intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn tốt nghiệp: Chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương mại công thương Hưng Yên

Chia sẻ: Dong Ba Liem | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:65

121
lượt xem
32
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung đề tài gồm các chương sau: chương 1 chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại, chương 2 thực trạng chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Công thương tỉnh Hưng Yên, chương 3 giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Công thương tỉnh Hưng Yên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn tốt nghiệp: Chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương mại công thương Hưng Yên

  1. B ¸ o  c ¸ o  t h ù c  t Ë p  t è t  n g h i Ö p MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................1 CHƯƠNG I: CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP  VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.........................3 1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại .........................................................3 1.2. Chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ  của Ngân hàng   thương mại.........................................................................................................12 CHƯƠNG   II:   THỰC   TRẠNG   CHẤT   LƯỢNG   TÍN   DỤNG   ĐỐI   VỚI  DOANH   NGHIỆP   NGOÀI   QUỐC   DOANH   TẠI   NGÂN   HÀNG   CÔNG  THƯƠNG TỈNH HƯNG YÊN........................................................................27 2.1. Khái quát về Ngân hàng Công thương tỉnh Hưng Yên...............................27 2.2. Thực trạng chất tín dụng với DNVVN của Ngân hàng Công thương tỉnh   Hưng Yên............................................................................................................31 Chương   III:   GIẢI   PHÁP   NÂNG   CAO   CHẤT   LƯỢNG   TÍN  DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI  NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HƯNG YÊN.............................43 3.1. Định hướng phát triển và quan điểm nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân  hàng Công thương tỉnh Hưng Yên.....................................................................43 3.2. Giải pháp tăng cường nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNVVN tại   Ngân hàng Công thương tỉnh Hưng Yên............................................................43 3.3. Một số kiến nghị nhằn nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp  vừa và nhỏ...........................................................................................................54 KẾT LUẬN........................................................................................................59 SV: Đoàn Thanh Thuỷ                                                       Lớp: TTCK44 ­ NHTC
  2. B ¸ o  c ¸ o  t h ù c  t Ë p  t è t  n g h i Ö p LỜI MỞ ĐẦU Cùng với sự  ra đời và phát triển của thị  trường Tài chính  ở  nước ta, các  Ngân hàng thương mại (NHTM) đang từng bước thể  hiện vai trò không thể  thiếu của mình trong nền kinh tế. Sự lựa chọn đầu tiên của các tổ chức cá nhân  khi thiếu vốn là tìm tới các NHTM, vì vậy mà hoạt động của các NHTM có ảnh  hưởng rất to lớn tới hoạt động cũng như  sự  phát triển của các tổ  chức kinh tế  khác trong nền kinh tế.  Một thành phần kinh tế  cơ  bản trọng yếu trong nền kinh t ế  n ữa  đó là  Doanh nghiệp, cụ  thể  là Doanh nghiệp vừa và nhỏ  (DNVVN). Đặc điểm nổi  bật của các Doanh nghiệp này đó là sự tích luỹ các yếu tố sản xuất rất phù hợp   với tình hình nước ta hiện nay. Có thể nói, hai tổ chức kinh tế này đang là hai cực lam châm của nền kinh  tế  Việt Nam. Với đặc điểm bẩm sinh của mình, các DNVVN không thể  không  quan hệ  vay vốn với các NHTM. Ngược lại, nó cũng là Khách hàng thường  xuyên của các NHTM. Như vậy là mối quan hệ giữa hai thành phần kinh tế này là rất đáng quan   tâm. Ở đây là quan hệ tín dụng, quan hệ cung cấp và tiếp nhận vốn kinh doanh.   Chất lượng tín dụng đối với các DNVVN từ trước tới nay luôn được các NHTM   quan tâm hàng đầu. Trước thực tế  đó, trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Công thương   Hưng Yên, ngoài việc học hỏi thực tế  về  các lĩnh vực hoạt động của Ngân  hàng, em còn chú tâm nghiên cứu về  lĩnh vực“ Nâng cao Chất lượng tín dụng   đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại, cụ thể là Ngân  hàng Công thương Hưng Yên.”  Bài viết gồm có 3 chương: SV: Đoàn Thanh Thuỷ                                                       Lớp: TTCK44 ­ NHTC
  3. B ¸ o  c ¸ o  t h ù c  t Ë p  t è t  n g h i Ö p Chương I: Chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ  của Ngân hàng thương mại. Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp  vừa và nhỏ tại Ngân hàng Công thương tỉnh Hưng Yên. Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh  nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Công thương tỉnh Hưng Yên  Do thời gian thực tập tại Ngân hàng và trình độ của sinh viên còn hạn chế  nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự  hướng dẫn, góp ý  của các thầy cô.                                                                                      SV: ĐOÀN THANH THUỶ SV: Đoàn Thanh Thuỷ                                                       Lớp: TTCK44 ­ NHTC
  4. B ¸ o  c ¸ o  t h ù c  t Ë p  t è t  n g h i Ö p CHƯƠNG I: CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP  VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại  1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của Ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại là gi? Ngân hàng thương mại (NHTM) là một  Doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, hoạt động chính của Doanh nghiệp này là  nhận tiền gửi và cho vay nhằm mục đích sinh lời. Ngoài ra, Ngân hàng thương  mại còn có một số  nghiệp vụ  nữa là kinh doanh chứng khoán, nghiệp vụ  bảo  lãnh, uỷ thác đầu tư… Ngân hàng là một tổ  chức quan trọng trong nền kinh tế, Ngân hàng bao  gồm nhiều loại tuỳ  thuộc vào sự  phát triển của nền kinh tế  nói chung và hệ  thống Tài chính nói riêng, trong đó Ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ  trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các Ngân hàng. Ngân hàng là tổ  chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền   kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ  gia đình và các Doanh nghiệp, các tổ  chức kinh   tế – Xã hội đều gửi tiền tại  Ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò là thủ quỹ trong  toàn xã hội. Thu nhập từ Ngân hàng là thu nhập quan trọng trong nhiều gia đình.   Ngân hàng là tổ  chức cho vay chủ  yếu với các Doanh nghiệp, cá nhân, hộ  gia   đình và một phần đối với Nhà nước (thành phố, tỉnh…). Đối với các Doanh  nghiệp, Ngân hàng thường là tổ  chức cấp tín dụng để  phục vụ  cho việc mua  bán hàng hoá dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị. Khi Doanh   nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán các khoản mua hàng hoá và dịch vụ,  SV: Đoàn Thanh Thuỷ                                                       Lớp: TTCK44 ­ NHTC
  5. B ¸ o  c ¸ o  t h ù c  t Ë p  t è t  n g h i Ö p họ thường sử dụng séc, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử.v.v…  và khi họ cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính, họ thường tới Ngân  hàng để  được nhận lời tư  vấn. Các khoản tín dụng của Ngân hàng cho chính   phủ  (thông qua chứng khoán Chính phủ) là nguồn Tài chính quan trọng để  đầu  tư, phát triển. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là các chính  sách tiền tệ, vì vậy là công cụ  quan trọng trong chính sách kinh tế  của Chính   phủ nhằm phát triển kinh tế bền vững. Do đó, cần phải nghiên cứu và hiểu một   cách cặn kẽ về  loại hình tổ  chức này để  có thể  vận hành và quản lý một cách   có hiệu quả. Ngân hàng là một loại hình tổ  chức quan trọng đối với nền kinh tế. Các  Ngân hàng có thể được định nghĩa theo chức năng, các dịch vụ cụ thể hoặc vai   trò mà chúng có thể thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề ở  chỗ các yếu tố trên   đang không ngừng thay đổi, thực tế  có rất nhiều các Tổ  chức Tài chính – bao   gồm cả các Công ty chứng khoán, các Công ty môi giới chứng khoán, quỹ hỗ trợ  và các công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ ngân   hàng.  Ngược lại, ngân hàng cũng đang mở  rộng phạm vi cung cấp dịch vụ  về  bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư  quỹ hỗ trợ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác. 1.1.2. Các hoạt động cơ bản của một ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại là một Doanh nghiệp đặc biệt có rất nhiều chức  năng kinh doanh về tiền tệ. Những chức năng đó được thể hiện cụ thể qua các  hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. NHTM có hoạt động gần gũi nhất với nhân dân và nền kinh tế. Nền kinh  tế càng phát triển cao, hoạt động của NHTM càng đi vào tận ngõ ngách của đời   sống kinh tế  đất nước. Hoạt động kinh doanh của NHTM được chia làm hai  loại có tính khác nhau: a) Hoạt động nghiệp vụ (hoạt động kinh doanh tiền tệ). Chữ “nghiệp vụ”  có nghĩa là nghề  nghiệp, nghề  sống bẩm sinh vốn có của ngành ngân hàng  SV: Đoàn Thanh Thuỷ                                                       Lớp: TTCK44 ­ NHTC
  6. B ¸ o  c ¸ o  t h ù c  t Ë p  t è t  n g h i Ö p (nghề buôn tiền, kinh doanh tiền tệ), mà nếu thiếu nó thì Ngân hàng không còn  là Ngân hàng nữa. Những hoạt động để tìm kiếm nguồn vốn hoặc cung ứng vốn   cho khách hàng gọi là hoạt động kinh doanh tiền tệ và gọi tắt là hoạt động nua  bán vốn tiền tệ giữa một bên là Ngân hàng và một bên là Khách hàng là một đặc  trưng cơ bản của nghiệp vụ ngân hàng. b) Dịch vụ. Đây là một hoạt động bao gồm các nhân tố  không hiện hữu,  giải quyết các mối quan hệ giữa Khách hàng hoặc tài sản mà khách hàng sở hữu  với người cung cấp mà không có sự chuyển giao quyền sở hữu. Sản phẩm của   dịch vụ  này có thể  trong phạm vi hoặc vượt quá phạm vi của sản phẩm vật   chất do Ngân hàng cung cấp cho khách hàng của mình. Hoạt động của Ngân hàng mang tính cạnh tranh cao độ. Trong nền kinh tế  thị  trường, cạnh tranh là quy luật vận động tự  nhiên, không lệ  thuộc vào nhận   thức hoặc chọn lựa chủ quan của con người. Xuất phát từ sự mâu thuẫn lợi ích   giữa các Doanh nghiệp, cạnh tranh là động lực của sự phát triển, mục đích của   cạnh tranh là giữa vững thị  phần của mình, mở  rộng thị  phần sang thị  trường   tiềm năng, chiếm lĩnh thị phần của đối thủ cạnh tranh. Mục tiêu của kinh doanh  là tối đa hoá lợi nhuận, an toàn trong kinh doanh, không ngừng gia tăng doanh   thu, nên cạnh tranh chính là một trong các chìa khoá của mỗi Doanh nghiệp để  đạt được tham vọng trong thương trường,. Ngày nay, sự phát triển không ngừng  của khoa học, công nghệ, sản xuất hàng hoá phát triển với quy mô rộng lớn làm  cho cạnh tranh càng quyết liệt và sâu rộng ­ Cạnh tranh chính là yếu tố  nội tại  của quá trình kinh doanh và tiếp xúc với cạnh tranh là điều không thể tránh. Đối  với hoạt động của NHTM, sự  cạnh tranh gay gắt đã bắt đầu trên thế  giới từ  nhữnq năm 70 của thế kỷ 20 do các yếu tố cơ bản sau: 1.Công nghệ  ngân hàng  có xu hướng quốc tế hoá; 2. Các thị trường vốn mới được mở đã làm biến đổi  hệ thống tiền gửi truyền thống; 3. Công nghệ  ngân hàng tại nhiều nước đã bắt  đầu đa dạng hoá các dịch vụ; 4. Ngành công nghiệp ngân hàng đã tìm mọi cách   SV: Đoàn Thanh Thuỷ                                                       Lớp: TTCK44 ­ NHTC
  7. B ¸ o  c ¸ o  t h ù c  t Ë p  t è t  n g h i Ö p phát triển các tổ  chức phi ngân hàng, tạo điều kiện hoạt động trong lĩnh vực   chuyên biệt; v.v… Nghiệp vụ ngân hàng nói chung bao gồm tất cả những việc mà ngân hàng   thường làm trong khuôn khôn khổ nghề nghiệp của họ. tuỳ điều kiện kinh tế và   mức độ phát triển kỹ thuật của mỗi nước, các nghiệp vụ kinh doanh của NHTM  bao gồm ba lĩnh vực: nghiệp vụ  nợ, nghiệp vụ có và nghiệp vụ  môi giới trung  gian. Đó là các nghiệp vụ nằm trong bảng tổng kết tài sản. Ngoài ra còn có các  nghiệp vụ khác không được phản ánh lên bảng tổng kết tài sản như nghiệp vụ  bảo lãnh, nghiệp vụ  cho thuê két sắt, tư  vấn… Thị  trường các sản phẩm tài   chính thay đổi nhanh chóng gây ra nhiều vấn đề  cho công tác quản lý và có thể  dẫn đến các rủi ro mới có tính hệ  thống. Vì đó là các trách nhiệm không biết  trước được nên nó được định nghĩa như  là sản phẩm ngoài bảng tổng kết tài  sản và có thể  các trách nhiệm này nằm ngoài phạm vi các nguyên tắc truyền   thống về các khoản vốn hỗ trợ cần thiết. Các nghiệp vụ của NHTM có quan hệ chặt chẽ, hộ trợ lẫn nhau để  hình  thành hoạt động kinh doanh của NHTM trong nền kinh tế. Khi NHTM đi vào   hoạt động  ổn định, các nghiệp vụ  được xen kẽ  lẫn nhau trong suốt quá trình  hoạt động, tạo thành một chỉnh thể thống nhất. Dưới đây là hai hoạt động (nghiệp vụ) cơ bản của NHTM. 1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại Nghiệp vụ huy đông vốn của Ngân hàng thương mại được gọi là nghiệp  vụ nợ, những khoản mục nguồn vốn do nghiệp vụ này tạo nên khi thể hiện trên   bảng tổng kết tài sản của Ngân hàng thương mại sẽ  nằm bên tài sản nợ. Đây  được coi là nghiệp vụ khởi đầu, tạo nền móng cho mọi hoạt động tiếp theo của  Ngân hàng thương mại. Về  sau, khi Ngân hàng đã hình thành vốn cố  định, các   nghiệp vụ của nó được xen kẽ lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động.  Huy động các nguồn vốn khác nhau (tài sản nợ) trong xã hội để hoạt động  là lẽ sống quan trọng nhất của các NHTM. Ở các nước công nghiệp, với sự phát  SV: Đoàn Thanh Thuỷ                                                       Lớp: TTCK44 ­ NHTC
  8. B ¸ o  c ¸ o  t h ù c  t Ë p  t è t  n g h i Ö p triển nhanh chóng của thị  trường Tài chính, đã có nhiều tài sản có mức lợi tức   ổn định và tính thanh khoản cao, tài sản nợ  rất đa dạng làm cho việc tìm kiếm  vốn hoạt động của NHTM trở thành cạnh tranh khốc liệt, trước mắt các NHTM  ở các nước phát triển luôn luôn xuất hiện một vấn đề, đó là làm thế  nào để  có   đủ  vốn đầu tư  giữa môi trường đầu tư  cạnh tranh đầy kịch tính. Ngân hàng   thương mại phải cạnh tranh với các Ngân hàng khác, với các tổ  chức tài chính  khác, với các nghiệp vụ thị trường trực tiếp và với bất cứ một tổ chức nào khác   muốn thu hút một khối lượng vốn nào đó. Tài sản nợ của NHTM tập trung vào năm nhóm phổ  biến là: 1)Vốn pháp  định hay vốn điều lệ; 2)Tiền gửi không kỳ  hạn; 3)Tiền gửi có kỳ  hạn và tiết  kiệm; 4)Các khoản vay trên thị  trường tiền tệ; 5)Các khoản vay từ  các Ngân  hàng khác hoặc từ  Ngân hàng Trung  ương.Tài sản nợ  của Ngân hàng thương   mại là nguồn vốn chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nói theo   ngôn ngữ  thị  trường, tài sản nợ  diễn tả  những khoản mà NHTM mắc nợ  thị  trường, nghĩa là bao gồm những khoản mà nhân dân gửi vào (ký thác) cho nó,   hay nó đi vay các đối tượng khách trong nền kinh tế Ngân hàng trung ương, các   ngân   hàng   hay   tổ   chức   tín   dụng   khác,   chính   quyền,   nước   ngoài,   các   doanh   nghiệp, nhân dân… Đứng bên tài sản nợ, NHTM là người đi vay, là con nợ, còn  các đối tượng kia là người cho vay, là chủ nợ của NHTM. Như vậy, thuật ngữ  “tài sản nợ” phản ánh rằng đó là tài sản của người khác mà ngân hàng vay.Tài  sản nợ bao gồm: Vốn pháp định, vốn điều lệ.  Vốn pháp định (hay còn gọi là vốn điều lệ) là số vốn đầu tư ban đầu khi   thành lập ngân hàng và được ghi rõ trong điều lệ  của NHTM. Vốn điều lệ  ít   nhất phải bằng mức vốn pháp định do NHNN công bố  vào đầu mỗi năm tài   chính. Vốn điều lệ quy định cho một ngân hàng nhiều hay ít tuỳ  thuộc vào quy  mô và phạm vi hoạt động, cổ  đông, ngân sách cấp, lợi nhuận bổ  sung… Vốn  này chủ  yếu dùng để  mua sắm bất động sản, động sản, trang thiết bị… cho   SV: Đoàn Thanh Thuỷ                                                       Lớp: TTCK44 ­ NHTC
  9. B ¸ o  c ¸ o  t h ù c  t Ë p  t è t  n g h i Ö p hoạt động ngân hàng, ngoài ra còn được dùng để  đóng góp vốn liên doanh, cho  vay, mua cổ phần của các công ty khác. Không được dùng vốn điều lệ  để  chia   cổ  tức, lập quỹ phúc lợi khen thưởng. Như vậy, đến khi ngân hàng hoạt động,  vốn điều lệ  có thể  đã nằm dưới dạng trụ  sở, văn phòng, kho bãi, xe cộ, trang   thiết bị, dự trữ hay lý quỹ  tại NHTW, hoặc đã đầu tư  vào một thương vụ  nào   đó. Ngoài vốn điều lệ, NHTM còn có các quỹ  dự  trữ  ngân hàng (đây là các   quỹ buộc phải trích lập trong quá trình tồn tại và hoạt động của ngân hàng), quỹ  phát   triển   kỹ   thuật,   quỹ   khấu   hao   tài   sản   cố   định,   quỹ   bảo   tồn,   quỹ   phúc   lợi,.v.v… Tiếp theo là các nguồn vay, chủ yếu bao gồm:  Vay của Ngân hàng trung ương (NHTW). Để chuẩn bị cho các hoạt động của mình như các hoạt động thanh toán bù   trừ,  hoạt động chuyển nhượng lẫn nhau, kể  cả  quy định dự  trữ  bắt buộc do  NHTW áp đặt, tất cả  các NHTM đều phải lý gửi những khoản tiền mặt nhất  định tại kho của NHTW, khoản dự trữ này không sinh lời. Trong quá trình hoạt động của mình, có lúc các NHTM gặp những tình  huống thiếu hụt dự trữ hoặc quá kẹt tiền mặt. Đây là điều thường xuyên xảy ra   đối với NHTM ở bất kỳ nước nào. Trong khi có một số ngân hàng thiếu hụt dự  trữ, thì cũng có một số  các NHTM khác thừa dự  trữ. Để  đảm bảo dự  trữ  theo  quy   định   của   NHTW,   các   NHTM   điện   thoại   hoặc   liên   lạc   qua   màn   hình   computer vay lẫn nhau dự  trữ  trong một ngày là chuyện bình thường. Thủ  tục  vay được tiến hành qua viễn ký (fax) hoặc điện tín. Trong vòng vài phút sau,   ngân hàng thừa dự  trữ  trong ngày hôm đó sẽ  viết séc hoặc gửi điện tín tới chi   nhánh của NHTW tại địa phương, yêu cầu chuyển một phần dự  trữ  thừa từ  ngân hàng mình qua dự trữ của ngân hàng xin vay. Thế là ngân hàng xin vay trở  lên đủ dự trữ theo yêu cầu của NHTW. SV: Đoàn Thanh Thuỷ                                                       Lớp: TTCK44 ­ NHTC
  10. B ¸ o  c ¸ o  t h ù c  t Ë p  t è t  n g h i Ö p Việc vay qua vay lại  như  vậy vẫn diễn ra hàng ngày trong hệ  thống   NHTM. Nó hình thành một loại tài sản nợ khá thường xuyên. Tuy nhiên, khoản   nợ này thường rất ngắn, không quá một tuần, và thường chỉ trong một vài ngày,   vì mỗi ngân hàng đều ý thức được không thể lạm dụng kéo dài tình trạng này. Hiện nay ở Việt Nam chưa phát triển khoản vay ngắn hạn dự trữ tại NHTW. Ở  nước ta còn có “vốn tiếp nhận:, là những nguồn vốn mà NHTM nhận uỷ thác từ  các tổ chức trong hoặc ngoài nước, từ ngân sách nhà nước để  cho vay trung và   dài hạn thuộc kế hoạch xây dựng cơ bản tập trung của Nhà nước, để thực hiện   những chương trình và dự án có mục tiêu định trước trong sản xuất kinh doanh,   cải tạo môi trường, môi sinh.  Vay trên thị trường tiền tệ. Thị  trường tiền tệ  theo mô hình của các nước phát triển bao gồm thị  trường mua bán các chứng từ  có giá ngắn hạn, thị  trường liên ngân hàng, thị  trường hối đoái. Ta chỉ  đề  cập khái quát thị  trường tiền tệ  trong mối liên quan  với việc vay mượn của các NHTM trên thị trường này.   Hoạt động trên thị  trường này hỗ  trợ  tích cực cho hoạt động của các   NHTM, bổ  sung kịp thời cho nhu cầu vốn thông qua việc điều hoà các nguồn  vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Thị  trường tiền tệ góp phần sử  dụng hiệu quả  các nguồn vốn đã có tại các Ngân hàng, làm cho các nguồn vốn phong phú, chủ  động nằm trong tầm tay này hoà trộn, lưu thông, khơi nguồn cả dòng chảy cho   tất cả  các nguồn vốn vào mạng lưới đầu tư  phát triển nền kinh tế  đất nước.  Thị trường tiền tệ giúp cho các NHTM tìm được nguồn vốn vay, đồng thời giúp  cho chúng khi dư thanh khoản, có được cơ hội sinh lời. Vay từ công ty mẹ. Ở các nước phát triển, mỗi Công ty hoặc Tập đoàn kinh doanh có thể  là   chủ của một hay một số NHTM. Thay vì việc phát hành trái phiếu hoặc giấy nợ  để vay tiền từ thị trường tiền tệ, các Công ty mẹ  có thể  thay thế  nó dưới hình  thức phát hành trái phiếu, cổ phiếu công ty hoặc thương phiếu rồi chuyển vốn   SV: Đoàn Thanh Thuỷ                                                       Lớp: TTCK44 ­ NHTC
  11. B ¸ o  c ¸ o  t h ù c  t Ë p  t è t  n g h i Ö p đã huy động được này về Ngân hàng này hoạt động. Việc này sẽ hạn chế được  những khó khăn mà các NHTM thường mắc phải khi tiến hành huy động vốn  trên thị trường này. Ngoài các loại vay đã nên trên, một NHTM để  đảm bảo vốn cho hoạt   động kinh doanh của mình, còn tiến hành vay vốn của các Ngân hàng khác, giữa   các NHTM và các tổ chức tín dụng có thể cho vay lẫn nhau theo nguyên tắc: Các   Ngân hàng phải hoạt động hợp pháp; Nguyên tắc thực hiện việc vay và cho vay   theo hợp đồng tín dụng; Nguyên tắc vốn vay phải có được đảm bảo bằng thế  chấp, cầm cố hay xin vay của NHTW.  Các nghiệp vụ ký thác. Muốn làm Ngân hàng cần có vốn riêng, tuy nhiên số  vốn riêng này chỉ  chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng số tiền mà Ngân hàng đã cho vay. Số vốn riêng  của Ngân hàng thường chỉ  để  mua sắm, trang bị  trụ  sở. Trong thực tế, số tiền   mà Ngân hàng cho vay có nguồn gốc từ  tiền gửi của Khách hàng. Do đó, huy  động vốn là hoạt động chủ  yếu và thường xuyên của NHTM, là mối quan tâm   chính của các Ngân hàng này. Có thể nói, Ngân hàng là một xí nghiệp kinh doanh đồng vốn, Ngân hàng  vừa là người cung cấp đồng vốn, đồng thời cũng là người tiêu thụ  đồng vốn   của Khách hàng. Tất cả những hoạt động mua bán này thường thông qua một số  công cụ  và nghiệp vụ  Ngân hàng. Chính nhờ  các nghiệp vụ  đa dạng mà Ngân  hàng cung cấp mà nghiệp vụ ký thác ra đời. Thông thường, người ta xem ký thác  là các số tiền do Khách hàng gửi vào tài khoản của họ tại Ngân hàng. Tuy nhiên,   đối với người gửi tiền thì ý nghĩa ký thác không dừng lại  ở  đó, nó không hoàn  toàn không như danh từ đã sử dụng. Nó phụ thuộc vào mục đích của người gửi   tiền. Các nguồn ký thác ngày càng phong phú, phức tạp. Vì thế  không thể  phân  định một cách chính xác từng nhóm ký thác riêng biệt. Song về  mặt kỹ  thuật   Ngân hàng, các khoản ký thác có thể phân theo tiêu chuẩn sau: SV: Đoàn Thanh Thuỷ                                                       Lớp: TTCK44 ­ NHTC
  12. B ¸ o  c ¸ o  t h ù c  t Ë p  t è t  n g h i Ö p ­Tiền gửi không kỳ  hạn. Đây là loại ký thác hoàn toàn theo nguyên tắc  khả  dụng, nghĩa là người gửi có quyền rút tiền bất kỳ  lúc nào họ  muốn. Ngân   hàng sẽ sắp xếp khoản tiền này vào tiền gửi không kỳ hạn, nghĩa là khoản tiền  gửi có thời hạn không xác định. Người gửi tiền vừa mới gửi tiền vào sáng này,   nến cần anh ta có thể  rút vào ngay chiều hôm đó, nếu không có nhu cầu sử  dụng, anh ta có thể  để  đó mười bữa, nửa tháng hoặc một năm sau mới rút ra.  Tiền gửi không kỳ hạn có thể là tiền gửi thanh toán hoặc thuần tuý chỉ là khoản   gửi tiết kiệm, không có nhu cầu chi trả nào. ­Tiền gửi có kỳ  hạn.: Đây là loại tiền gửi được uỷ  thác vào Ngân hàng  kèm theo thoả  thuận về  thời gian rút tiền giữa khách hành và Ngân hàng. Về  nguyên tắc, Khách hàng gửi tiền chỉ được rút tiền ra khi đến hạn đã thoả thuận  hoặc nếu muốn rút trước thì Khách hàng sẽ  phải chịu một số  thiệt thòi nhất  định như đã ghi trong hợp đồng tín dụng như là phải chịu mức lãi suất thấp, hay  phải báo trước vài ngày..., Khác với tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán),  tiền gửi có kỳ hạn (tiền gửi định kỳ) là tiền tạm thời chưa sử dụng hoặc là tiền  để dành của cá nhân, vì vậy, mục đích gửi tiền tới Ngân hàng là nhằm kiếm lợi   nhận. 1.1.2.2.Hoạt động sử dụng vốn của Ngân hàng thương mại  Huy động vốn được rồi, NHTM phải làm thế nào để hiệu quả hoá những  nguồn tái sản này. Hầu như tất cả các khoản mục trên tài sản nợ của Ngân hàng   đều là vốn vay, nghĩa là Ngân hàng phải trả lãi suất cho nó đến đúng giờ. Do đó  để  khỏi bị  thiệt hại và có thể  thu lợi thì Ngân hàng phải cho vay hay đầu tư  ngay tài sản ấy vào những dịch vụ sinh lời. Từ lãi thu được, Ngân hàng sẽ dùng  nó để  trả  lãi suất cho số  vốn đã huy động được, phần còn lại sẽ  là lợi nhuận  của Ngân hàng. Nói cách khác, nghiệp vụ có của Ngân hàng là những nghiệp vụ  thực hiện sử dụng những khoản vốn đã huy động được nhằm mục đích sinh lợi. Nghiệp vụ có của Ngân hàng bao gồm nghiệp vụ dự trữ tiền mặt, đầu tư  vào chứng khoán và nghiệp vụ cho vay. SV: Đoàn Thanh Thuỷ                                                       Lớp: TTCK44 ­ NHTC
  13. B ¸ o  c ¸ o  t h ù c  t Ë p  t è t  n g h i Ö p ­ Nghiệp vụ dự trữ tiền mặt . Là nghiệp vụ nhằm duy trì khả năng thanh   khoản của Ngân hàng để  đáp  ứng nhu cầu rút tiền và thanh toán thường xuyên  của Khách hàng. NHTM phải duy trì một bộ  phận vốn bằng tiền mặt để  thực  hiện nghiệp vụ dự trữ. Mức dự trữ này cao hay thấp tuỳ thuộc vào quy mô hoạt   động của Ngân hàng, mối quan hệ  thanh toán bằng tiền mặt và chuyển khoản,  thời vụ  của khoản chi tiền mặt. Các khoản dự  trữ  tiền mặt của Ngân hàng   không sinh lãi, nhưng Ngân hàng vẫn phải duy trì do luật Ngân hàng quy định và  bản thân Ngân hàng cũng thấy rõ việc dự trữ tiền mặt trong két là cần thiết. Các  NHTM phân loại dự trữ tiền mặt làm ba phần: Tiền mặt tại kho của Ngân hàng,  tiền mặt ký gửi tại NHTW và tiền mặt đang thu hồi. ­ Đầu tư vào chứng khoán.  Đây là loại hình phổ biến nhất trong tài sản  có của NHTM tại các nước phát triển, các chứng khoán được các NHTM đầu tư  là: Chứng khoán Nhà nước (tiền của kho bạc, trái phiếu kho bạc trung và  dài   hạn, và trái phiếu của Chính phủ địa phương), chứng khoán công ty… ­ Nghiệp vụ cho vay của NHTM.  Nghiệp vụ  này bao gồm cho vay tiền,  cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền, cho vay qua chữ ký… Đây là  hoạt động chủ chốt của NHTM để tạo ra lợi nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ  cho vay mới bù nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự  trữ, chi phí kinh doanh và quản  lý, chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và các chi phí rủi ro đầu tư. Kinh tế càng phát triển, lượng cho vay của các NHTM càng tăng nhanh và  loại hình cho vay càng trở nên đa dạng. Ở hầu hết các nước công nghiệp trong  nhóm 10 và 15  nước hàng đầu thế giới, cho vay của các NHTM đã chuyển dần  từ cho vay ngắn hạn sang cho vay dài hạn. Ngược lại, ở hầu hết các nước đang   phát triển, cho vay ngắn hạn vẫn chiếm một bộ phận l ớn h ơn cho vay dài hạn,   xuất phát từ chỗ thiếu an toàn cho các khoản đầu tư dài hạn. Ở  một số  nước đang phát triển cho đến nay, khi một ngân hàng được  thành lập và đi vào hoạt động, mối quan tâm chính và thường xuyên của nó là sẽ  cho ai vay và sẽ  đầu tư  vào đâu.  Ở  những nước này, đối tượng đầu tư  là điều   SV: Đoàn Thanh Thuỷ                                                       Lớp: TTCK44 ­ NHTC
  14. B ¸ o  c ¸ o  t h ù c  t Ë p  t è t  n g h i Ö p bận tâm nhiều hơn, nếu không nói là vấn đề  quan trọng nhất. Trong khi đó,  ở  các nước đã phát triển, tình hình lại ngược lại. Vấn đề  đặt ra của các NHTM  không phải là vấn đề  đầu tư vào đâu hay cho ai vay, mà là lợi tức có cao và an  toàn không. Thậm chí những lo ngại như  vậy thực tế đã không còn vì hầu hết   mọi họ đã có những thân chủ chắc chắn, và vấn đề an toàn đã có pháp luật bảo   vệ. Điều họ  quan tâm là làm thế  nào để  huy động càng nhiều tiền cho khoản   đầu tư sẵn có. Như  vây, chúng ta đã biết được hai hoạt động chính của một Ngân hàng  thương mại là hoạt động huy động vốn và hoạt động sử  dụng vốn đó để  sinh  lời. Ngoài hai hoạt động cơ bản đó ra, ngân hàng thương mại còn cung cấp cho   các khách hàng của mình một số dịch vụ khác nữa như dịch vụ thanh toán nhanh  bằng thẻ, dịch vụ chuyển tiền,v.v... 1.2. Chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng  thương mại 1.2.1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ  ­ một đối tượng quan trọng trong hoạt   động của Ngân hàng thương mại 1.2..1.1. Khái niệm, đặc điểm của Doanh nghiệp vừa và nhỏ Căn cứ  vào hoàn cảnh cụ  thể   ở  Việt Nam, và tính đến xu thế  phát triển   trong thời gian tới, kết hợp với nghiên cứu thực tiễn ở nước ta, ngày 23/11/2001  Chính phủ  đã ban hành nghị  định số  90/NĐ­CP quy định tiêu chí để  xác định   DNVVN là “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất – kinh doanh độc lập,   đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có số vốn đăng ký không quá 10   tỷ Đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Đây sẽ là  khái niệm được sử dụng trong suốt chuyên để. Các đặc điểm và lợi thế tiềm năng của các DNVVN bao gồm: DNVVN giúp sử  dụng các yếu tố  sản xuất hiệu quả  hơn. Một trong  những lý lẽ kinh tế nêu ra để ủng hộ các DNVVN là liên quan đến việc sử dụng  các yếu tố đầu vào( vốn, lao động, tài nguyên…) hiệu quả hơn, có khả năng tận   SV: Đoàn Thanh Thuỷ                                                       Lớp: TTCK44 ­ NHTC
  15. B ¸ o  c ¸ o  t h ù c  t Ë p  t è t  n g h i Ö p dụng các nguồn lực mà Doanh nghiệp khác bỏ  qua. Tính hiệu quả  kinh tế  cao  hơn này có thể có do việc lựa chọn các nhân tố phù hợp, tổng sức sản xuất các  các yếu tố hợp thành, hoặc sự kế hợp của cả hai. Khả  năng tạo việc làm tại các DNVVN là tương đối lớn. Các DNVVN   được xem là cần tập trung sức lao động nhiều hơn các Doanh nghiệp lớn, điều   này có được là do việc sử  dụng lao động rẻ  hơn, công nghệ  đòi hỏi nhiều lao   động, do đó làm nảy sinh vấn đề  sử  dụng nhiều lao động hơn trên một đơn vị  vốn đầu tư. Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, nếu Chính phủ Việt Nam   có sự quan tâm hơn nữa tới khu vực này thì hàng năm giải quyết đáng kể  việc   làm của xã hội. DNVVN giúp tiết kiệm ngoại hối. Vì các DNVVN thường được hiểu là  sử dụng nhiều công nghệ trong nước nên đòi hỏi ít ngoại hối hơn cho việc nhập   khẩu máy móc thiết bị, nhưng có khuynh hướng cho rằng sự đóng góp của khu  vực DNVVN đối với khối lượng hàng xuất khẩu là không đáng kể, nhưng sản  phẩm, dịch vụ xuất khẩu của nó có ý nghĩa xã hội rõ hơn, đó là việc làm và sử  dụng nguyên liệu trong nước. DNVVN cũng giúp tận dụng và làm tăng tiết kiệm trong nước. Việc quan   tâm thoả  đáng đến khu vực các doanh nghiệp vừa và nhỏ  sẽ  khuyến khích các  chủ  Doanh nghiệp trong nước sử dụng nhiều hơn các khoản tiết kiệm của họ,  vì thế tăng vốn đầu tư trong nền kinh tế. Vì các Doanh nghiệp mới thành lập có  khuynh hướng sử dụng vốn của chủ Doanh nghiệp và gia đình họ, nên hy vọng   rằng sự thúc đẩy các DNVVN sẽ huy động được các nguồn vốn này. DNVVN giúp phân phối thu nhập và hàng hoá tiêu dùng cơ  bản. Vì có  nhiều người  kiếm kế  sinh nhai từ  các DNVVN hơn là từ  việc làm cho các  Doanh nghiệp lớn, do đó đem lại sự bình đẳng hơn trong phân phối thu nhập Xã  hội. Các DNVVN cũng được thừa nhận là nơi sản xuất ra các sản phẩm hàng  hoá tiêu dùng đơn giản, có chi phí và giá cả thấp phục vụ cho đối tượng những   người có thu nhập thấp. SV: Đoàn Thanh Thuỷ                                                       Lớp: TTCK44 ­ NHTC
  16. B ¸ o  c ¸ o  t h ù c  t Ë p  t è t  n g h i Ö p Nhờ  có các DNVVN mà ta có thể  phân bổ  ngành nghề  theo địa lý một   cách hợp lý. Sự  thúc đẩy các DNVVN xem như  là biện pháp chống lại sự  tập   trung vào các ngành và xu hướng thiên về  các đô thị, làm thúc đẩy hoạt động  kinh tế và việc làm ở các vùng nông thôn. DNVVN giúp thúc đẩy sự  kết nối trong nền kinh tế: Tăng mối liên kết  giữa các Doanh nghiệp lớn với các DNVVN. Do đó, hy vọng nguồn kinh tế phi   chính quy nhỏ sẽ hội nhập vào khu vực hiện tại mạnh hơn. Các DNVVN có sự  thích nghi cao về  mặt công nghệ. Các DNVVN kết  hợp nhiều cấp độ công nghệ, đặc biệt là công nghệ truyền thống, sản xuất các   mặt hàng thủ công mỹ nghệ. DNVVN có vị trí, vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của mỗi nước,   kể  cả  những nước có trình độ  phát triển cao. Trong bối cảnh toàn cầu cạnh   tranh gay gắt như nhiện nay, các nước đều chú ý hỗ trợ các DNVVN nhằm huy   động tối đa các nguồn lực và hỗ  trợ  cho công nghiệp lớn, tăng sức cạnh tranh  của sản phẩm. vị trí, vai trò của các DNVVN đã được khẳng định thể hiện qua   các điểm sau: ­ Về  số  lượng các DNVVN chiếm  ưu thế  tuyệt đối, ví dụ  số  DNVVN   chiếm hơn 99% trong tổng số Doanh nghiệp ở Nhật bản và Đức. ­ DNVVN có mặt trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực và tồn tại như một bộ  phận không thể thiếu được trong nền kinh tế mỗi nước. Nó là một bộ phận hữu  cơ gắn bó chặt chẽ với các Doanh nghiệp lớn, tác dụng hỗ trợ và bổ xung, thúc  đẩy các Doanh nghiệp quốc doanh, các Doanh nghiệp lớn phát triển. Sự phát triển của các DNVVN góp phần quan trọng trong việc giải quyết  các mục tiêu kinh tế sau dây: Một là, Các Doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp đáng kể vào sự phát triển  và ổn định kinh tế của mỗi nước. Việc phát triển DNVVN đóng góp quan trọng   vào tốc độ  phát triển nên kinh tế, đặc biệt đối với những nước mà trình độ  kỹ  thuật còn lạc hậu như  ở Việt Nam thì giá trị  gia tăng do các Doanh nghiệp này   SV: Đoàn Thanh Thuỷ                                                       Lớp: TTCK44 ­ NHTC
  17. B ¸ o  c ¸ o  t h ù c  t Ë p  t è t  n g h i Ö p tạo ra hàng năm chiếm tỷ  trọng khá lớn, bảo đảm thực hiện các chỉ  tiêu tăng   trưởng của nền kinh tế. Hai là, Các Doanh nghiệp vừa và nhỏ  cung cấp cho toàn xã hội khối  lượng hàng hoá đáng kể. Ba là, Chúng thu hút lao động, tạo ra nhiều việc làm với chi phí đầu tư  thấp, giảm thất nghiệp. Bảng 1: BẢNG DỰ ÁN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DNVVN Ở VN NĂM 2000 Nước và vùng lãnh thổ Tỷ trọng lao động  Giá trị gia tăng tạo  thu hút ra (%) Singgapo 35.2 26.6 Malaixia 47.8 36.4 Hàn quốc 37.2 21.1 Nhật bản 55.2 38.8 Hồng Kông 59.3 42.3 (Theo nguồn: Kỷ  yếu khoa học, dự  án chính sách hỗ  trợ  phát triển DNVVN  ở   Việt Nam năm 2000) Bốn là: Các DNVVN tạo nguồn thu nhập  ổn định, thường xuyên cho dân  cư, góp phần giảm bớt chênh lệch về  thu nhập của các bộ  phận dân cư, tạo ra  sự phát triển tương đối đồng đều giữa các vùng của đất nước và cải thiện mối   quan hệ giữa các khu vực khác nhau. Năm là: Chúng giúp khai thác, phát huy các nguồn lực và tiềm năng tại   chỗ của các địa phương, các nguồn tài chính của dân cư trong vùng. SV: Đoàn Thanh Thuỷ                                                       Lớp: TTCK44 ­ NHTC
  18. B ¸ o  c ¸ o  t h ù c  t Ë p  t è t  n g h i Ö p Sáu là: Hình thành, phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động, cùng   với sự phát triển của các DNVVN là sự xuất hiện ngày càng nhiều hơn các nhà   kinh doanh sáng lập. Bẩy là: Tạo ra môi trường cạnh tranh, thúc đẩy SX ­ KD phát triển có   hiệu quả hơn, sự tham gia của rất nhiều DNVVN vào sản xuất kinh doanh làm   cho số lượng và chủng loại sản phẩm tăng thêm rất nhanh. Đối với Việt Nam thì vị trí, vai trò của các DNVVN lại càng quan trọng do  những đặc điểm, tình hình và bối cảnh phát triển kinh tế nước ta quy định. Mặc  dù vậy, nhưng bức tranh thực tế nền kinh tế nước ta hiện nay cho thấy DNVVN   đã và đang giữ một vị trí rất quan trọng thông qua vài con số có thể thấy: ­ Toàn bộ  khu vực DNVVN tạo ra khoảng 31% giá trị  tổng sản lượng   công nghiệp hàng năm, khoảng 24% GDP trong cả nước. ­ DNVVN giải quyết 26% lao động cả nước (không kể lao động trong gia  đình – lực lượng đông đảo nhất Việt Nam hiện nay)  ước tính có trên 7.8 triệu  lao động được thu hút và làm việc tại khu vực Doanh nghiệp này. ­ Chi phí trung bình để tạo ra một chỗ làm việc trong các DNVVN ở Việt   Nam   khoảng   740.000   đồng,   chỉ   bằng   3%   trong   các   Doanh   nghiệp   lớn   (trung bình là 5 – 10 triệu đồng) Với những lợi thế  và thế  mạnh của mình, số  lượng các DNVVN  ở  Viêt  Nam ngày càng tăng. Cụ thể, vào năm 2002, số lượng các DNVVN ở nước ta đã  nên tới hơn 45.000 DN, chiếm tỷ trọng hơn 90% (Bảng 2).  Bảng 2: BẢNG SỐ LƯỢNG DNVVN TẠI VIỆT NAM NĂM 2002 Tổng số DN Tổng số lao  Tổng số vốn động Số DN Tỷ trọng  số DN Tỷ trọng  (%) (%) 46834 97 43772 91 (Nguồn: niên giám thống kê năm 2002 được Tạp chí Kính tế  Việt Nam đăng   ngày 29/2/2006) SV: Đoàn Thanh Thuỷ                                                       Lớp: TTCK44 ­ NHTC
  19. B ¸ o  c ¸ o  t h ù c  t Ë p  t è t  n g h i Ö p 1.2.1.2. Phân loại Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việc đưa ra khái niệm chuẩn xác về  DNVVN có ý nghĩa rất quan trọng  để  xác định đúng đối tượng được hỗ  trợ. Nếu phạm vi đối tượng hỗ  trợ  quá  rộng, sẽ  không đủ  sức bao quát và tác dụng hỗ  trợ  sẽ  giảm đáng kể, vì hỗ  trợ  tất cả  có nghĩa là không hỗ  trợ  ai. Còn nếu phạm vi quá hẹp thì sẽ  không có ý  nghĩa và ít tác dụng tới nền kinh tế. Chính vì vậy, hầu hết các nước rất chú  trọng nghiên cứu tiêu thức phân loại DNVVN. Tuy nhiên, không có tiêu thức  thống nhất để  phân loại cho tất cả  các nước vì điều kiện kinh tế  xã hội mỗi  nước khác nhau, và ngay trong một nước sự  phân loại khác nhau tuỳ  theo từng   thời kỳ, từng ngành nghề, từng lãnh thổ. Có hai tiêu thức phổ biến dùng để phân   loại DNVVN: Tiêu thức định tính và tiêu thức định lượng. Tiêu thức định tính: Dựa trên những đặc trưng cơ  bản của các DNVVN  như: Chuyên môn quá thấp, số  đầu mối quản lý ít, mức độ  phức tạp quản lý  thấp… các chỉ tiêu này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề  nhưng  thường khó xác định trên thực tế. Do đó, nó thường chỉ làm cơ sở để tham khảo,   kiểm chứng mà ít được sử dụng trong thực tế. Tiêu thức định lượng: Có thể  sử dụng các tiêu chí như  số  lao động, giá  trị tài sản vốn, doanh thu, lợi nhuận. Sự phân loại Doanh nghiệp theo quy mô lớn, vừa và nhỏ mang tính tương  đối và phụ thuộc vào nhiều yếu tố Ngân hàng: - Trình độ phát triển của mỗi nước - Tính chất ngành nghề - Vùng lãnh thổ - Tính lịch sử - Mục đích phân loại 1.2.1.3. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với DNVVN Tín dụng của NHTM là quan hệ  vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả  cả  gốc lẫn lãi trong một khoảng thời gian xác định theo thoả  thuận giữa một   SV: Đoàn Thanh Thuỷ                                                       Lớp: TTCK44 ­ NHTC
  20. B ¸ o  c ¸ o  t h ù c  t Ë p  t è t  n g h i Ö p bên là Ngân hàng đóng vai trò người cho vay và một bên là các tổ chức, các nhân  đóng vai trò là người đi vay. Các nghiệp vụ  theo nghĩa rộng là: Nghiệp vụ  chiết khấu, cho vay, bảo   lãnh, cho thuê tài chính. Tuy nhiên,  ở đây chúng ta tạm hiểu tín dụng theo nghĩa  hẹp tức là chỉ đơn thuần là hoạt động cho vay của NHTM. Các loại tín dụng của NHTM rất phong phú và đa dạng, có thể được chia  theo nhiều tiêu thức khác nhau như: Thời hạn vay, hình thức vay, tài sản đảm  bảo, theo mức độ  rủi ro, mục đích sử  dụng… Nếu phân loại theo đối tượng   Khách hàng sẽ có loại tín dụng là tín dụng các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hoạt động tín dụng của NHTM dựa trên một số  nguyên tắc nhất định  nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời của các DNVVN cũng như các  Khách hàng nói chung phải thực hiện các nguyên tắc tín dụng sau đây đã được  cụ thê hoá trong các quy định của NHNN và các NHTM: + Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn và lãi trong thời gian xác định vì  các khoản tín dụng của Ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi   của Khách hàng và các khoản vay mượn. Như vậy Ngân hàng cũng phải có trách  nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như đã cam kết với chủ nguồn vốn. Do vậy Ngân  hàng luôn yêu cầu người nhận tín dụng phải thực hiện đúng cam kết này. Đây là  điều kiện để Ngân hàng tồn tại và phát triển. + Khách hàng phải cam kết sử  dụng khoản tín dụng này theo đúng mục   đích đã ghi trong thoả  thuận với Ngân hàng, không trái với quy định của pháp  luật và các quy định khác của Ngân hàng cấp trên. Mục đích tài trợ  được ghi   trong hợp đồng tín dụng, đảm bảo Ngân hàng không tài trợ  cho hoạt động trái   pháp luật và việc tài trợ này phải phù hợp với cương lĩnh của Ngân hàng. +  Ngân hàng  tài trợ dựa trên phương án (hoặc dự án) có hiệu quả. Thực  hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất. Phương án  hoạt động có hiệu quả  của người vay minh chứng cho khả năng thu hồi được   vốn đầu tư và trả nợ cho Ngân hàng. Các khoản tài trợ của Ngân hàng phải gắn   SV: Đoàn Thanh Thuỷ                                                       Lớp: TTCK44 ­ NHTC
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2