intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Tổ chức kế toán thành phẩm tiêu thụ và xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở công ty TNHH phát triển mạng lưới toàn cầu Nam Dũng

Chia sẻ: Pham Ly | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:96

135
lượt xem
26
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nền kinh tế thị trường Việt Nam ngày càng đổi mới và phát triển mạnh mẽ cả hình thức lẫn quy mô sản xuất kinh doanh. Hoà nhịp xu thế chung của nền kinh tế thế giới là quốc tế hoá và hợp tác hoá. Nền kinh tế càng được quốc tế bao nhiêu thì sự cạnh tranh giữa các quốc gia, giữa các doanh nghiệp càng trở nên mạnh mẽ. Thị trường cạnh tranh tự do đã thúc đẩy sự phát triển mọi mặt của doanh nghiệp, vì có như vậy mới đảm bảo cho doanh nghiệp tồn...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Tổ chức kế toán thành phẩm tiêu thụ và xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở công ty TNHH phát triển mạng lưới toàn cầu Nam Dũng

  1. LUẬN VĂN: Tổ chức kế toán thành phẩm tiêu thụ và xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở công ty TNHH phát triển mạng lưới toàn cầu Nam Dũng
  2. Lời mở đầu Nền kinh tế thị trường Việt Nam ngày càng đổi mới và phát triển mạnh mẽ cả hình thức lẫn quy mô sản xuất kinh doanh. Hoà nhịp xu thế chung của nền kinh tế thế giới là quốc tế hoá và hợp tác hoá. Nền kinh tế càng được quốc tế bao nhiêu thì sự cạnh tranh giữa các quốc gia, giữa các doanh nghiệp càng trở nên mạnh mẽ. Thị trường cạnh tranh tự do đã thúc đẩy sự phát triển mọi mặt của doanh nghiệp, vì có như vậy mới đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Trong cơ chế thị trường hiện nay, các nhà quản ký doanh nghiệp luôn phải lựa chọn: “sản xuất cho ai”? “sản xuất cái gì”? “sản xuất như thế nào”? điều quan trọng nhất đó là hình thức đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng lựa chọn và chấp nhận sản phẩm của doanh nghiệp. Vậy để sản xuất có hiệu quả đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm bắt được cơ hội, vận dụng vào thực tiễn đồng thời để đảm bảo thắng lợi bền vững trong cạnh tranh các nhà sản xuất cần phải biết sức cạnh tranh của mình trên thị trường, nguồn nhân lực hiện có, các khoản chi phí bỏ ra và kết quả đạt được. Sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra mang tính chất là sản phẩm hàng hoá, vì vậy các doanh nghiệp ngoài sản xuất ra sản phẩm còn có nhiệm vụ tiêu thụ sản phẩm đó. Có được doanh thu tiêu thụ mới chứng tỏ sản phẩm của doanh nghiệp được người tiêu dùng chấp nhận. Vì vậy quá trình tiêu thụ sản phẩm có vị trí đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp góp phần quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Để có được những thông tin hữu ích phục vụ cho sản xuất kinh doanh thì một công cụ không thể thiếu đối với các doanh nghiệp đó là kế toán.Với tư cách là công cụ quản lý, kế toán ngày càng được khai thác tối đa sức mạnh và sự linh hoạt của nó, nhằm điều chỉnh vĩ mô và kiểm soát sự vận hành của nền kinh tế. Đi đôi với sự đổi mới trong cơ chế quản lý kinh tế,sự đổi mới trong cơ chế quản lý kinh tế, sự đổi mới trong hệ thống kế toán doanh nghiệp đã tạo ra cho kế toán một bộ mặt mới, khẳng định được vị trí của kế toán trong hệ thống các công cụ quản lý doanh nghiệp. Trên cơ sở lý luận được học tập tại trường và thực tế qua thời gian thực tập tại công ty TNHH phát triển mạng lưới toàn cầu Nam Dũng.Em mạnh dạn đi sâu vào đề
  3. tài”Tổ chức kế toán thành phẩm tiêu thụ và xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở công ty TNHH phát triển mạng lưới toàn cầu Nam Dũng. Nội dung chuyên đề gồm 3 phần. Phần I: Lý luận chung về công tác kế toán thành phẩm và xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp sản xuất. Phần II: Thực tế về công tác kế toán thành phẩm và xác định kết quả kinh doanh ở công ty TNHH phát triển mạng lưới toàn cầu Nam Dũng. Phần III: Nhận xét về công tác kế toán thành phẩm và xác định kết quả kinh doanh tại công ty TNHH phát triển mạng lưới toàn cầu Nam Dũng.
  4. Phần I Lý luận chung về công tác kế toán thành phẩm tiêu thụ và xác định kết quả hoạt động kinh doanh i. ý nghĩa của việc tổ chức công tác kế toán thành phẩm tiêu thụ trong doanh nghiệp 1. Thành phẩm và yêu cầu quản lý thành phẩm Các doanh nghiệp sản xuất làm ra các loại sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, các sản phẩm đó được gọi là thành phẩm. Nói một cách đầy đủ hơn thành phẩm là kết thúc quy trình sản xuất do doanh nghiệp thực hiện hoặc thuê gia công chế biến đã được đem bán hoặc nhập kho. Sản phẩm nói chung đều là kết quả của quá trình sản xuất chế tạo ra nó, có thể thành phẩm nhưng cũng có thể chưa là thành phẩm. Giữa thành phẩm và sản phẩm có phạm vi giới hạn khác nhau. khi nói đến thành phẩm là nói đến kết quả của quá trình sản xuất gắn với quy trình công nghệ nhất định trong phạm vi một doanh nghiệp, còn khi nói đến kết quả của quá trình sản xuất chế tạo ra nó. Về phương diện nào đó thì sản phẩm có phạm vi rộng hơn thành phẩm. Khi nói đến sản phẩm của một doanh nghiệp nào đó có thể gồm cả thành phẩm và bán thành phẩm. Bán thành phẩm là những sản phẩm chưa qua bước công nghệ cuối cùng của doanh nghiệp. Tuy nhiên có những trường hợp do yêu cầu của sản xuất và tiêu thụ nhưng có thể đựơc nhập kho để bán hoặc bán ngay ra thị trường, khi bán cho khách hàng chúng cũng có nghĩa như thành phẩm. Vì vậy việc phân định chính xác hai khái niệm này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm một cách khoa học và hợp lý, từ đó tạo điều kiện xác định chính xác kết quả hoạt động kinh doanh của từng đơn vị trong doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp sản xuất việc chế tạo ra thành phẩm phải đảm bảo kết hợp hài hoà cả về số lượng và chất lượng của thành phẩm. Số lượng là con số cụ thể cùng
  5. với đơn vị đo lường như: kg, mét, cái… chất lượng của thành phẩm phản ánh giá trị sử dụng, được xác định theo phẩm cấp của sản phẩm hoặc theo tỷ lệ % tốt xấu. Khối lượng thành phẩm sản xuât hoàn thành trong từng thời kỳ ở phạm vi doanh nghiệp là một trong những yếu tố đánh giá quy mô của doanh nghiệp hay khả năng doanh nghiệp có thể đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội, Từ đó làm cơ sở đề ra các quyết định cần thiết trong mối quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp, cũng như tạo cơ sở cho các cấp chức năng có thẩm quyền xác định được cân đối cần thiết trong ghành, trong vùng và toàn bộ nền kinh tế. Trong cơ chế thị trường, hoạt động của doanh nghiệp trong việc sản xuất thành phẩm cung cấp cho xã hội vẫn theo sự chỉ đạo quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô của nhà nước, đây là một nhiệm vụ chính trị vô cùng quan trọng của các doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có nhiệm vụ sản xuất khác nhau, thành phẩm của doanh nghiệp có tác dụng khác nhau để thoả mãn nhu cầu đa dạng của thị trường. Nhưng nếu thiếu đi dù chỉ một loại trong số sản phẩm đó cũng làm ảnh hưởng đến quá trình tiêu dùng và sản xuất kinh doanh của những bộ phận nhất định. Chính vì vậy trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần phải thấy đựơc vai trò trách nhiệm của mình là một mắt xích của xã hội. Nghĩa là trong doanh nghiệp phải đảm bảo cho dây chuyền sản xuất của mình hoạt động liên tục và ổn định, hay nói cách khác doanh nghiệp phải đảm bảo tính cân đối đồng bộ nền kinh tế quốc dân. Từ những phân tích ở trên cho phép chúng ta khẳng định vị trí quan trọng của thành phẩm đối với nền kinh tế nói chung và bản thân doanh nghiệp nói riêng. Hơn thế nữa thành phẩm là kết quả lao động sáng tạo của toàn bộ cán bộ CNV trong doanh nghiệp, là tài sản của doanh nghiệp dưới hình thức vật chất. Do dó việc thực hiện tổ chức công tác kế toán thành phẩm cần một số yêu cầu quản lý sau: Kế toán thành phẩm đồng thời phải quản lý theo sự vận động của từng loại thành phẩm trong quá trình nhập xuất tồn kho trên cả chỉ tiêu hiện vật (gồm số lượng và chất lượng) và giá trị. + Về mặt số lượng: Phải thường xuyên phản ánh giám sát tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất, tình hình nhập xuất, dự trữ thành phẩm để kịp thời phát hiện các trường hợp thành phẩm tồn đọng lâu trong kho không tiêu thụ được để tìm biện pháp giải quyết tránh ứ đọng vốn.
  6. + Về mặt chất lượng: Phải thường xuyên nắm bắt thị hiếu của người tiêu dùng để kịp thời cải tiến thay đổi mặt hàng. Các bộ phận KCS phải làm tốt công tác kiểm tra, có chế độ bảo quản thích hợp đối với từng loại sản phẩm, kịp thời phát hiện những sản phẩm kém chất lượng. + Về mặt giá trị: Phải quản lý tốt chỉ tiêu giá thành, sản phẩm nhập kho hay giá vốn của thành phẩm mang đi tiêu thụ, tức là doanh nghiệp đã bỏ ra cho khối lượng thành phẩm hoàn thành. Tuy nhiên, sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra muốn thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng phải thông qua tiêu thụ. Vì vậy quá trình vận động của thành phẩm luôn gắn liền với quá trình tiêu thụ thành phẩm. 2. Tiêu thụ thành phẩm và yêu cầu của quản lý Tiêu thụ thành phẩm là quá trình thực hiện trao đổi thông qua phương tiện thanh toán để thực hiện giá trị của sản phẩm,hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng, Còn khách hàng phải trả cho doanh nghiệp một khoản tiền tương ứng với giá trị của sản phẩm hàng hoá dịch vụ đó theo giá quy định hoặc thoả thuận. Nói cách khác, bán hàng chính là quá trình trao đổi để thực hiện giá trị của hàng hoá, tức là chuyển hoá vốn của doanh nghiệp từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ. Tiêu thụ là khâu cuối cùng của chu trình sản xuất, là giai đoạn cuối cùng của quá trình tuần hoàn vốn của doanh nghiệp. Quá trình tiêu thụ bắt đầu từ khi doanh nghiệp bắt đầu xuất giao hàng cho khách hàng và kết thúc khi khách hàng thanh toán đầy đủ tiền hàng. Hàng đem tiêu thụ có thể là thành phẩm, hàng hoá, vật tư hay lao vụ cung cấp cho khách hàng khác nhau, các phương thức bán hàng, các thể thức thanh toán, nên trong khâu bán hàng doanh nghiệp cần phải bám sát các yêu cầu quản lý cơ bản sau: - Nắm bắt sự vận động của từng loại thành phẩm hàng hoá trong quá trình nhập xuất và tồn kho trên các chỉ tiêu số lượng, chất lượng và giá trị. - Nắm bắt theo dõi chặt chẽ từng phương thức bán hàng, từng thể thức thanh toán thành phẩm tiêu thụ và từng khách hàng, đôn đốc, thu hồi nhanh và đầy đủ tiền vốn. - Tính toán, xác định đúng đắn kết quả của từng loại hoạt động và thực hiện nghiêm túc cơ chế phân phối lợi nhuận. - Ngoài ra doanh nghiệp còn chủ động sử dụng tiền bán hàng đã thu được một cách có hiệu quả, đúng quy định.
  7. Vai trò thành phẩm là mục tiêu của quá trình sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Song quá trình sản xuất kinh doanh không dừng lại ở việc sản xuất thành phẩm mà còn phải tiến hành tiêu thụ chúng một cách kịp thời. Giữa kế hoạch sản xuất và kế hoạch tiêu thụ có mối quan hệ mật thiết, trong đó sản xuất là cái giá của tiêu thụ còn tiêu thụ là việc đưa kết quả sản xuất đến tay người tiêu dùng để đáp ứng nhu cầu xã hội. Thông qua số liệu kế toán về thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm mà ban lãnh đạo và cơ quan quản lý chức năng biết được mức độ hoàn thành kế hoạch. Từ đó khắc phục những thiếu sót giữa các khâu của quá trình quản lý và sắp xếp đúng đắn phù hợp hơn với đặc điểm kinh tế, kĩ thuật của từng doanh nghiệp. Để phất huy vai trò của kế toán đối với công tác quản lý quá trình sản xuất kinh doanh, kế toán thành phẩm tiêu thụ cần phải thực hiện tốt những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Tổ chức theo dõi phản ánh chính xác đầy đủ kịp thời và giám đốc chặt chẽ về tình hình hiện có và sự biến động của từng loại thành phẩm hàng hoá trên các mặt hiện vật cũng như giá trị. - Theo dõi, phản ánh và giám đốc chặt chẽ quá trình tiêu thụ ghi chép kịp thời, đầy đủ các khoản chi phí bán hàng, thu nhập bán hàng cũng như chi phí và thu nhập của hoạt động khác. - Cung cấp những thông tin kinh tế cần thiết cho các bộ phận liên quan. định kỳ tiến hành phân tích kinh tế đối với hoạt động bán hàng, phân phối kết quả và thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. Thực hiện tốt các nhiệm vụ trên sẽ có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc quản lý chắt chẽ các thành phẩm tiêu thụ trong doanh nghiệp. Song toàn bộ nhiệm vụ trên chỉ thực sự phát huy tác dụng khi cán bộ kế toán nắm vững nội dung của việc tổ chức công tác kế toán. II. Tổ chức công tác kế toán thành phẩm trong doanh nghiệp sản xuất 1. Nguyên tắc tổ chức hạch toán thành phẩm Thành phẩm của doanh nghiệp bao gồm rất nhiều chủng loại khác nhau. Để quản lý và hạch toán chặt chẽ thành phẩm, công tác kế toán thành phẩm phải được tổ chức theo các nguyên tắc sau: - Phải tổ chức công tác kế toán thành phẩm theo từng chủng loại thành phẩm, theo đúng số lượng và chất lượng.
  8. - Phải có sự phân công và kết hợp trong việc ghi chép kế toán thành phẩm giữa phòng kế toán với thủ kho và phân xưởng đảm bảo cho kế toán thành phẩm luôn chính xác kịp thời. Sự biến động của thành phẩm có rất nhiều nguyên nhân, vì vậy để phản ánh được tình hình biến động của thành phẩm phải tổ chức công tác kế toán ghi chép ban đầu một cách khoa học, hợp lý. Đối với thành phẩm của doanh nghiệp sản xuất, thành phẩm nhập - xuất - tồn kho được phản ánh theo giá thành thực tế. Nếu hàng ngày hạch toán chi tiết thành phẩm nhập - xuất - tồn kho thành phẩm được ghi sổ theo giá hạch toán thì cuối tháng kế toán phải tính ra giá thành thực tế thành phẩm xuất bán trong kỳ.
  9. 2. Đánh giá thành phẩm Về nguyên tắc thành phẩm được phản ánh theo trị giá vốn thực tế. Tuy nhiên, trong quá trình hạch toán, doanh nghiệp có thể sử dụng hai cách đánh giá: Đánh giá thực tế và đánh giá theo giá hạch toán. a. Đánh giá thành phẩm theo giá thực tế Trị giá của thành phẩm phản ánh trong kế toán tổng hợp ( trên TK, sổ tổng hợp, báo cáo tài chính) phải được đánh giá theo nguyên tắc giá thực tế, hay còn gọi là giá vốn thực tế. Giá thực tế của thành phẩm nhập kho đựơc xác định phù hợp với từng nguồn nhập. Thành phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra được đánh giá thành công xưởng thực tế( giá thành sản xuất thực tế) bao gồm chi phí NVL trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Thành phẩm thuê ngoài gia công đựơc đánh giá theo giá thành thực tế gia công bao gồm: chi phí NVL trực tiếp, chi phí thuê gia công và các chi phí khác có liên quan trực tiếp đến quá trình gia công( chi phí vận chuyển đi về) Đối với thành phẩm xuất kho cũng được phản ánh theo giá thực tế. Do thành phẩm nhập từ các nguồn hay các đợt nhập với giá khác nhau nên việc xác định giá thực tế xuất kho có thể áp dụng một trong các cách sau: - Tính theo đơn giá thực tế đích danh. - Tính theo đơn giá thực tế bình quân gia quyền - Tính theo đơn giá nhập sau xuất trước(LIFO) - Tính theo đơn giá nhập trước xuất trước(FIFO) b. Đánh giá thành phẩm theo giá hạch toán Do biến động thường xuyên và việc xác định giá thực tế của thành phẩm sản xuất ra chỉ theo định kỳ. Vì vậy để ghi chép kịp thời giá trị thành phẩm nhập xuất, doanh nghiệp cần sử dụng một loại giá ổn định trong một thời gian dài gọi là giá hạch toán. Giá có thể chọn làm cơ sở xây dựng giá hạch toán là giá thành kế hoạch hoặc giá thành thực tế tại một thời kỳ nào đó. Cuối kỳ tổng hợp giá thực tế thành phẩm nhập kho trong kỳ theo công thức: Trị giá thực tế thành = Trị giá hạch toán thành phẩm x Hệ số giá
  10. phẩm xuất kho trong kỳ xuất kho trong kỳ Trong đó Trị giá TP tồn đầu kỳ + Trị giá TP nhập trong kỳ Hệ số giá = Giá hạch toán TP tồn đầu kỳ + Giá hạch toán TP nhập trong kỳ 3. Kế toán nhập xuất kho thành phẩm a. Chứng từ sử dụng Theo chế độ chứng từ kế toán qui định ban hành theo quyết định 1141/TC/QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995 của Bộ tài chính, các chứng từ chủ yếu bao gồm: - Phiếu nhập kho. - Phiếu xuất kho. - Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ. - Biên bản kiểm kê vật tư sản phẩm, hàng hoá. - Hoá đơn cước phí vận chuyển. - Hoá đơn kiêm phiếu xuất kho. Đối với chứng từ kế toán phải lập kịp thời, đầy đủ theo đúng qui định về mẫu biểu, nội dung, phương pháp lập. Người lập chứng từ phải chịu trách nhiệm về tính hợp lý, hợp pháp và tính chính xác của các số liệu ghi trong chứng từ. b. Kế toán chi tiết thành phẩm Kế toán chi tiết thành phẩm là việc theo dõi chi tiết từng loại, từng nhóm thậm chí đến từng thứ thành phẩm theo từng kho thành phẩm và theo từng người chịu trách nhiệm bảo quản (thủ kho). Tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp mà có thể lựa chọn nội dung một trong ba phương pháp kế toán chi tiết thành phẩm cụ thể sau: - Phương pháp ghi thẻ song song. - Phương pháp đối chiếu luân chuyển. - Phương pháp ghi sổ số dư. Tuy nhiên, doanh nghiệp áp dụng theo phương pháp nào thì công việc kế toán chi tiết thành phẩm cũng là công việc được tiến hành đồng thời trên cả hai nơi tại kho và tại phòng kế toán.
  11. + Tại kho việc hạch toán chi tiết thành phẩm đều được thực hiện trọn vẹn trên thẻ kho. Thẻ kho được mở cho từng loại thành phẩm, căn cứ vào số lượng chứng từ nhập xuất kho, kế toán ghi số lượng thực nhập, thực xuất vào thẻ. Cuối ngày hoặc sau mỗi nghiệp vụ nhập xuất, thủ kho phải kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp của chứng từ, tính ra số lượng tồn kho và ghi vào thẻ kho. + Tại phòng kế toán công việc kế toán chi tiết TP do bộ phận kế toán thành phẩm tiến hành. Tuỳ theo phương pháp áp dụng tại doanh nghiệp mà việc hạch toán chi tiết thành phẩm được thực hiện trên các thẻ kho hoặc sổ chi tiết TP, số đối chiếu luân chuyển hay sổ số dư. Dù thực hiện việc kế toán chi tiêt TP theo phương pháp nào thì căn cứ để tiến hành ghi chép cũng là những chứng từ nhập xuất. Về cơ bản các nghiệp vụ ghi chép các chứng từ nhập xuất được thực hiện trên chỉ tiêu giá trị. Tuy nhiên theo phương pháp ghi thẻ song song được thực hiện trên cả chỉ tiêu số lượng. Có thể khái quát qui trình ghi sổ theo 3 phương pháp sau:  Phương pháp ghi thẻ song song Sơ đồ kế toán chi tiêt TP theo phương pháp ghi thẻ song song Thẻ kho Chứng Chứng từ nhập từ xuất Thẻ (sổ) chi tiết TP Ghi chú: Ghi hàng ngày Bảng kê tổng Ghi cuối hợp nhập – tháng xuất – tồn  PhươngĐối phápchiếu sổ đối chiếu luân chuyển Sơ đồ kế toán chi tiết TP theo Phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển
  12. Thẻ kho Chứng Chứng từ nhập từ xuất Bảng kê Sổ đối chiêu Bảng kê nhập luân chuyển xuất Ghi chú: Ghi hàng ngày Ghi cuối tháng Đối chiếu
  13.  Phương pháp ghi sổ số dư: Sơ đồ kế toán chi tiết thành phẩm Phương pháp ghi sổ số dư Thẻ kho Chứng từ Chứng từ nhập xuất Sổ số dư Bảng kê Bảng kê nhập xuất Bảng luỹ kế Bảng luỹ kế nhập xuất Thẻ kho Ghi chú: Ghi hàng ngày Ghi cuối tháng Đối chiếu
  14. Mỗi phương pháp đều có ưu, nhược điểm và phạm vi ứng dụng khác nhau, song thực chất vẫn là sự phối hợp, ghi hcép theo dõi tình hình xuất kho thành phẩm hàng ngày hoặc định kỳ giữa thủ kho và kế toán nhằm mục đích theo dõi chặt chẽ tình hình nhập xuất tồn kho cho từng thành phẩm cả về giá trị và số lượng để cung cấp những thông tin cần thiết một cách kịp thời cho lãnh đạo doanh nghiệp lập báo cáo chính xác kịp thời, dúng quy định. Do vậy, mỗi doanh nghiệp cần phải căn cú vào tình hình thực tế của doanh nghiệp mình mà nghiên cứu vận dụng cho phù hợp. 4. Kế toán tổng hợp thành phẩm a. Tài khoản sử dụng Kế toán tổng hợp thành phẩm sử dụng các tài khoản sau: - TK 155- Thành phẩm: dùng để phản ánh giá trị hiện có và tình hình biến động của các loại thành phẩm trong doanh nghiệp. - TK 157- Hàng gửi đi bán: Dùng để phản ánh giá trị của thành phẩm đã gửi hoặc đã chuyển cho khách hàng, hoặc nhờ bán đại lý, ký gửi, trị giá của lao vụ dịch vụ đã hoàn thành bàn giao cho người đặt hàng nhưng chưa được chấp nhận thanh toán. - TK 632- Giá vốn hàng bán: Dùng để phản ánh trị giá vốn của thành phẩm hàng hoá dịch vụ xuất trong kỳ. b. Phương pháp kế toán - Theo phương pháp kê khai thường xuyên: Là phương pháp ghi chép phản ánh thường xuyên liên tục và có hệ thống tình hình nhập xuất tồn kho các loại thành phẩm trên tài khoản và sổ kế toán tổng hợp thành phẩm thể hiện qua sơ đồ sau: Sơ đồ hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp KKTX. TK154 TK155 TK632 TK911 (2 (1 ) (5 ) TK157 ) (3a (3
  15. (1) Giá thành sản phẩm thực tế của tế của thành phẩm tự sản xuất, thuê ngoài gia công nhập kho. (2) Giá thành sản xuất thực tế của thành phẩm xuất bán. (3a) Giá thành sản xuất thực tế của thành phẩm gửi đi bán, nhờ bán đại lý, ký gửi. (3b) Giá thành sản xuất thực tế của thành phẩm gửi đi bán đã xác định tiêu thụ. (4a) Trị giá thực tế của thành phẩm phát hiện thừa khi kiểm kê. (4b) Trị giá thực tế của thành phẩm phát hiện thiếu khi kiểm kê. (5) Cuối kỳ kết chuyển giá vốn thực tế của hàng đã tiêu thụ ( xuất bán trong kỳ). - Theo phương pháp KKĐK: Là phương pháp hạch toán mà mỗi nghiệp vụ nhập kho thành phẩm không được ghi ngay vào tài khoán mà đến cuối kỳ hạch toán mới tiến hàng kiểm kê số thành phẩm tồn kho để tính ra số đã xuất trong kỳ và ghi sổ một lần.
  16. - Trình tự hạch toán thể hiện qua sơ đồ tài khoản: (3) TK 155, TK632 TK157 (1) TK911 (4) TK631 (2) (1) Kết chuyển trị giá thực tế thnàh phẩm tồn kho đầu kỳ. (2) Giá thành sản xuất thực tế của thành phẩm hoàn thành nhập kho. (3) Kết chuyển giá thành sản xuất thực tế của thành phẩm tồn kho cuối kỳ và của thành phẩm đã gửi đi bán chưa xác định tiêu thụ cuối kỳ. (4) Kết chuyển giá thành sản xuất thực tế của thành phẩm đã tiêu thụ. III. Tổ chức công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả hoạt động kinh doanh ở doanh nghiệp sản xuất 1. Kế toán doanh thu bán hàng, thuế và các khoản giảm trừ doanh thu Doanh thu bán hàng là tổng giá trị thực hiện do hoạt động tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá cung cấp lao vụ dịch vụ cho khách hàng. Doanh thu bán hàng thường được phân biệt riêng cho từng loaị: Doanh htu bán hàng hoá, doanh thu bán thành phẩm, doanh thu cung cấp dịch vụ. Ngoài ra cũng cần phân biệt doanh thu bán hàng theo phương thức tiêu thụ gồm doanh thu bán hàng ra ngoài (bán cho các đại lý bên ngoài và cá nhân ở trong hay ngoài doanh nghiệp) và doanh thu bán hàng nội bộ (bán cho các đơn vị thành viên trong cùng một công ty, tổng công ty hạch toán toàn ngành). Tuỳ theo từng phương thức bán hàng khác nhau mà thời điểm xác định kết thúc tiêu thụ và hạch toán doanh thu khác nhau. Cụ thể:
  17. - Phưong thức tiêu thụ trực tiếp: là phương thức giao hàng cho người mua trực tiếp tại kho ( hay tại các phân xưởng không qua kho của doanh nghiệp sản phẩm khi bàn giao cho khách hàng được chính thức coi là tiêu thụ. - Phương thức xuất hàng gửi đi bán: Doanh nghiệp phải chờ sự chấp nhận của người mua trả tiền hoặc chấp nhận mới coi là kết thúc tiêu thụ. - Phương thức giao hàng cho đại lý (ký gửi): Khi đại lý hoặc đơn vị nhận ký gửi thông báo bán được hàng hoặc trả tiền hàng thì quá trình tiêu thụ mới kết thúc. - Phương thức bán hàng trả góp: Quá trình tiêu thụ kết thúc khi thu được tiền hàng hoặc xác định được phần người mua trả. Vậy doanh thu bán hàng có thể được ghi nhận trước hoặc sau khi doanh nghiệp thu được tiền. Trong quá trình tiêu thụ, doanh nghiệp phải nộp thuế cho nhà nước, như thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có). Trong quá trình tiêu thụ thành phẩm cũng có thể phát sinh các khoản làm giảm doanh thu như chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán và hàng bán bị trả lại. + Chiết khấu bán hàng: Là số tiền mà doanh nghiệp dành cho khách hàng trong trường hợp họ thanh toán nhanh hoặc mua hàng thường xuyên với số lượng lớn. + Giảm giá hàng bán: Là số tiền mà doanh nghiệp phải giảm cho khách hàng do không thực hiện đúng các khoản đã ký kết trong hợp đồng về chất lượng thời hạn. + Hàng bán bị trả lại: Là số tiền mà doanh nghiệp phải trả lại cho khách hàng trong trường hợp lỗi thuộc về doanh nghiệp như phạm vi cam kết vi phạm hợp đồng, hàng sai quy cách. Các khoản doanh thu bán hàng, thuế và các khoản làm giảm doanh thu bán hàng cần được theo dõi, ghi chép đầy đủ làm cơ sở xác định kết quả sản xuất kinh doanh. a. Chứng từ và tài khoản kế toán - Chứng từ: Các khoản doanh thu bán hàng, thuế và các khoản làm giảm doanh thu bán hàng được phản ánh trong các chứng từ và tài liệu liên quan như: Hoá đơn bán hàng, hoá đơn
  18. kiêm phiếu xuất kho, chứng từ trả tiền, chứng từ tính thuế, trả hàng… Các chứng từ tài liệu này là căn cứ để xác định và ghi sổ kế toán liên quan. - Tài khoản sử dụng: + TK 511- Doanh thu bán hàng: Dùng để phản ánh doanh thu bán hàng thực tế của doanh nghiệp trong kỳ và các khoản làm giảm doanh thu. + TK 512- Doanh thu bán hàng nội bộ: Dùng để phản ánh doanh thu của số thành phẩm, hàng hoá lao vụ dịch vụ đã tiêu thụ nội bộ giữa các đơn vị trực thuộc trong cùng một công ty, tổng công ty hạch toán toàn ngành. +TK531- Hàng bán bị trả lai: Dùng để phản ánh số doanh thu của sản phẩm hàng hoá lao vụ dịch vụ đã tiêu thụ bị khách hàng trả lại do các nguyên nhân lỗi thuộc về doanh nghiệp như vi phạm cam kết hợp đồng. +TK 532- Giảm giá hàng bán: Được sử dụng để theo dõi toàn bộ các khoản giảm giá, bớt hồi khấu của việc bán hàng trong kỳ. +TK 333- Thuế và các khoản phải nộp nhà nước: Dùng để phản ánh tình hình thanh toán với nhà nước về thuế và các khoản nghĩa vụ. b. Trình tự kế toán bán hàng, doanh thu bán hàng, thuế và các khoản giảm trừ doanh thu.
  19. Sơ đồ kế toán doanh thu bán hàng, thuế, các khoản làm giảm doanh thu TK511 TK641 (4) (9) TK333 TK111,112,131 TK531,532 (1) (2) (3) TK71 (8) 1 (6a TK911 ) TK138 (5) (6b ) TK152,153 (6c ) TK334 (7) (1) Giá bán của thành phẩm được xác định là tiêu thụ. (2) Thuế GTGT, thuế tiêu htụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu phải nộp nhà nước. (3) Các khoản giảm giá hàng bán và hàng bị trả lại thực tế phát sinh trong kỳ. (4) Cuối kỳ hạch toán kết chuyển toàn bộ các khoản chiết khấu bná hàng, giảm giá hàng bán và hàng bị trả lại được khấu trừ vào doanh thu. (5) Cuối kỳ hạch toán kết chuyển toàn bộ các khoản chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán và hàng bán bị trả lại được trừ vào doanh thu bán hàng. (6) Doanh thu bán hàng theo phương thức hàng đổi hàng. (6a) (6b) Doanh nghiệp chưa nhận được vật tư hàng hoá. (6c) Doanh nghiệp đã nhận được vật tư hàng hoá.
  20. (7) Doanh thu của số sản phẩm doanh nghiệp dùng để trả lương cho công nhân viên. (8) Số tiền lãi do trả chậm trong trường hợp doanh nghiệp bán hàng theo phương thức trả góp. (9) Doanh thu bán hàng sau khi đã trừ phần hoa hồng để lại cho đại lý trong trường hợp bán hàng theo phương thức gửi đại lý, ký gửi. 2. Kế toán xác định kết qủa bán hàng Bất kỳ một chủ doanh nghiệp nào cũng quan tâm đến những thông tin vầ kết quả kinh doanh để tiến hành phân tích, đánh giá kết quả hoạt động làm cơ sở xác định phương hướng sản xuât kinh doanh đúng đắn và có hiệu quả cao. Do vậy, các chủ doanh nghiệp thường đòi hỏi kế toán phải cung cấp những thông tin và doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh của từng loại sản phẩm, từng hoạt động, từng đơn vị phụ thuộc. Muốn vậy, khi tổ chức kế toán xác định kết quả bán hàng, kế toán doanh nghiệp phải tổ chức kế toán chi phí, doanh thu một cách chi tiết theo từng đối tượng cụ thể để tính toán và xác định kết quả kinh doanh theo yêu cầu của chủ doanh nghiệp và giám đốc điều hành. a. Kế toán chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp là những chi phí quản lý chung không được tính vào giá thành sản phẩm mà được tính vào giá thành sản phẩm tiêu thụ, tức là phân bổ cho số sản phẩm tiêu thụ trong kỳ. Do vậy, khi kế toán xác định kết quả kinh doanh cần phải xác định được chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp để tính toán phân bổ cho sản phẩm tiêu thụ trong kỳ. - Chi phí bán hàng: Là chi phí lưu thông và chi phí tiếp thị phát sinh trong kỳ tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ dịch vụ. Chi phí bán hàng bao gồm nhiều khoản cụ thể khác nhau. Theo quy định hiện hành, chi phí bán hàng gồm chi phí nhân viên, chi phí vật liệu bao bì, chi phí dụng cụ đồ dùng, chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí dich vụ mua ngoài, chi phí bằng tiền khác.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2