intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn tốt nghiệp: Giải pháp Marketing - Mix nhằm thu hút khách du lịch cuối tuần ở khu vực thị xã Sơn Tây - Ba Vì

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:67

282
lượt xem
83
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân tích đánh giá tiềm năng và hiện trạng hoạt động du lịch cuối tuần ở khu vực thị xã Sơn Tây - Ba Vì. Bước đầu đưa ra các giải pháp Marketing - Mix nhằm thu hút khách du lịch cuối tuần ở khu vực này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn tốt nghiệp: Giải pháp Marketing - Mix nhằm thu hút khách du lịch cuối tuần ở khu vực thị xã Sơn Tây - Ba Vì

  1. LUẬN VĂN: Giải pháp Marketing - Mix nhằm thu hút khách du lịch cuối tuần ở khu vực thị xã Sơn Tây - Ba Vì
  2. Phần mở đầu I. Lý do chọn đề tài Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được ghi nhận như một sở thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay, du lịch trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống văn hóa, xã hội của các đất nước. Thông qua các hoạt động du lịch con người thoả mãn nhu cầu hài hoà cả về vật chất lẫn tinh thần. Bên cạnh đó du lịch cũng đóng góp một phần không nhỏ cho sự phát triển của nền kinh tế. Hoạt động du lịch Việt Nam ngày càng phát triển nhờ những chính sách đổi mới và sự quan tâm trợ giúp của quốc tế tạo nên sự phát triển vượt bậc. Những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam không ngừng tăng trưởng thúc đẩy sự phát triển của quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Quá trình này một mặ đã làm cho đời sống của người dân được cải thiện, nhưng mặt khác lại ảnh hưởng không nhỏ đến điều kiện sống của con người, ô nhiễm môi trương, sức ép từ công việc, điều kiện sống. Người dân có xu hướng tìm đến những nơi có môi trường tự nhiên trong lành, có cảnh quan yên tĩnh để nghỉ ngơi, vui chơi giải trí vào những ngày nghỉ, lễ, Tết, nhất là những ngày nghỉ cuối tuần. Khu vực thị xã Sơn Tây - Ba Vì là khu vực có nhiều điều kiện thuận lợi về tài nguyên và nguồn khách để phát triển du lịch cuối tuần của người dân Hà Nội và các khu lân cận. Các khu du lịch tiêu biểu là: Vườn Quốc gia Ba Vì, hồ Suối Hai, hồ Đồng Mô, Khoang Xanh - Suối Tiên, Ao Vua... nơi có sự kết hợp của khí hậu trong lành, mát mẻ, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, thảm động thực vật phong phú và các yếu tố nhân văn khác tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các hoạt động nghỉ ngơi du lịch cuối tuần. Tuy nhiên, trong thời gian qua lượng khách đến khu Sơn Tây - Ba Vì còn hạn chế, chưa xứng với tiềm năng du lịch của vùng. Để có thể tăng cường thu hút khách tới Sơn Tây - Ba Vì, đề tài đã tập trung vào nghiên cứu một số giải pháp Marketing - Mix. II. Mục đích của đề tài - Phân tích đánh giá tiềm năng và hiện trạng hoạt động du lịch cuối tuần ở khu vực thị xã Sơn Tây - Ba Vì.
  3. - Bước đầu đưa ra các giải pháp Marketing - Mix nhằm thu hút khách du lịch cuối tuần ở khu vực này. III. Bố cục của khoá luận Ngoài các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khóa luận bao gồm ba chương: Chương I: Khái quát về du lịch cuối tuần và các yếu tố Marketing - Mix. Chương II: Tiềm năng phát triển du lịch cuối tuần thực trạng chính sách Marketing - Mix nhằm thu hút khách đến. Chương III: Một số giải pháp Marketing - Mix nhằm thu hút khách ở thị xã Sơn Tây - Ba Vì.
  4. Chương I Khái quát vài nét về du lịch cuối tuần Và CáC YếU Tố MARKETING - MIX 1.1 Khái quát về tài nguyên du lịch 1.1.1 Khái niệm Tài nguyên du lịch là một trong những yếu tố cơ sở để tạo nên vùng du lịch. Số lượng tài nguyên vốn có, chất lượng của chúng và mức độ kết hợp các loại tài nguyên trên lãnh thổ có ý nghĩa đặc biệt trong việc hình thành và phát triển du lịch một vùng hay quốc gia. Một lãnh thổ có nhiều tài nguyên du lịch sẽ có sức hấp dẫn khách du lịch lớn và mức độ kết hợp các loại tài nguyên phong phú thì sức thu hút khách du lịch càng mạnh. Du lịch là một trong những ngành có sự định hướng tài nguyên rõ rệt. Tài nguyên du lịch ảnh hưởng trực tiếp đến lãnh thổ của ngành du lịch, đến việc hình thành, chuyên môn hóa các vùng du lịch và hiệu quả kinh tế của các hoạt động dịch vụ. Tài nguyên du lịch bao gồm các thành phần và những kết hợp khác nhau của cảnh quan thiên nhiên cùng cảnh quan nhân văn, có thể được sử dụng cho dịch vụ du lịch và thoả mãn nhu cầu về chữa bệnh, nghỉ ngơi, tham quan hay du lịch. Ta có thể rút ra khái niệm về tài nguyên du lịch như sau: “Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên và văn hóa - lịch sử cùng các thành phần của chúng góp phần khôi phục và phát triển thể lực và trí lực của con người, khả năng lao động và sức khoẻ của họ thoả mãn các nhu cầu theo mục đích chuyến đi, những tài nguyên này được sử dụng cho nhu cầu trực tiếp và gián tiếp, cho việc sản xuất dịch vụ du lịch“. Tài nguyên đối với mỗi loại hình du lịch có đặc trưng riêng. Đối với du lịch chữa bệnh, người ta thường quan tâm tới nguồn nước khoáng và bùn chữa bệnh, thời tiết và khí hậu tốt có tác dụng cho việc chữa bệnh. Du lịch bồi dưỡng sức khỏe được phát triển trên cơ sở những thời kỳ khí hậu thích hợp, nguồn nước thực vật, địa hình thuận lợi và các thành phần khác của cảnh quan góp phần bồi bổ sức khỏe. Có ý nghĩa quan trọng trong du lịch thể thao và theo lộ trình là đặc điểm của lãnh thổ như khả năng vượt chướng ngại và sự tồn tại của các vật chướng ngại (ghềnh, đèo, sông, suối), vùng có ít dân và cách xa nhau. Đối tượng của du lịch tham quan lại là những danh lam thắng cảnh văn hóa - lịch sử
  5. và tự nhiên, các mục tiêu kinh tế độc đáo, lễ hội và các thành phần của văn hóa dân tộc (trò chơi dân tộc, thủ công mỹ nghệ truyền thống). 1.1.2 Phân loại tài nguyên du lịch Tài nguyên du lịch được phân ra làm hai loại: + Tài nguyên nhân văn + Tài nguyên tự nhiên * Tài nguyên nhân văn: Là tất cả các giá trị vật chất, giá trị tinh thần mà con người sáng tạo ra trong lịch sử và trong thời kỳ hiện tại được khai thác phục vụ mục đích du lịch. Có rất nhiều loại tài nguyên nhân văn: - Di sản văn hóa, di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh. - Các lễ hội. - Các bảo tàng. - Nghệ thuật truyền thống. - Các làng nghề, phố nghề. - Các làng cổ truyền thống. - Các món ăn truyền thống. Tài nguyên nhân văn cũng là một món ăn tinh thần mang đến cho ta sự nghỉ ngơi, thư giãn với những lễ hội hay di tích lịch sử quan trọng. * Tài nguyên tự nhiên: Là toàn bộ những nguồn năng lượng, vật liệu, thông tin có ở trong môi trường mà con người có thể vận dụng vào thực tế để phục vụ cho con người. Tài nguyên tự nhiên được chia theo: - Địa hình - Khí hậu - Nguồn nước - Sinh vật 1.2 Du lịch cuối tuần
  6. 1.2.1. Khái niệm ở Việt Nam trước đây, khi người lao động vẫn làm việc sáu ngày một tuần thì thời gian dành cho nghỉ cuối tuần chỉ giới hạn cho một ngày chủ nhật. Nhưng đến nay, chế độ làm việc năm ngày một tuần đã được thực hiện, người lao động có nhiều thời gian nghỉ ngơi cuối tuần hơn (ngày thứ bảy và chủ nhật). Hiện nay, du lịch nghỉ ngơi cuối tuần đã trở thành một nhu cầu bức thiết, một hiện tượng xã hội khá phổ biến đối với các thành phố lớn, các khu công nghiệp và tập trung dân cư. Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa dẫn đến môi trường bị ô nhiễm, gây ra tình trạng căng thẳng thần kinh, xuất hiện nhu cầu du lịch. Việc nghỉ ngơi tích cực sẽ đem lại sức khỏe cho con người, giải thoát họ khỏi những bế tắc, căng thẳng. Việc lựa chọn nơi nghỉ ngơi thích hợp cũng là vấn đề quan tâm. Một trong những đặc điểm quan trọng của du lịch hiện đại là tính chất giải trí du lịch đối lập nhau. Tức là người đi du lịch thường tìm đến môi trường đối lập với nơi họ vẫn thường sinh sống. Đối với du lịch cuối tuần, điều này càng thể hiện rõ rệt. Do người dân thành phố bị tách khỏi môi trường tự nhiên nên họ vẫn thường chọn những nơi có điều kiện dễ hòa nhập với thiên nhiên để du lịch, nghỉ ngơi. Thiên nhiên thực sự đem lại những điều thú vị đối với người dân thành phố vốn phải sống trong những điều kiện chưa thật thoải mái về chỗ ở, đường phố tắc nghẽn, ồn ào, môi trường xung quanh đã có dấu hiệu hoặc đã bị ô nhiễm thực sự. Thường thường, đối với những thành phố lớn châu âu, các hoạt động này tổ chức ở các vùng ngoại ô, trong những khu rừng trồng hoặc các công viên nhân tạo, các công viên chuyên đề. Còn ở nước ta, do diện tích các thành phố ch ưa lớn nên địa bàn có thể phát triển ra các tỉnh phụ cận, nơi có những điều kiện tài nguyên phù hợp. Tóm lại, du lịch cuối tuần là một dạng hoạt động của dân cư các đô thị thành phố, khu công nghiệp hoặc nơi tập trung dân cư, vào những ngày nghỉ cuối tuần, ở vùng ngoại ô hoặc phụ cận, có điều kiện dễ hoà nhập nhất với thiên nhiên, nhằm nghỉ ngơi, giải trí, phục hồi sức khoẻ, kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa. 1.2.2 Phân loại Hoạt động du lịch từ khi xuất hiện đến nay không ngừng phát triển về mọi mặt, đặc biệt là sự xuất hiện ngày càng nhiều các loại hình du lịch. Có thể nói hoạt động du lịch là
  7. một dạng hoạt động rất phong phú và đa dạng. Để phân loại các loại hình du lịch người ta đã đưa vào các tiêu chí như sau: - Mục đích du lịch - Phương tiện đi du lịch - Vị trí địa lý của nơi du lịch - Thời gian đi du lịch - Hình thức tổ chức chuyến đi Trong đó, khi dựa vào thời gian kéo dài của chuyến đi người ta lại chia thành: - Du lịch ngắn ngày - Du lịch dài ngày Loại hình du lịch ngắn ngày thường được tổ chức vào cuối tuần thì được gọi là loại hình cuối tuần. Như vậy du lịch cuối tuần là một dạng của du lịch ngắn ngày. 1.2.3 Vai trò, ý nghĩa của du lịch cuối tuần Cũng như nhiều loại hình du lịch khác, du lịch cuối tuần cũng đóng một vai trò quan trọng đối với đời sống kinh tế - xã hội của từng cá nhân, từng địa phương hay của toàn xã hội. Chức năng xã hội của du lịch cuối tuần biểu hiện ở việc bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của con người. Du lịch và nghỉ ngơi tích cực đóng một vai trò quan trọng trong việc tăng cường sức khoẻ, tuổi thọ, khả năng lao động cho con người một cách hợp lý nhất. Việc nghiên cứu y - sinh học cho thấy rằng các chế độ nghỉ ngơi và du lịch hợp lý có thể giảm trung bình 30% các bệnh tật của nhân dân. Còn những bệnh phổ biến về tim mạch thì giảm gần 50% còn những bệnh về đường hô hấp giảm 40%, các bệnh về thần kinh, xương bắp giảm 30%, bệnh về các cơ quan tiêu hóa giảm 20%. Du lịch tạo điều kiện cho những nhóm người khác nhau được tiếp xúc gần gũi hiểu biết lẫn nhau, hình thành nên những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, tạo nên sự phát triển hài hòa của con người. Du lịch còn kết hợp với giáo dục tư tưởng, chính trị cho thanh thiếu niên, thu hút họ vào những hình thức hoạt động văn hóa - xã hội bổ ích. Những hoạt động này giúp họ sử dụng thời gian nhàn rỗi một cách hợp lý hơn. Từ đó giảm đi những tệ nạn
  8. xấu, giảm đi cả những thanh niên hư. Việc làm tăng sức khoẻ cho nhân dân, làm tăng hiệu xuất lao động của họ cũng chính là ý nghĩa kinh tế của du lịch. Việc nghỉ ngơi tích cực và du lịch hợp lý tạo điều kiện phục hồi và tăng cường sức khỏe, tăng cường khả năng lao động, tái sản xuất mở rộng sức lao động và cũng làm tăng hiệu quả kinh tế cho đất nước. Hiệu quả này là do việc giảm tiêu hao thời gian lao động vì ốm đau, giảm thời gian chữa bệnh và giảm thời gian đi khám bệnh. Mặt khác, phát triển du lịch cuối tuần sẽ tạo ra nhiều việc làm cho người lao động do ngành du lịch chủ yếu là đáp ứng dịch vụ, đòi hỏi nhiều lao động sống và trong nhiều trường hợp không thể cơ giới hóa được. Du lịch phát triển là tạo ra nhiều việc làm và tạo điều kiện tăng thu nhập cho nhân dân địa phương. Điều đó thực sự có ý nghĩa quan trọng, nhất là ở những nước đông dân, thiếu việc làm như nước ta hiện nay. Du lịch cuối tuần có khả năng phân phối lại thu nhập giữa người dân nông thôn và thành thị. Nó cũng là nhân tố quan trọng góp phần nâng cao đời sống kinh tế xã hội của người dân địa phương. Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp liên quan mật thiết tới nhiều nghành kinh tế: từ sản xuất lương thực - thực phẩm đến các hàng thủ công mỹ nghệ. Việc tiêu thụ trong du lịch là tiêu thụ tại chỗ vì vậy nó giảm chi phí đóng gói, lưu thông cho người sản xuất. Du lịch cuối tuần còn có một chức năng quan trọng, đó là chức năng sinh thái. Du lịch cuối tuần của người dân thành phố thường đòi hỏi môi trường gần gũi với thiên nhiên. Vì vậy, muốn phát triển các điểm du lịch cuối tuần cần bảo vệ, khôi phục và tối ưu hóa môi trường tự nhiên. Để thoả mãn nhu cầu du lịch, nghỉ ngơi, cần dành lại những lãnh thổ có thiên nhiên còn ít biến đổi ở những vùng ngoại ô thành phố và tiến hành các biện pháp cải tạo chẳng hạn như cải tạo và trồng rừng, bảo vệ các nguồn nước và các lưu vực nước, xây dựng các công viên... tất cả những việc đó đều góp phần bảo vệ môi trường, tạo nên một môi trường sinh thái lâu bền cho sự sống. 1.2.4 Đặc điểm của du lịch cuối tuần Nhìn chung, du lịch ngắn ngày bao giờ cũng chiếm tỷ lệ cao hơn rất nhiều so với du lịch dài ngày. Ngày nay thị trường về du khách đa phần là thích nghỉ ngơi nhiều lần trong năm hơn là chỉ nghỉ ngơi một vài lần trong những kỳ nghỉ phép. Theo Mc. Intosh, ở Hoa Kỳ vào những năm 90 thu nhập từ du lịch cuối tuần của họ đã đạt được 68% với số lượng người tham gia lớn hơn 83%. Đối với nước ta thì du lịch có những đặc điểm sau:
  9. - Du lịch cuối tuần ở nước ta diễn ra trong phạm vi ngắn khoảng 150 km đối với những phương tiện như ô tô, xe máy. Còn đối với những phương tiện bằng xe đạp thì khoảng 10 đến 40 km. Thời gian tiêu phí cho mỗi lượt đi hoặc về cho du khách nhỏ hơn hoặc bằng ba giờ đồng hồ. Du lịch loại này chỉ diễn ra từ một đến hai ngày. - Đối tượng tham quan du lịch cuối tuần phần lớn là dân c ư đô thị đủ mọi tầng lớp, lứa tuổi, nghề nghiệp. Nhưng nhiều nhất vẫn là giới trẻ, người lao động và một lực lượng khách nước ngoài có mặt tại đây. - Địa bàn du lịch và nghỉ ngơi cuối tuần có tổ chức rõ rệt là một sinh hoạt định kỳ của xã hội đô thị. Những chuyến du lịch ngắn ngày đã trở thành thông lệ của xã hội công nghệ hóa cao và phát triển. Du lịch cuối tuần là một dạng hoạt động đa dạng về loại hình, có thể kể đến một số loại như: tắm biển, du lịch thể thao, tham quan di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, vui chơi, giải trí... - Du lịch cuối tuần chính là sản phẩm của nền văn minh công nghiệp. Bởi vì, công nghiệp hóa làm cho cuộc sống của con người được cải thiện nhưng cũng chính nó làm cho con người cảm thấy ngạt thở và căng thằng. 1.2.5 Các nhân tố làm nảy sinh nhu cầu du lịch cuối tuần * Thời gian rỗi và nhu cầu vui chơi giải trí cuối tuần: Một trong các tiêu chí được xác định trong định nghĩa du lịch là chuyến đi thực hiện trong thời gian rảnh rỗi của con người (ngày nghỉ cuối tuần, kỳ nghỉ phép, thời gian rỗi có được trong chuyến công tác...) không trong thời gian rỗi, chuyến đi của con người không thể được gọi là du lịch. Có thể nói, thời gian rỗi là điều kiện cần thiết để con người tham gia vào các hoạt động du lịch. Hoạt động du lịch định hướng con người sử dụng rảnh rỗi vào các hoạt động mang lại lợi ích, nâng cao hiểu biết hoặc nâng cao thể lực. Thời gian rỗi có thể tăng lên nếu con người được sử dụng hợp lý quỹ thời gian và có chế độ lao động đúng đắn. Với chế độ làm việc năm ngày một tuần đã được áp dụng ở nước ta, làm cho số thời rỗi tăng lên và đó là điều kiện thực tế để tổ chức hợp lý du lịch và nghỉ ngơi cuối tuần cho người dân lao động.
  10. Du lịch muốn phát triển tốt phải nghiên cứu đầy đủ cơ cấu của thời gian ngoài giờ làm việc. Cơ cấu của thời gian rảnh rỗi phải được xác lập được ảnh hưởng của các thành phần thời gian khác lên thời gian rảnh rỗi. Việc áp dụng phương pháp hệ thống và dự đoán khi nghiên cứu quỹ thời gian cho phép tìm ra phương hướng phát triển và phục vụ thích hợp cho thể thao, du lịch và nghỉ ngơi. Nhu cầu vui chơi giải trí là một nhu cầu được phát triển cùng với sự phát triển công nghiệp hóa, sự gia tăng thời gian rỗi và sự tập trung dân cư đông đúc. Do thu nhập của người dân ngày càng được nâng cao, vì vậy mà họ thường dành thời gian rỗi vào các hoạt động vui chơi, giải trí, du lịch, thể thao để phục hồi sức khỏe sau những ngày làm việc vất vả. * Sự phát triển của nền kinh tế - Sự phát triển của nền kinh tế và điều kiện kinh tế của dân cư: Sự phát triển của nền sản xuất xã hội có tầm quan trọng hàng đầu làm xuất hiện nhu cầu du lịch và biến nhu cầu của con người thành hiện thực. Không thể nói tới nhu cầu hoặc hoạt động du lịch của xã hội nếu như lực lượng sản xuất xã hội còn ở trong tình trạng thấp kém. ở các nước có nền kinh tế chậm phát triển, nhìn chung nhu cầu nghỉ ngơi du lịch còn hạn chế. Ngược lại, nhu cầu nghỉ ngơi du lịch ở các nước kinh tế phát triển rất đa dạng. Bên cạnh nhu cầu giải trí cuối tuần, hằng năm nhân dân còn đòi hỏi những đợt nghỉ dài ngày ở vùng biển (vào mùa hè), trên núi (vào mùa đông), trong nước hoặc ở nước ngoài. Rõ ràng những nhu cầu này dựa trên cơ sở vững chắc của nền sản xuất xã hội. Sự phát triển của du lịch cũng bị chi phối bởi nền sản xuất xã hội. Để giải quyết nhu cầu ăn ở, đi lại, nghỉ ngơi, du lịch của con người, tất yếu phải có cơ cấu hạ tầng tương ứng. Những cái thiết yếu nhất đối với khách du lịch như mạng lưới đường sá, phương tiện giao thông, khách sạn, nhà hàng... khó có thể trồng cây vào một nền kinh tế ốm yếu. Điều kiện sống của nhân dân là nhân tố quan trọng để phát triển du lịch. Nó được hình thành nhờ việc tăng thu nhập thực tế và cải thiện điều kiện sinh hoạt, nâng cao khẩu phần ăn uống, phát triển đầy đủ mạng lưới y tế, văn hóa, giáo dục... Nếu thu nhập của người dân tăng lên chi phí cho du lịch cũng được tăng lên. Để có thể phát triển du lịch đòi hỏi mức sống (vật chất, tinh thần) của con người đạt đến trình độ nhất định.
  11. - Quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hóa và sức ép từ môi trường sống: Đây cũng là yếu tố làm tăng nhu cầu du lịch, đặc biệt là du lịch cuối tuần. Quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hóa đã góp phần cải thiện đời sống cho người dân cả về phương diện vật chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên công nghiệp hóa và hiện đại hóa cũng dẫn tới sự thay đổi về điều kiện tự nhiên, khí hậu, bầu khí quyển... Tất cả những điều đó đã ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của con người. Sự tập trung dân cư quá đông tại các đô thị và các thành phố lớn đã làm cho môi trường bị ô nhiễm, đường xá ồn ào, náo nhiệt, phương tiện đi lại đông đúc... Từ những mặt trái nêu trên, ta có thể nhận thấy rằng nhu cầu vui chơi giải trí là một nhu cầu không thể thiếu của người dân ở các thành phố và những nơi tập trung đông dân cư. Những chuyến du lịch cuối tuần chính là cơ hội để người dân tạm quên đi cái không khí ồn ào, náo nhiệt và ô nhiễm hàng ngày để bắt đầu một tuần mới làm việc hiệu quả. 1.2.6 Các loại hình hoạt động - Nghỉ dưỡng: Đây là một trong những mục đích quan trọng của du lịch cuối tuần. Do công việc thường ngày căng thẳng, môi trường ô nhiễm, các mối quan hệ xã hội phức tạp. Những người đi nghỉ muốn tìm đến một nơi có phong cảnh ngoạn mục, với những ngọn núi cao, những con thác lớn, những khu rừng nguyên sinh và hang động kì bí. Hoặc cũng có thể là một di tích lịch sử, lễ hội, làng nghề, một công trình đương đại tầm cỡ... Tuy nhiên, do thời gian hạn chế nên số lượng đối tượng không nhiều và phụ thuộc vào những nguồn tài nguyên trong khu vực. - Vui chơi giải trí: Mục đích chuyến đi là thư giãn, bứt ra khỏi công việc thường nhật căng thẳng để phục hồi sức khoẻ. Trong chuyến đi có thể kết hợp tham quan nhưng không phải là cơ bản. Các hoạt động chủ yếu là vui chơi giải trí như ở công viên chuyên đề, các khu vui chơi giải trí, trên bãi biển, ven sông hồ, các khu rừng thưa, rừng trồng... - Thể thao: Mục đích của chuyến đi là tham gia chơi các môn thể thao, để nâng cao thể chất, phục hồi sức khỏe và thể hiện mình. Đây là hoạt động làm đáp ứng lòng ham mê thể thao của mọi người, nhưng chỉ đơn thuần là để giải trí chứ không phải là tham gia thi đấu chính thức. Các hoạt động thể thao như chơi golf, bơi thuyền, bơi lặn, lướt ván, leo núi, đua xe... là những thể loại ưu thích hiện nay. Để phù hợp với các loại hình này yêu cầu
  12. có điều kiện tự nhiên thích hợp và có cơ sở trang thiết bị cần thiết. Mặt khác, nhân viên cũng cần được huấn luyện để có thể hướng dẫn và giúp du khách chơi đúng quy cách. - Tâm linh tôn giáo: Loại hình này thoả mãn nhu cầu về tâm linh, tín ngưỡng, đặc biệt là đối với người cao tuổi. Vào những ngày nghỉ, người dân thường hay đến các đền, chùa để đi lễ, vãn cảnh. Các đền chùa ở nước ta thường được xây dựng ở những ngơi có phong cảnh thiên nhiên đẹp. Ngoài ra các loại hình trên còn có nhiều loại hình khác. Tuy nhiên việc phân chia chỉ mang tính tương đối vì nó sẽ đan xen nhau trong chuyến đi. 1.3 Các yếu tố Marketing - Mix nhằm thu hút khách du lịch. 1.3.1 Khái niệm: Marketing - Mix là những biến (variables) có thể kiểm soát mà các tổ chức du lịch nhà nước hay tư nhân sử dụng để đạt được những mục tiêu du lịch của điểm đến với mỗi thị trường mục tiêu. Có hàng loạt các công cụ Marketing - Mix, Mc. Canthy đã phổ biến 4 yếu tố để phân loại các công cụ này gọi là 4P (hình I-1): Sản phẩm (product), giá cả (price), phân phối (place), xúc tiến hàng (promotion). Marketing - Mix P1- Product P4- Promotion Sản phẩm Xúc tiến bán P2- Price P3- Place Giá cả Phân phối Thị trường mục tiêu Sơ đồ 1: Quản trị Marketing
  13. Marketing - Mix là sự tập hợp các phương thức tiếp thị có thể kiểm soát được mà doanh nghiệp du lịch phối sử dụng để tác động đến khách hàng tạo nên sự đáp ứng cần thiết trong thị trường mục tiêu. Có 4 yếu tố cơ bản tạo nên phối thức Marketing - Mix, đó la sản phẩm, giá cả, giao tiếp khuyếch trương, phân phối. Trong đó sản phẩm mà doanh nghiệp du lịch cống hiến cho thị trường mục tiêu được đánh giá cao theo các đặc trưng về phẩm chất, hình thức, dịch vụ... Giá cả là số tiền mà khách hàng phải bỏ ra để có được sản phẩm, nó tương xứng với giá trị được cảm nhận của sản phẩm và được xem xét theo mức giá gốc triết khấu, bù lỗ, thời hạn thanh toán. Phân phối là những hoạt động nhằm đưa sản phẩm đến tận tay khách hàng mục tiêu, như chọn kênh phân phối, các trung gian đại lý du lịch, vận chuyển... giao tiếp khuyếch trương là những hoạt động đạt giá trị của sản phẩm du lịch và thuyết phục khách hàng mục tiêu sản phẩm đó gồm có các công cụ, cụ thể như: tuyên truyền, quảng cáo, bán hàng trực tiếp. 1.3.2. Các yếu tố Marketing - Mix nhằm thu hút khách * Sản phẩm - Khái niệm sản phẩm Theo quan điểm của Philip Kotler thì “Sản phẩm là bất cứ cái gì có thể đưa vào thị trường để tạo ra sự chú ý, mua sắm hay tiêu thụ nhằm thoả mãn một nhu cầu hay ý muốn”. Nó có thể là những vật thể, dịch vụ của con người, địa điểm, những tổ chức và những ý nghĩa sản phẩm đem lại lợi ích cho con người. Người mua hàng hóa hay dịch vụ chính là người đem lại giá tri, lợi ích của sản phẩm cho họ. Sản phẩm du lịch là toàn bộ những hàng hóa và dịch vụ cung ứng cho khách du lịch trong quá trình du lịch nằm thoả mãn nhu cầu của họ. Sản phẩm của doanh nghiệp lữ hành là những chương trình du lịch (tuor) cung cấp cho khách du lịch. Chương trình này bao gồm nhiều loại hàng hóa và dịch vụ du lịch như: Khách sạn, nhà hàng... Đối với người làm Marketing thì giá trị sản phẩm la giá trị những nhân tố đầu vào cho việc sản xuất sản phẩm. Nhưng đối với khách hàng thì giá trị sản phẩm là sự cảm nhận của khách sau khi tiêu dùng. - Nội dung của sản phẩm
  14. Nội dung quan trọng nhất là xác định chủng loại, cơ cấu dịch vụ hàng hóa cung cấp cho khách du lịch, từ đó xác định chiến lược sản phẩm của Công ty là “duy nhất” hay “dị biệt hóa”. Nếu sử dụng chiến lược duy nhất có nghĩa là sản phẩm của công ty mình cũng giống sản phẩm của công ty khác. ưu điểm là: độ mạo hiểm ít, chi phí Marketing trên một sản phẩm không cao. Thông thường các công ty lữ hành không áp dụng chiến lược này vì khi có quá nhiều Công ty áp dụng chiến lược trên thì sẽ gây ra cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Chiến lược phân biệt sản phẩm hay dị biệt hóa sản phẩm tức là làm cho sản phẩm của Công ty mình đặc biệt lên, độc đáo hơn so với đối thủ cạnh tranh nhằm hướng nhu cầu của người tiêu dùng vào sản phẩm của Công ty hiện hữu trên thị trường. Để thực hiện chiến lược này, các Công ty phải áp dụng chính sách quảng cáo và tuyên truyền rộng rãi. Thông thường các Công ty lữ hành có quy mô lớn, có vị thế trên thị trường du lịch sử dụng chính sách phân biệt sản phẩm. Tuy nhiên chính sách này cũng có nhược điểm là làm cho kinh phí Marketing trên 1 đơn vị sản phẩm cao, từ đó làm cho giá cao và cũng có thể mất thị trường nếu các doanh nghiệp khách cũng dị biệt hóa. * Chính sách giá - Định nghĩa và các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách giá + Định nghĩa Giá cả của một sản phẩm hoặc dịch vụ là khoản tiền mà người mua phải trả cho người bán để được quyền sở hữu, sử dụng sản phẩm hay dịch vụ đó (người mua định nghĩa). Giá cả của một sản phẩm hàng hóa, dịch vụ là khoản thu nhập người bán nhận được nhờ việc tiêu thụ sản phẩm đó (người bán định nghĩa). + Mục tiêu của chính sách giá Có 5 mục tiêu chính là:  Mục tiêu tồn tại: Giá cả là điều kiện duy trì sự tồn tại và đem lại mức lợi nhuận trong tương lai.
  15.  Mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận: Việc định giá đảm bảo tối đa hóa lợi nhuận trong một thời kỳ nhất định.  Tối đa hóa doanh số: Tạo ra phần xuất thị phần (giá thấp) với hy vọng doanh số tương lai sẽ tăng và dần đạt đến doanh số mong muốn.  Tạo uy tín: Sử dụng giá về tự định vị như một sự độc quyền.  Mục tiêu thu hồi vốn đầu tư: Đặt ra trên cơ sở thu hồi vốn nhanh (chậm) như thế nào. + Các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách giá Quyết định về chính sách giá của Công ty chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố nội tại của Công ty bao gồm: Các mục tiêu Marketing bao gồm: Mục tiêu nội tại, mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, mục tiêu thị trường, mục tiêu về chất lượng, các mục tiêu khác.  Phương pháp hoạt động Marketing.  Vai trò, khả năng của Công ty trên thị trường.  Chi phí (Cố định, biến đổi...) giá thành của chương trình.  Những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng tới việc định gía bao gồm:  Thị trường và nhu cầu (áp lực của thị trường, sự cảm nhận của khách hàng về giá cả, cung cầu, độ co giãn của cầu theo giá).  Giá phổ biến trên thị trường.  Giá của đối thủ cạnh tranh.  Các yếu tố khác (pháp luật, chính sách...) * Chính sách phân phối - Định nghĩa, vị trí và mục tiêu của chính sách giá + Định nghĩa Phân phối trong Marketing không chỉ tìm ra phương hướng mục tiêu của lưu thông mà nó còn bao gồm cả nội dung thay đổi về không gian và thời gian mặt hàng và số lượng
  16. hàng hóa cùng các biện pháp thủ thuật để đưa hàng hóa từ tay người sản xuất đến tay người tiêu dùng. + Vị trí Chính sách phân phối sản phẩm là phương hướng thể hiện cách mà các doanh nghiệp cung ứng các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng của mình. Nó là tổng hợp các biện pháp, thủ thuật nhằm đưa sản phẩm và dịch vụ đến tay khách hàng cuối cùng với số lượng hàng hóa hợp lý, mặt hàng phù hợp và đảm bảo các yếu tố của văn minh phục vụ. Chính sách phân phối có vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Một chiếnlược phân phối hợp lý sẽ làm cho quá trình kinh doanh an toàn, hàng hóa sản xuất ra không bị tồn đọng phải giảm được sự cạnh tranh và làm cho quá trình lưu thông hàng hóa diễn ra nhanh chóng. Do đặc điểm riêng của sản hẩm du lịch nếu doanh nghiệp không có chính sách phân phối hợp lý thì sản phẩm sẵn có không thể bán hết được, điều đó sẽ là cho các doanh nghiệp thua lỗ. + Mục tiêu Bán được nhiều hàng hóa dịch vụ nhất, doanh thu cao nhất, phải có được lợi nhuận như mong muốn và an toàn trong kinh doanh. - Các kênh phân phối Kênh phân phối chỉ ra mối quan hệ giữa Công ty kinh doanh lữ hành với kênh trung gian trên thị trường được biểu hiện qua sơ đồ sau: (1 ) (2 Công Khách ) (3 Đại ty ) du Công Ty lý lữ lịch gửi Đại bán lý hành khách bán lẻ buôn
  17. (4 ) (5 ) Sơ đồ 2: Kênh phân phối trong kinh doanh lữ hành  Kênh 1: Kênh ngắn trực tiếp: Đây là kênh phân phối trực tiếp giữa các Công ty lữ hành với khách. Thông thường tỷ trọng của kênh này thường ít trong kinh doanh du lịch quốc tế do khả năng hạn chế của các Công ty về vị trí, tài chính, kinh nghiệm để tiếp xúc với khách du lịch.  Kênh 2: Kênh ngắn gián tiếp: Đặc điểm của kênh này chỉ có một trung gian là đại lý bán lẻ hoặc là đại diện của Công ty. Kênh này có tỷ trọng nhỏ trong kinh doanh lữ hành quốc tế nhưng trong kênh nội địa là kênh chủ yếu.  Kênh 3, 4: Kênh dài gián tiếp: Đặc điểm của kênh này là các chương trình của Công ty có thể bán nguyên chương trình hoặc ghép nối chương trình đó thành một bộ phận của chương trình của họ. Đây là kênh phân phối phổ biến trong kinh doanh lữ hành quốc tế nhưng lại chiếm tỷ trọng nhỏ trong kinh doanh lữ hành nội địa.  Kênh 5: Đây là kênh dài, nhưng trong hệ thống không có sự tham gia của một Công ty lữ hành nào khác. Các đại diện du lịch bán buôn đôi khi còn là người. * Chính sách xúc tiến quảng bá - Vị trí, bản chất, mục tiêu của chính sách xúc tiến + Vị trí Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt đòi hỏi người bán hàng pahỉ đon đả mời chào, còn người mua có quyền đòi hỏi người bán thoả mãn những mặt hàng mà họ cần chứ không tự động tiêu dùng cái mà người sản xuất làm ra. Và người sản xuất chính là phải sản xuất cái mà thị trường cần chứ không phải sản xuất ra cái mà mình muốn có.
  18. Xúc tiến bán hàng là nhằm tác động vào tâm lý của người mua, nó có tác dụng lớn đối với doanh nghiệp để doanh nghiệp có thể nắm bắt nhu cầu của khách hàng cụ thể hơn. Xúc tiến bán hàng trước hết phải đạt được mục tiêu liên hệ với khách hàng làm cho họ có lòng tin đối với sản phẩm của doanh nghiệp, tranh thủ sự ủng hộ và tạo ra bằng sự ràng buộc của họ với sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp. Quảng cáo là sử dụng các phương tiện thông tin để truyền tin về sản phẩm hoặc cho trung gian, hoặc cho người tiêu thụ cuối cùng trong một thời gian và không gian nhất định. + Bản chất Xúc tiến quảng cáo hay còn gọi là khuyếch trương là tập hợp các công cụ được sử dụng để lôi kéo cầu. Thực chất của xúc tiến quảng cáo là giải quyết các vấn đề truyền thông và tạo ra mức tiêu thụ như mong muốn. + Mục tiêu Quảng cáo không chỉ cung cấp một cách đơn giản những thông tin về sản phẩm, dịch vụ mà còn tác động tích cực tìm cách gây ảnh hưởng đến hành động mọi người bằng cách trưng bày hình ảnh gợi cảm làm kích thích nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Mục tiêu của quảng cáo bao gồm:  Tăng sự nhận biết về mẫu nhìn sản phẩm  Tăng sự hồi tưởng về nhãn hàng sản phẩm  Tăng sự ưa thích sản phẩm dịch vụ Một điểm quan trọng là mục tiêu quảng cáo phải mang tính đặc biệt, có thể đo lường được và có khả năng thực hiện. Trước khi mục tiêu của quảng cáo được chấp nhận thì phải đặt câu hỏi “liệu ta có khả năng đảm bảo thực thi thành công mục tiêu này không?”
  19. Chương II Tiềm năng phát triển du lịch cuối tuần và thực trạng chính sách marketing - mix nhằm thu hút khách đến Sơn Tây - Ba Vì 2.1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch 2.1.1. Vị trí địa lý: Sơn Tây - Ba Vì là một trong ba cụm di tích chính của Hà Tây được xác định trong quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Hà Tây thời kỳ 1995 - 2010. Ngoài quy hoạch tổng thể phát triển trung tâm du lịch Hà Nội và phụ cận đã xác định Sơn Tây - Ba Vì là khu vực có nhiều yếu tố thuận l ợi để phát triển du lịch văn hoá, sinh thái, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí cuối tuần quan trọng. Quy hoạch phát triển du lịch bền vững của Tổng cục Du lịch cũng xác định trong 49 danh mục ưu tiên phát triển du lịch trên toàn quốc có Suối Hai - Ba Vì và vùng phụ cận tỉnh Hà Tây. Khu vực thị xã Sơn Tây - Ba Vì là vùng bán sơn địa nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Hà Tây - Thị xã Sơn Tây chỉ cách thủ đô Hà Nội 40 km về phía Tây. Từ Hà Nội có thể đến Sơn Tây theo quốc lộ 32 hoặc theo đường quốc lộ 6 hay theo đường cao tốc Láng - Hoà Lạc. Sơn Tây là vùng đất xứ Đoài năm xưa có nhiều di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: thành cổ Sơn Tây, Đền Và, làng cổ Đường Lâm, chùa Mía, khu du lịch Đồng Mô... Tiếp giáp với thị xã Sơn Tây là huyện Ba Vì nằm ở phía Bắc tỉnh Hà Tây có 3 dân tộc là Kinh, Mường, Dao, cách Hà Nội khoảng 60 km về phía Tây. Ba Vì cũng là vùng đất cổ xứ Đoài với truyền thống văn hoá, lịch sử lâu đời. Nơi đây còn bảo lưu được các di tích lịch sử có giá trị như: đình Chu Quyết, đình Tây Đằng... cũng như các danh lam thắng cảnh nổi tiếng: Ao Vua, Khoang Xanh - Suối Tiên, Vườn quốc gia Ba Vì, hồ Suối Hai, khu du lịch sinh thái Thác Đa... Với nguồn tài nguyên du lịch phong phú, lại nằm ở vị trí thuận lợi: tiếp giáp với khu công nghiệp Việt Trì, thuỷ điện Hoà Bình, tiếp giáp với trung tâm văn hoá lớn trong tương lai như; làng văn hoá các dân tộc Việt Nam, chuỗi đô thị Miếu Môn - Xuân Mai - Hoà Lạc - Sơn Tây, trường Đại học Quốc Gia... Khu vực thị xã Sơn Tây và Ba Vì có đủ điều kiện để trở thành một trung tâm du lịch, nghỉ ngơi của toàn vùng. Trong những năm gần đây
  20. hoạt động du lịch ở khu vực thị xã Sơn Tây và Ba Vì đã có sự phát triển nhanh chóng, thu hút khách đến nghỉ ngơi, thăm quan, nghiên cứu. Khu vực thị xã Sơn Tây - Ba Vì đặc biệt lí tưởng cho loại hình du lịch cuối tuần của thủ đô Hà Nội và các vùng lân cận. 2.1.2 Đặc điểm về địa hình Thị xã Sơn Tây và Ba Vì là vùng đất có địa hình tương đối đa dạng: địa hình đồng bằng, gò đồi (Sơn Tây) và địa hình miền núi (Ba Vì). Địa hình Sơn Tây và Ba Vì có độ nghiêng dần từ Tây Bắc xuống ĐôngNam với độ dốc trung bình là 25o, càng lên cao độ dốc càng lớn. Có thể coi địa hình nơi đây là yếu tố nổi bật có tác động đến tâm lý du khách. Do cấu hình của địa hình, vùng đồi núi trong vùng bị chia cắt thành nhiều khe núi khoét sâu tạo ra những cảnh quan tự nhiên đẹp như: thác nước (Ao Vua, thác Hương), các dòng suối, đồng thời tạo nên điều kiện thuậnlợi xây dựng các hồ nước nhân tạo như: hồ Suối Hai, hồ Đồng Mô, phục vụ mục đích t hu ỷ lợi và du lịch. K hu v ực Sơn Tây - B a V ì có đ ộ cao trung bình từ 400 - 6 00m, trong đó có một số đỉnh cao như Đỉnh Vua (1296m), Tản Viên (1226m), Ngọc Hoa (1120m), Hang Hùm (776m), Da Dê (714m)... đã tạo cho khu vực những cảnh đẹp hùng vĩ và càng hấp dẫn hơn bởi nhiều địa danh gắn liền với các truyền thuyết lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc như truyền thuyết vua Hùng, Tản Viên, Sơn Tinh, Thuỷ Tinh... 2.1.3. Một số điểm và khu vực tài nguyên tiêu biểu * Khu vực Vườn quốc gia Ba Vì Vườn quốc gia Ba Vì là một lá phổi lớn của thủ đô, cách Hà nội gần 60 km (theo đường 32 và đường 87 hoặc theo đường Láng - Hoà Lạc, đường 21A và đường 87). V ư ờn quốc gia Ba Vì có diện tích quản lý 7.377 ha, phân bố rải rác ở độ cao từ 200m đến 1300m so với mặt nước biển. Khí hậu ở đây rất ôn hoà. Đây chính là điểm du lịch lý tưởng cho những du khách muốn khám phá và trở về với thiên nhiên.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2