầu lửa hơn các nước Trung Đông, nhưng chưa có quốc gia nào ở đó vượt lên để gia nhập nhóm “các quốc gia phát triển” mà vẫn dừng lại mói ở “các nước đang phát triển”. Không đâu đất đai rộng lớn hơn châu Phi, nhưng hầu hết các quốc gia ở đó vẫn đang ở mức “kém phát triển”. Trong khi đó Nhật Bản, Phần Lan, Hàn Quốc, Ireland là những nước nghèo tài nguyên nhất, nhưng đó vươn lên thành những quốc gia giàu có hàng đầu. Điều quyết định thắng thua ngày nay ở mỗi quốc gia tuỳ thuộc vào trỡnh độ giáo
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
LUẬN VĂN: Quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay
105 p | 168 | 49
-
LUẬN VĂN: Bổ nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý giai đoạn hiện nay
103 p | 226 | 46
-
Luận án Tiến sĩ: Phương thức lãnh đạo công tác cán bộ của các tỉnh ủy ở Bắc Trung Bộ giai đoạn hiện nay
185 p | 112 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Năng lực công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh
99 p | 56 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế: Nâng cao chất lượng công chức tại Ủy ban nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn
99 p | 60 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế: Nâng cao chất lượng công chức tại Ủy ban nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn
112 p | 35 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nâng cao chất lượng của cán bộ, công chức tại ủy ban nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương
101 p | 24 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính Ngân hàng: Quản lý tài chính tại cơ quan Tỉnh ủy Bắc Ninh
111 p | 39 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Ứng dụng Công nghệ thông tin trong tổ chức hội họp tại Uỷ ban nhân dân huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình
102 p | 45 | 10
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Ứng dụng Công nghệ thông tin trong cải cách hành chính tại Ủy ban nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh
27 p | 104 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Kỹ thuật: Xây dựng hệ thống hội nghị truyền hình trực tuyến 3 cấp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
82 p | 18 | 8
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Bồi dưỡng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn
26 p | 13 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Năng lực công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh
26 p | 19 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển cho vay ủy thác thông qua các tổ chức Hội, đoàn thể tại Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam – Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh
95 p | 27 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Phương thức lãnh đạo công tác cán bộ của các tỉnh ủy ở Bắc Trung Bộ giai đoạn hiện nay
30 p | 85 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Bồi dưỡng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương
95 p | 9 | 5
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Bồi dưỡng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương
51 p | 6 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn