intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn tốt nghiệp: Quá trình nhận thức lý luận về văn hóa ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:93

128
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chưa bao giờ vấn đề văn hóa lại thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế như thời gian gần đây. Sự phát triển mạnh mẽ của văn hóa và vai trò ngày càng tăng của nó trong thế giới hiện đại đang đặt ra hàng loạt vấn đề cấp bách cho nghiên cứu khoa học về văn hóa. Mặt khác, việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học về văn hóa đã đem lại những khả năng to lớn cho con người trong việc nhận thức sâu sắc và toàn diện về văn hóa. Một nhà khoa...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn tốt nghiệp: Quá trình nhận thức lý luận về văn hóa ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945

  1. LUẬN VĂN: Quá trình nhận thức lý luận về văn hóa ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Chưa bao giờ vấn đề văn hóa lại thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế như thời gian gần đây. Sự phát triển mạnh mẽ của văn hóa và vai trò ngày càng tăng của nó trong thế giới hiện đại đang đặt ra hàng loạt vấn đề cấp bách cho nghiên cứu khoa học về văn hóa. Mặt khác, việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học về văn hóa đã đem lại những khả năng to lớn cho con người trong việc nhận thức sâu sắc và toàn diện về văn hóa. Một nhà khoa học Mỹ - P. Smith đã từng nói: Khả năng hiểu biết văn hóa trở nên một phần thiết yếu của bổn phận làm một công dân tốt. Và chính lý thuyết văn hóa đã cung cấp cho chúng ta một nguồn quan trọng giúp ta thực hiện được điều này. Lý thuyết văn hóa cung cấp cho chúng ta những mẫu hình cơ bản, các khái niệm có thể áp dụng được trong đời sống cá nhân, đời sống tập thể và trí tuệ chúng ta [52, tr.3]. Đối với nước ta, trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, rất nhiều vấn đề bức xúc trên lĩnh vực văn hóa đang đặt ra đòi hỏi lực lượng nghiên cứu văn hóa phải có trách nhiệm giải đáp. Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ năm khoá VIII về Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã mở ra một bước mới cho công tác nghiên cứu văn hóa. Đồng thời, nhiệm vụ đặt trên vai đội ngũ nghiên cứu văn hóa càng nặng hơn. Đó là: vừa nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, vừa định hướng phát triển và dự báo tương lai, góp phần thực hiện mục tiêu văn hóa mà Đảng ta đã khẳng định. Nhiệm vụ to lớn đó không chỉ tác động đến tình hình văn hóa của những năm đổi mới mà còn ảnh hưởng của cả tiến trình vận động lâu dài của văn hóa dân tộc trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết của Đảng cũng đã chỉ ra những hạn chế trên phương diện nghiên cứu lý luận văn hóa:
  3. Công tác nghiên cứu lý luận chưa làm rõ nhiều vấn đề có liên quan đến văn hóa trong quá trình đổi mới, trong việc xác định những giá trị truyền thống cũng như hệ giá trị mới cần xây dựng, trong việc xử lý các mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, văn hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế... [18, tr.23]. Do đó, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận văn hóa để đáp ứng được với yêu cầu của sự phát triển đất nước là vấn đề đang đặt ra hiện nay. Bên cạnh việc tiếp thu các thành tựu các lý thuyết văn hóa của thế giới đương đại thì việc khai thác những kết quả nghiên cứu văn hóa trong nước từ trước đến nay rất có ý nghĩa đối với công tác nghiên cứu hiện nay. Những kết quả này gắn liền với thế kỷ XX - thế kỷ đánh dấu những bước chuyển to lớn của văn hóa Việt Nam. Xuất phát từ lý do trên, tôi lựa chọn đề tài “Quá trình nhận thức lý luận về văn hóa ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn hóa học. 2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Nửa thế kỷ nghiên cứu văn hóa với nhiều giai đoạn khác nhau đã tạo nên một khối lượng lớn các công trình nghiên cứu. Cho đến nay, các kết quả này được đề cập đến chủ yếu thông qua những phương diện sau: Thứ nhất là các công trình sưu tập, biên soạn tác phẩm, các bài viết về văn hóa theo những chủ đề nhất định. Có thể kể đến cuốn sách Luận về Quốc học (nghiên cứu và cảo luận) do Trung tâm Quốc học biên soạn, tập hợp những bài viết từ đầu thế kỷ cho đến năm 1945 về văn hóa dân tộc. Trên cơ sở nghiên cứu các bài viết đăng trên tạp chí Nam Phong từ năm 1917 đến năm 1934, tác giả Phạm Thị Ngoạn trong cuốn sách Tìm hiểu về Nam Phong tạp chí dành một chương Nền văn hóa Quốc gia để tổng luận những vấn đề liên quan đến văn hóa. Mới đây, nhà xuất bản Lao động đã cho ra cuốn sách “Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX” gồm 2 tập, tập hợp những bài viết xung quanh các cuộc tranh luận lớn đầu thế kỷ XX về văn hóa nghệ thuật, trong đó có nhiều bài viết trực tiếp đề cập đến văn hóa.
  4. Thứ hai là những công trình đề cập đến một xu hướng lý luận văn hóa cụ thể. Đó là các cuốn sách nghiên cứu về “Đề cương văn hóa Việt Nam” như: 50 năm Đề cương văn hóa Việt Nam - Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, 1995 60 năm Đề cương văn hóa với văn hóa và phát triển ở Việt Nam hiện nay- Đỗ Thị Minh Thúy - Nxb Văn hóa thông tin, 2003 Thứ ba là các công trình khái quát những thành tựu nghiên cứu văn hóa ở Việt Nam. Trong “Hành trình vào văn hóa học”, tác giả Bùi Quang Thắng đã tổng quan về tình hình nghiên cứu văn hóa ở Việt Nam. Theo tác giả, những thành tựu trong nghiên cứu văn hóa ở nước ta được thể hiện ở các lĩnh vực sau: - Lý luận và lịch sử văn hóa - Các nghiên cứu Dân tộc chí, Dân tộc học, Nhân học - Các nghiên cứu văn hóa dân gian - Các nghiên cứu tâm lý học - Các nghiên cứu xã hội học Tác giả Nguyễn Chí Bền, trong bài “Nghiên cứu văn hóa Việt Nam, trước thềm thế kỷ XXI, mấy suy nghĩ”, đã điểm lại những dấu mốc quan trọng trong quá trình nghiên cứu văn hóa ở Việt Nam. Đó là sự ra đời công trình nghiên cứu văn hóa đầu tiên của Việt Nam theo hướng văn hóa học - Việt Nam văn hóa sử cương của Đào Duy Anh, Văn minh Việt Nam của Nguyễn Văn Huyên. Theo tác giả, đây là các công trình đặt nền móng cho việc nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Tác giả cũng đã đề cập đến sự ra đời của Đề cương văn hóa Việt Nam như một sự kiện quan trọng mở ra những hướng mới trong công tác nghiên cứu văn hóa các giai đoạn sau này. Như vậy, những công trình trên đây hoặc là tập hợp tư liệu, hoặc là có điểm qua những kết quả nghiên cứu lý luận văn hóa (theo nghĩa rộng) ở nước ta đầu thế kỷ XX một cách khái quát, sơ lược. Mặc dù đã có nhiều tác giả đưa ra những nhận xét về tình hình nghiên cứu lý luận văn hoá ở các giai đoạn khác nhau, nhưng đến nay chưa có
  5. công trình nào đi vào tổng kết, hệ thống hoá và đánh giá sự phát triển nhận thức lý luận văn hoá ở nửa đầu thế kỷ XX. Kế thừa những thành tựu này, luận văn sẽ tiếp tục khảo sát, phân tích đánh giá về vấn đề trên cùng với mong muốn cung cấp một cái nhìn toàn cảnh sự phát triển nhận thức này, tạo tiền đề để chúng ta suy nghĩ tiếp về tình hình văn hoá ở thế kỷ XXI. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài  Mục đích: Trên cơ sở hệ thống hóa những quan điểm về văn hóa ở Việt Nam đầu thế kỷ XX đến năm 1945, luận văn khẳng định sự vận động, phát triển trong nhận thức về văn hóa ở Việt Nam trong thời kỳ này, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu văn hóa hiện nay.  Nhiệm vụ: - Hệ thống hóa các kết quả nghiên cứu về lý luận văn hóa ở Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XX gắn liền với các xu hướng nghiên cứu lý luận văn hóa. - Chỉ ra tính quy luật của sự vận động trong nhận thức về văn hóa ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX - Bước đầu rút ra ý nghĩa của những kết quả này đối vớí công tác nghiên cứu lý luận văn hóa hiện nay.  Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tìm hiểu những quan điểm về lý luận văn hóa trong các sách, báo, tạp chí của các tác giả Việt Nam và trong các công trình dịch thuật ở Việt Nam từ đầu thế kỷ đến năm 1945. Xuất phát từ mục đích, nhiệm vụ của đề tài, luận văn không khảo cứu các lý thuyết văn hóa trong các công trình dân tộc học, lịch sử văn hóa. 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng chủ nghĩa duy vật lịch sử và kết hợp phương pháp lịch sử và lôgic, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê tư liệu và so sánh, phương pháp chuyên gia… để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn.
  6. 5. Đóng góp mới về khoa học Lần đầu tiên, luận văn tập trung hệ thống hóa những quan điểm về văn hóa ở nư- ớc ta trong nửa đầu thế kỷ XX, trên cơ sở đó khái quát xu hướng vận động của những quan điểm này, đồng thời rút ra ý nghĩa đối với việc phát triển nghiên cứu lý luận văn hóa ở nước ta hiện nay. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chư- ơng 8 tiết.
  7. Chương 1 Cơ sở hình thành những nhận thức lý luận về văn hóa ở Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ đến năm 1945 1.1. Lý luận văn hóa - bộ môn chính của khoa học nghiên cứu văn hóa 1.1.1. Văn hóa và các khoa học nghiên cứu văn hóa Trong ngôn ngữ của nhiều dân tộc, văn hóa là một trong những từ phức tạp nhất, có nhiều nghĩa nhất. Thuật ngữ “văn hóa” về mặt từ vựng được dịch từ thuật ngữ “culture” của Anh - Pháp. Thuật ngữ này bắt nguồn từ tiếng La-tinh “colere” sau chuyển thành “cultura” có nghĩa là cày cấy, vun trồng. Về sau từ "cultura" chuyển từ nghĩa trồng trọt cây cối sang thành vun trồng tinh thần, trí tuệ. ở Trung Hoa nghĩa gốc Hán học của từ “văn” là cái đẹp, vẻ đẹp do màu sắc tạo ra, “Văn hóa” là làm cho trở nên đẹp, trở nên sáng. Cùng với thời gian, số lượng các định nghĩa về văn hóa không ngừng tăng. Ngay từ năm 1952, C. Kluckholn và A. Kroeber, hai nhà văn hóa học Mỹ đã thống kê “có 150 định nghĩa khác nhau về văn hóa” [70, tr.10], ngày nay con số đó vượt xa rất nhiều. Thực tế cho thấy, không thể tìm ra được một định nghĩa duy nhất, tuyệt đối chính xác, là chuẩn mực chung cho văn hóa, bởi tính phức tạp của nó. Cho nên, các định nghĩa khác nhau về văn hóa ra đời với tính chất là hệ quả tất yếu của tính phức tạp nói trên. Khi thấy cần phải giải quyết một vấn đề cụ thể nào đó, trong một hoàn cảnh nhận thức mới xuất hiện, các nhà nghiên cứu văn hóa lại đưa ra các quan niệm mới làm cho các định nghĩa ngày càng nhiều thêm. Nhưng cho dù các định nghĩa đó phong phú thế nào đi chăng nữa thì tựu trung lại, văn hóa có thể được hiểu ở các khía cạnh sau: Văn hóa là cái phân biệt giữa con người với động vật, chỉ có văn hóa ở con người mà không có văn hóa ở động vật. Như vậy, văn hóa là phạm trù chỉ thuộc tính của loài người. Văn hóa là dấu hiệu đặc trưng cho xã hội loài người (dấu hiệu để phân biệt xã hội này với xã hội khác, dân tộc này với dân tộc khác)
  8. Văn hóa là cái không thể kế thừa theo con đường sinh học mà phải do học tập mà có. Văn hóa thường gắn với các ý niệm (thế giới tinh thần) Văn hóa được truyền đạt dưới dạng biểu tượng. Trong luận văn này, văn hóa được hiểu là lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội. Thuộc về lĩnh vực tinh thần, văn hóa ra đời từ khi con người xuất hiện trên trái đất này. Tuy nhiên cũng như nhiều hiện tượng khác, mãi đến sau này nó mới trở thành đối tượng nghiên cứu riêng biệt của khoa học, khi có hàng loạt những tiền đề cho sự ra đời của các khoa học văn hóa. Một là, sự biến chuyển sâu sắc của đời sống chính trị - xã hội và tinh thần ở châu Âu thế kỷ XVIII, XIX gắn liền với việc phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và phát triển. Những quan hệ kinh tế tư bản đã quy định những yếu tố cơ bản của văn hóa thời kỳ này. Hàng loạt các vấn đề văn hóa mới nảy sinh, niềm tin, hệ giá trị, đạo đức trong xã hội trung cổ tan rã nhanh chóng bởi quá trình công nghiệp hóa và kinh tế thị trường, làm cho đời sống văn hóa xã hội có những xáo động, bất ổn. Các khoa học văn hóa ra đời để nghiên cứu những biến chuyển trong lĩnh vực văn hóa nhằm phục vụ cho sự ổn định xã hội, giữ gìn truyền thống văn hóa của mỗi dân tộc, tránh sự nghèo nàn về văn hóa của các dân tộc. Hai là, với các phát kiến địa lý vĩ đại, châu Âu đã phát hiện ra nhiều vùng đất mới, “như vừa thức tỉnh từ giấc mơ trung cổ cả một thế giới mới được mở ra chứa đầy sự đa dạng của các hình thức văn hóa và những đặc biệt của lối sống” [7, tr.10]. Sau đó là công cuộc chinh phục các nước thuộc địa được mở rộng từ châu á sang châu Phi đã đem lại kho tư liệu dân tộc học hết sức phong phú. Đồng thời, quá trình đó đã sản sinh ra nhu cầu nghiên cứu văn hóa của các dân tộc này nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc khai thác thuộc địa. Ba là, hàng loạt những thành tựu của khoa học tự nhiên, khoa học lịch sử, khảo cổ, địa lý…ra đời trong giai đoạn này đã tác động mạnh mẽ đến những nhận thức, quan niệm về văn hóa, là cơ sở cho sự ra đời của nhiều lý thuyết văn hóa nổi tiếng. Tiêu biểu
  9. là học thuyết tiến hóa của Ch. Đácuyn, học thuyết đã xóa đi ranh giới giữa các giống loài mà coi đó là kết quả sự phát triển liên tục của tự nhiên. Tư tưởng này đã được các nhà nghiên cứu văn hóa xem xét trong quá trình phát triển của văn hóa và xã hội loài người. Đó là cội nguồn cho sự ra đời của các lý thuyết tiến hóa luận về văn hóa với các tên tuổi như L.M.Morgan, E.B.Taylor… Những điều kiện trên đây đã đưa đến kết quả là sau hàng nghìn năm tồn tại của văn hóa, đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các khoa học về văn hóa mới “phát triển nở rộ”. Văn hóa trở thành đối tượng của nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn như: khảo cổ học, dân tộc học, xã hội học, nhân học, văn hóa học…Dưới đây là những nét khái quát của một số ngành khoa học nghiên cứu văn hóa. Dân tộc học, hiểu theo nghĩa gốc do tiếng ethous - tộc và grapho miêu tả, ghi chép ghép lại, trở thành một khoa học độc lập ở giữa thế kỷ XIX dựa trên những thành tựu của tri thức tự nhiên với sự phát triển của học thuyết Tiến hóa do J. B. Lamac, Ch. Đácuyn sáng lập. Học thuyết này đã đặt cơ sở lý luận cho dân tộc học. Sử dụng các quy tắc của thuyết Tiến hóa, các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu xã hội nguyên thủy và văn hóa nhân loại, trong số đó phải kể đến vai trò hàng đầu của các nhà sáng lập ra dân tộc học là L.G Moocgan, I. Bacophen, E. Tylor. EB.Tylor gọi ngành khoa học này là tộc người học với đối tượng là văn hóa các dân tộc sơ khai. Trong tác phẩm “Văn hóa nguyên thủy”, ông đã chỉ ra nhiệm vụ của dân tộc học là: Từ những hiện tượng văn hóa ở những xã hội con người khác nhau “nghiên cứu những yếu tố chung làm cơ sở cho chúng, là đối tượng thuận tiện để nghiên cứu các quy luật tư duy và hoạt động của con người” [57, tr.84], t rong đó ông đặc biệt chú ý tới sự so sánh các bộ lạc còn trong trạng thái dã man, lạc hậu với văn hóa của các dân tộc tiên tiến. Nghiên cứu văn hóa các dân tộc phải chia nó thành những bộ phận hợp thành và xếp loại những bộ phận đó nhằm mục đích phân bố chúng về mặt địa lý hay lịch sử và vạch ra những quan hệ của chúng với nhau.
  10. Nghiên cứu những nguyên nhân đẻ ra các hiện tượng văn hóa và các quy luật chi phối chúng - trước hết cần phải xây dựng càng có hệ thống càng tốt một sơ đồ phát triển văn hóa theo những hướng khác nhau. Bằng cách so sánh các giai đoạn văn hóa khác nhau ở những xã hội nào đó trong lịch sử, đối chiếu chúng với những tài liệu khảo cổ học nằm trong các di tích văn hóa của những bộ lạc tiền sử. Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX xuất hiện các trường phái dân tộc học phê phán thuyết tiến hóa, chống lại nguyên lý của phương pháp lịch sử trong dân tộc học, tính quy luật trong sự phát triển của các hiện tượng dân tộc học. Các nhà khoa học thuộc trường phái này thừa nhận khuếch tán như là yếu tố cơ bản trong sự phát triển văn hóa. Văn hóa được coi là một tổng thể các hiện tượng không lặp lại, đơn nhất. Trường phái dân tộc học Xôviết quan niệm dân tộc học là “bộ môn khoa học lịch sử, chủ yếu dùng phương pháp trực tiếp quan sát để nghiên cứu sinh hoạt và phong tục tập quán, sự phân bố và quan hệ văn hóa và lịch sử của các dân tộc trên thế giới” [13, tr.3]. Đối tượng của nó là nghiên cứu nguồn gốc dân tộc, nghiên cứu lịch sử hình thành các đặc điểm văn hóa và sinh hoạt dân tộc, lịch sử phân bố và di cư các dân tộc. Ngày nay, dân tộc học đã có những bước phát triển mới, tuy còn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau, nhưng nhiều nhà dân tộc học trên thế giới đã đi đến nhận thức chung về đối tượng của dân tộc học là “tất cả các dân tộc, dù ở thang bậc phát triển thấp hay cao, thiểu số hay đa số, đã tồn tại trong quá khứ hay là đang tồn tại hiện nay” [23, tr.8]. Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất và với các nội dung nghiên cứu phong phú và đa dạng nhất được các nhà dân tộc học đặc biệt quan tâm là nghiên cứu các đặc trưng sinh hoạt - văn hóa truyền thống và hiện đại, vạch ra cho được diện mạo của tộc người, không phải chỉ có các đặc trưng phân biệt nó, mà cả các đặc điểm chung với các tộc người khác. Đó là hàng loạt những đặc trưng thuộc lĩnh vực văn hóa: nếp sống cổ truyền như nhà cửa truyền thống, thành phần thức ăn, tập quán của đời sống gia đình, hôn nhân và các phong tục, trong các hành vi hàng ngày của các thành viên. Đối với đặc thù tộc người của các dân tộc hiện đại là sự xuất hiện của những truyền thống mới trong khuôn khổ của đời sống văn hóa hàng ngày như văn hóa tinh thần nghề nghiệp.
  11. Như vậy, dân tộc học đã tạo điều kiện cho việc nghiên cứu một trong những khía cạnh cơ bản của toàn bộ lịch sử văn hóa nhân loại, nó đóng vai trò quan trọng trong sự tái tạo lại lịch sử văn hóa của các giai đoạn phát triển sớm của xã hội. Cho nên có thể nói rằng, dân tộc học là một bộ môn khoa học về nghiên cứu văn hóa. Trong nghiên cứu các vấn đề hiện đại, công việc của các nhà dân tộc học có liên hệ chặt chẽ tới xã hội học, cả hai bộ môn này đều quan tâm đến một số hay nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Xã hội học là một môn khoa học nghiên cứu về những con người trong mối tương quan với những con người khác. Nó đã tiếp nhận từ dân tộc học nhiều khái niệm như thể chế, các hệ thống xã hội - cơ cấu xã hội, chuẩn mực, giá trị, biểu tượng… để hoàn thiện bộ khung khái niệm của mình. Ngay từ khi mới ra đời, những người sáng lập ra nó đã hết sức chú trọng đến văn hóa. A. Comte - cha đẻ của khoa học này đã nhấn mạnh rằng: quan niệm đời sống xã hội như một quá trình phát triển tự nhiên và hợp quy luật khách quan nhưng đồng thời cũng là thể thống nhất về tinh thần và văn hóa. Ông đã xác định nhiệm vụ của xã hội học trước hết phải tập trung phân tích các quy luật vận động và phát triển của văn hóa. Một nhà xã hội học nổi tiếng là Max Weber cũng đã có nhiều công sức để xây dựng môn xã hội học văn hóa. Trong các tác phẩm của mình, Max Weber đã phân tích một cách sâu sắc sự thâm nhập lẫn nhau giữa các yếu tố văn hóa và xã hội, qua đó chỉ ra ảnh hưởng to lớn của tư tưởng đến sự biến đổi và phát triển của xã hội. Max Weber quan niệm rằng xã hội học chính là khoa học về văn hóa. Đóng góp cho sự ra đời của xã hội học văn hóa còn có người sáng lập ra chủ nghĩa Mác. Các Mác xem các phương diện tinh thần và văn hóa như tôn giáo, luật pháp, triết học, nghệ thuật… với tư cách là kiến trúc thượng tầng phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng - những quan hệ sản xuất tạo thành cơ cấu kinh tế của xã hội. Đồng thời, kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối, có vai trò tích cực trong quá trình kinh tế - xã hội, tác động đến mọi mặt của quá trình đó. Tư tưởng về mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của Mác có ý nghĩa phương pháp luận trong nghiên cứu xã hội học văn hóa, nó giúp cho việc “đặt ra và giải quyết một cách khoa học các vấn đề văn hóa trong đời sống xã hội” [24, tr.36].
  12. Cho đến hiện nay, các nhà khoa học trên thế giới vẫn còn tranh luận về sự tồn tại của xã hội học văn hóa, ngành khoa học này vẫn còn gặp nhiều khó khăn trên con đường xác lập cho mình một vị trí bình đẳng với các bộ môn khác của xã hội học. Nhưng có một thực tế là không có một cuốn sách xã hội học nào lại không có những chương, những mục, những phần bàn về văn hóa. Kể từ khi xã hội học mới ra đời, văn hóa đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nó. Với nhiệm vụ “xem xét cấu trúc và hoạt động của văn hóa trong mối liên hệ với các cơ cấu, thiết chế xã hội và được áp dụng đối với các tình huống lịch sử cụ thể” [48, tr.80], xã hội học văn hóa đã tự khẳng định là một chuyên ngành của xã hội học. Những kết quả nghiên cứu mà nó đem lại ngày càng có ý nghĩa và đóng góp quan trọng cho các khoa học xã hội và nhân văn. Dựa trên những thành tựu của các môn khảo cổ học, dân tộc học, ngôn ngữ học, xã hội học và tâm lý học so sánh, một bộ môn khoa học về “sự phát triển của con người dưới hình thức những nền văn hóa của các nhóm dân tộc khác nhau” ra đời, đó chính là nhân học văn hóa. Nhân học văn hóa ra đời khi mà các nhà khoa học nhận ra rằng không thể dùng những yếu tố như chủng tộc hay sinh học để giải thích nguyên nhân khác nhau về trang phục, ngôn ngữ, tín ngưỡng… của con người trên thế giới. Phải có một cái gì tạo nên những sự khác biệt này, đó chính là văn hóa - những hành vi và quan niệm con người học hỏi với tư cách là thành viên của xã hội. Nhân học văn hóa tiếp thu những tài liệu do dân tộc học đem lại về: hoàn cảnh địa lý, lịch sử, ngôn ngữ, đặc điểm nhân chủng, phương thức sản xuất, cái ăn, cái mặc, cái ở, cách cư trú, tín ngưỡng, lễ nghi tập tục những biểu hiện có tính nghệ thuật, mối quan hệ qua lại giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng, những chuẩn mực trong hành vi, cung cách ứng xử… Trên cơ sở đó, các nhà nhân học văn hóa so sánh phân tích các thiết chế xã hội chủ yếu (chính trị và kinh tế, tín ngưỡng, pháp lý, hôn nhân, sinh đẻ), tiến hành tổng hợp xã hội học, giải thích nguyên nhân giống nhau và khác nhau, mức độ ổn định trong sự phát triển văn hóa của các nhóm dân tộc. Như vậy, nhân học văn hóa là kết quả của sự giao thoa giữa dân tộc học và xã hội học. Nếu như xã hội học đã tiếp nhận những khái niệm của dân tộc học thì đến nhân học văn hóa lại kế thừa những khái niệm của xã hội học làm công cụ cho quá trình khái quát hóa, tổng hợp của mình. Điều này giúp cho các nhà
  13. nhân học văn hóa đã đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu bước khởi đầu quá trình biến đổi, phát triển của văn hóa, sự khác biệt về mặt văn hóa giữa các dân tộc, khu vực, quốc gia và các loại hình văn hóa khác nhau. Những hoạt động mà các nhà nhân học văn hóa đã tiến hành đóng góp quan trọng đối với việc xây dựng cơ sở lý thuyết của sự hình thành bộ môn văn hóa học. Trước yêu cầu phải có cách nhìn toàn diện đối với một đối tượng phức tạp như văn hóa, phải có “kiến thức đồng bộ, tư duy tổng hợp và phương pháp tiếp cận liên ngành trên cơ sở tích hợp các dữ liệu của nhiều khoa học”[61, tr.5], văn hóa học đã ra đời. Thuật ngữ này xuất hiện lần đầu tiên năm 1909 do W. Ostwld đề xướng. Xuất phát từ quan niệm cho rằng văn hóa là những gì phân biệt con người với động vật, hoạt động văn hóa là hoạt động chỉ con người mới có, nhà triết học Đức đưa ra khái niệm văn hóa học là “khoa học về các hoạt động văn hóa, tức là hoạt động đặc biệt của con người”[70, tr.9]. Nhưng phải đến L.A. White (1900 - 1975) nhà nhân học người Mỹ, văn hóa học mới thực sự có bước phát triển với những tác phẩm nghiên cứu về văn hóa như “Khoa học về văn hóa”, “Sự tiến hóa của văn hóa”, “Khái niệm văn hóa”. Với những công trình lý luận này, ông đã “đặt cơ sở cho văn hóa học với tính cách là một khoa học độc lập, lý giải văn hóa như một hệ thống toàn vẹn, làm rõ phạm vi, nguyên tắc và đối tượng nghiên cứu của văn hóa học” [70, tr.10]. Văn hóa học, theo L.A. White, là một “chuyên ngành của nhân học trong đó xử lý văn hóa (các thiết chế, các công nghệ, các hệ tư tưởng) với tính cách một lớp riêng biệt các hiện tượng được tổ chức theo các nguyên tắc riêng biệt và ứng xử theo các quy luật riêng biệt của nó” [70, tr.19]. Tuy nhiên, cũng như khái niệm văn hóa, xung quanh văn hóa học vẫn còn rất nhiều ý kiến khác nhau, thể hiện tính chất không thuần nhất của bộ môn khoa học này. V.M. Megiuep, nhà khoa học Nga đã phủ định tư cách khoa học của văn hóa học: Có lẽ sẽ sai lầm nếu hiểu văn hóa học là một khoa học nào đó đã dứt khoát hình thành cùng với ranh giới đã được tách biệt rõ ràng của một bộ môn khoa học với một hệ thống tri thức đã hoàn toàn hình thành. Văn hóa học thực ra là một tên gọi chung để chỉ cả một tổ hợp các khoa học khác
  14. nhau, nghiên cứu hành vi văn hóa của con người và của cộng đồng người ở các giai đoạn tồn tại lịch sử khác nhau của họ [48, tr.78]. Trong khi đó, V.M. Rôđin lại quan niệm “Văn hóa học là một bộ môn khoa học tương đối mới, nó nghiên cứu, thứ nhất văn hóa nói chung, thứ hai các hiện tượng văn hóa riêng biệt (văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, lối sống, nghệ thuật, tôn giáo, gia đình” [48, tr.66]. Xuất phát từ ba định hướng nhận thức cơ bản về văn hóa: triết hoc, lịch sử, lý luận, ông đã chia văn hóa học thành các bộ phận là triết học, lịch sử văn hóa và khoa học về văn hóa. Cũng một nhà nghiên cứu văn hóa Nga khác, A.A. Radughin cho rằng: Văn hóa học - môn khoa học nghiên cứu sự ra đời và phát triển của văn hóa nói chung, có tham vọng nghiên cứu văn hóa trong bản chất cũng như trong toàn bộ các biểu hiện của nó, bao gồm cả lý thuyết và lịch sử văn hóa. Văn hóa học khái quát các nỗ lực của nhiều ngành khác nhau nhằm tạo nên cơ sở lý thuyết chung, tìm ra những quy luật tổng quát sự hình thành, phát triển và vận hành của văn hóa [45, tr. 570]. Trên cơ sở coi văn hóa là tất cả những gì nhân tạo, đồng nhất với hoạt động con người, với tồn tại, V.A. Kutyrev cho rằng: văn hóa học là học thuyết chung về thế giới. Nó bao gồm văn hóa học lý luận và lịch sử (văn hóa học lý thuyết) và văn hóa học ứng dụng. ở Việt Nam, mặc dù văn hóa học mới được đề cập đến nhưng nhanh chóng thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu văn hóa. Trong cuốn sách “Từ văn hóa đến văn hóa học” GS Phạm Đức Dương xác định đối tượng của văn hóa học là thế giới biểu tượng. GS Trần Ngọc Thêm với các góc độ khác nhau chia văn hóa học thành các phân môn: Lịch sử văn hóa, Địa văn hóa, Văn hóa học đại cương, Cơ sở văn hóa. GS Đặng Đức Siêu quan niệm văn hóa học tương ứng với các phân môn: Văn hóa học lý thuyết, Văn hóa học lịch sử và Văn hóa học ứng dụng. Như vậy, có thể nói rằng đang tồn tại nhiều lý luận về văn hóa và quan niệm về văn hóa học là không thuần nhất. Đúng như một nhà văn hóa học đã từng nhận định
  15. “Không có một văn hóa học, có bao nhiêu nhà văn hóa học lớn thì cũng có bấy nhiêu lý luận văn hóa, mỗi khuynh hướng văn hóa học độc đáo đều quy định cách tiếp cận và đối tượng của mình” [45, tr.66]. Trong điều kiện đó, chúng tôi lựa chọn quan niệm chia văn hóa học thành một số ngành là văn hóa học lý thuyết (lý luận văn hóa), văn hóa học lịch sử và văn hóa học ứng dụng. Trong phạm vi hạn hẹp của luận văn, chúng tôi sử dụng lý luận văn hóa làm khái niệm công cụ để tiếp cận với những nhận thức lý luận về văn hóa ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX cho đến năm 1945. 1.1.2. Lý luận văn hóa và đối tượng nghiên cứu của nó Lý luận, có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp theoria có nghĩa là quan sát, nghiên cứu. Theo Từ điển triết học do M.Rôđentan và P.Iuđin chủ biên thì lý luận được hiểu theo 3 nghĩa: Thứ nhất: hệ thống tư tưởng chủ đạo trong một lĩnh vực tri thức. Thứ hai: kinh nghiệm của loài người đã được khái quát. Thứ ba: sự tổng hợp các tri thức về tự nhiên và xã hội tích lũy được trong quá trình lịch sử [47, tr.526] GS. TS Tô Duy Hợp dưới góc độ lôgic học đã nêu lên kết cấu của lý luận:  Kết cấu giản đơn của lý luận : lý luận được cấu tạo từ hai bộ phận chủ yếu là cơ sở lý luận bao gồm các nguyên lý và các khái niệm cơ bản; cơ thể lý luận bao gồm các hệ quả, định lý, quy luật rút ra một cách trực tiếp hay gián tiếp nhờ suy lý hợp lôgic từ cơ sở lý luận nói trên.  Kết cấu phức tạp, hoàn chỉnh của lý luận bao gồm: Lịch sử của lý luận, tức là lịch sử hình thành và phát triển của lý luận ấy. Logic của lý luận phản ánh lịch sử và logic đối tượng gồm có hai thành phần chủ yếu: Lý luận tổng quát, tổng hợp về đối tượng, tái hiện lịch sử và logíc chung của đối tượng bằng tư duy lý luận khái quát nhất.
  16. Các lý thuyết chuyên biệt về đối tượng, tái hiện lịch sử và logic các khía cạnh, bộ phận khác nhau của đối tượng ấy. Trên cơ sở những nhận thức chung này, GS Tô Duy Hợp đã vận dụng trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa, coi lý luận văn hóa như một ngành khoa học độc lập theo kết cấu lôgic chung của khoa học và của lý luận khoa học như trên. Tác giả đã đưa ra 4 cấp độ sau đây trong lý luận văn hóa : Khái niệm sơ bộ về văn hóa. Tiếp cận đa bộ môn nhằm làm sáng tỏ từng khía cạnh bản chất của văn hóa. Đi từ trừu tượng đến cụ thể nhằm xây dựng lý thuyết khoa học tổng quát, tổng hợp, tái hiện toàn bộ biện chứng đối tượng (tái hiện toàn bộ mâu thuẫn, bản chất, hệ thống quy luật của văn hóa ) Tiếp cận liên ngành khoa học, mở rộng việc tái hiện toàn bộ bản chất văn hóa như nó vốn có, như cái nó khác và như cái khác của nó, nhờ đó mà đi sâu hơn bản chất của nó [69, tr.114]. Trong cuốn sách lý luận văn hóa đầu tiên của Liên Xô “Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin”, các nhà khoa học Xôviết đã xác định: lý luận văn hóa nghiên cứu những quy luật của quá trình phát triển văn hóa tinh thần nhờ các khái niệm và phạm trù khoa học đặc trưng cho các khía cạnh và yếu tố khác nhau của nó [5, tr.14]. GS Hoàng Vinh quan niệm lý luận văn hóa là môn học nghiên cứu những vấn đề mang tính quy luật trong sự nghiệp xây dựng văn hóa. Đó là quá trình sản xuất, bảo quản, phân phối và tiêu dùng các sản phẩm văn hóa - những yếu tố chức năng tạo nên đời sống văn hóa của một cộng đồng xã hội. Cũng theo GS Hoàng Vinh “Lý luận văn hóa là một tập hợp khái niệm, đặt trong một cấu trúc xác định, nhờ hệ khái niệm đó con người có thể nắm bắt hiện thực văn hóa - xã hội, gần đúng với sự tồn tại khách quan của nó” [71, tr.24]. Trong các cuốn sách về văn hóa đã xuất bản ở nước ta có đề cập đến lý luận văn hóa như: Giáo trình lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở nước ta hiện
  17. nay… các tác giả ít đề cập đến khái niệm lý luận văn hóa. Nhưng thông qua việc trình bày nội dung phần lý luận văn hóa, có thể khái quát những vấn đề mà lý luận văn hóa đề cập đến là: Khái niệm văn hóa, mối quan hệ của khái niệm này với một số khái niệm liên quan. Nguồn gốc của văn hóa Cấu trúc và chức năng của văn hóa Các quy luật vận động của văn hóa Trên cơ sở những nghiên cứu trên đây, có thể hiểu lý luận văn hóa theo hai nghĩa: Nghĩa rộng, lý luận văn hóa bao gồm toàn bộ những tri thức về văn hóa được khái quát thông qua quá trình nghiên cứu văn hóa. Nói một cách khác, đó là thành quả của các khoa học nghiên cứu văn hóa như dân tộc học, xã hội học văn hóa, nhân học văn hóa, văn hóa học… Nghĩa hẹp, lý luận văn hóa là một phân môn của văn hóa học đi sâu vào bản thể của văn hóa, tìm hiểu bản chất của văn hóa thông qua hệ thống các khái niệm, quy luật vận động, phát triển của văn hóa. Như vậy, đối tượng của lý luận văn hóa (luận văn đề cập đến) là văn hóa ở khía cạnh bản chất và sự vận động của nó. Do đó, nhiệm vụ của lý luận văn hóa là nghiên cứu bản chất văn hóa thông qua việc làm rõ: Khái niệm văn hóa Nguồn gốc của văn hóa Các quy luật vận động, phát triển của văn hóa Từ những đặc điểm của lý luận văn hóa, có thể thấy mối quan hệ của lý luận văn hóa với các bộ môn khoa học văn hóa khác. Điểm chung của các khoa học này là đều lấy văn hóa làm đối tượng nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, ở mỗi bộ môn tùy theo mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu mà có cách tiếp cận văn hóa khác nhau. Dân tộc học và nhân
  18. học văn hóa dựa trên việc thu thập và phân tích tư liệu, so sánh một cách hệ thống về văn hóa của các xã hội và các thời đại khác nhau. Xã hội học văn hóa xem xét cấu trúc và hoạt động văn hóa trong mối liên hệ với các cơ cấu, thiết chế xã hội và được áp dụng đối với những tình huống lịch sử cụ thể. Ngay cả đối với các phân môn của văn hóa học, lý luận văn hóa cũng có những điểm khác. Lịch sử văn hóa khảo sát tiến trình văn hóa của một dân tộc theo thời gian, theo từng giai đoạn lịch sử với các tình tiết và sự kiện, mở rộng sự hiểu biết văn hóa theo chiều dọc. Văn hóa học ứng dụng tập trung xem xét hoạt động của các thiết chế văn hóa, tức là những vấn đề của quá trình thiết chế xã hội của nó; nghiên cứu những vấn đề di sản văn hóa; thực hiện các dự báo kinh nghiệm trong lĩnh vực văn hóa… Còn nhiệm vụ quan trọng nhất của lý luận văn hóa là hiểu bản chất của văn hóa và tìm những quy luật cũng như cơ chế vận hành của những hình thức và phương diện cụ thể của văn hóa. Có thể nói, lý luận văn hóa hạt nhân của hệ thống các khoa học nghiên cứu văn hóa. Nó cung cấp cho các khoa học văn hóa những khái niệm mang tính công cụ, cơ sở lý luận chung nhất để các bộ môn này nghiên cứu các hiện tượng văn hóa của các dân tộc, nhóm xã hội trong những giai đoạn cụ thể. 1.2. Bối cảnh ra đời của những nhận thức lý luận văn hóa ở nước ta 1.2.1. Bối cảnh thế giới Bước vào thế kỷ XX, thế giới đã có nhiều thay đổi. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, của khoa học kĩ thuật dường như thu hẹp khoảng cách về địa lý giữa các dân tộc. Những sự kiện xảy ra trên thế giới đã nhanh chóng tác động đến từng dân tộc, kể cả nhiều dân tộc phương Đông vốn lâu nay thực hiện bế quan tỏa cảng, không giao lưu tiếp xúc với bên ngoài, trong đó có Việt Nam. ở đây, luận văn chỉ đề cập đến những tác động trực tiếp của thế giới, cả ở châu Âu và châu á đối với việc xuất hiện những nhận thức lý luận về văn hóa ở nước ta nửa đầu thế kỷ XX. Trước hết là sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của các khoa học nghiên cứu văn hóa ở các nước phương Tây. Mặc dù trong buổi đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây nhưng qua các con đường khác nhau những lý thuyết văn hóa của thế giới ít nhiều đã
  19. thâm nhập vào Việt Nam mà biểu hiện rõ nhất là thuyết Tiến hóa văn hóa và thuyết Truyền bá văn hóa. Như đã trình bày, những thành tựu của khoa học tự nhiên thời kỳ này là cơ sở cho sự ra đời của nhiều ngành khoa học văn hóa, trong đó có Tiến hóa luận văn hóa. Xuất phát từ quan niệm cho rằng học thuyết tiến hóa cũng chi phối quá trình phát triển của văn hóa và xã hội loài người, cả L.H. Morgan và E.B. Taylor đều cho rằng “Văn hóa là phương thức riêng biệt của nhân loại nhằm thích ứng với hoàn cảnh, văn hóa là một dạng thức tâm lý của tộc người, tâm lý này và xã hội mà nó gắn bó đều phát triển tiến hóa theo các giai đoạn từ thấp đến cao” [57, tr.18]. Khảo sát bước tiến hóa nhân loại, Morgan đã xác định những nấc thang phổ biến trong quá trình phát triển văn hóa và xã hội của loài người là “Mông muội” - “Dã man” - “Văn minh”. Tylor cũng quan niệm rằng “Dã man” và “Văn minh” là giai đoạn thấp và giai đoạn cao của quá trình tiến hóa, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau tuần tự tr ước sau nối tiếp nhau. Trong tác phẩm “Những nghiên cứu trong lĩnh vực cổ đại của loài người” công bố năm 1865, Tylor đã đưa ra những kết luận về sự tiến hóa của văn hóa: Lịch sử văn hóa cho thấy sự tiến bộ không ngừng từ trạng thái hoang dã nguyên thủy đến văn minh hiện đại. Những sự khác nhau về sinh hoạt của các dân tộc trên trái đất không phải là do nguồn gốc chủng tộc, mà là do sự khác nhau về những nấc văn hóa đạt được của các xã hội khác nhau. Tất cả các yếu tố văn hóa là sản phẩm của sự phát minh độc lập, hoặc là của sự thừa kế từ tổ tiên. Trong các tác phẩm ra đời sau này như “Văn hóa nguyên thủy” năm 1871, “Nhân học” năm 1881… Tylor luôn luôn khẳng định sự phát triển tiến bộ tiến hóa của các nền văn hóa là xu hướng chính trong lịch sử loài người. Quan niệm tiến hóa trong văn hóa của Tylor đã có ảnh hưởng to lớn trong sự nghiên cứu văn hóa. Sự ra đời của “Văn hóa nguyên thủy” đã đánh một dấu mốc quan trọng trong nghiên cứu văn hóa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trên thế giới.
  20. Trường phái Truyền bá luận văn hóa ra đời cuối thế kỷ XIX. Đối lập với Tiến hóa luận văn hóa, các nhà khoa học thuộc trường phái này phủ nhận sự tự phát triển của văn hóa. Dựa trên những kết quả về sự di chuyển văn hóa theo không gian của các ngành khoa học khảo cổ, dân tộc học, địa lý… họ cho rằng hoàn cảnh và điều kiện tự nhiên là một trong những nguyên nhân tạo ra những nét đặc trưng riêng của các nền văn hóa, các hiện tượng văn hóa được truyền bá thông qua các cuộc tiếp xúc giữa các dân tộc bằng buôn bán, xâm lược, di dân. Nói một cách khác, “Các dân tộc không đi theo một con đường tiến hóa đồng nhất, các nền văn hóa nảy sinh trong những hoàn cảnh địa lý khác nhau đều có riêng quá trình lịch sử, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng lan tỏa của các nền văn hóa khác ở bên ngoài” [57, tr.20]. Trường phái này được tạo nên từ những tên tuổi như R.F. Graebner (1887 - 1934) F.Boas (1858 - 1942), O.Spengler (1880 - 1936), A.J. Tonynbee (1889 -1975)… Với cách nhìn văn hóa như một quá trình động, không ngừng di chuyển, hoàn cảnh địa lý, lịch sử, văn hóa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trường phái Truyền bá luận văn hóa đã có những bước tiến trên con đường tiếp cận nghiên cứu tìm hiểu văn hóa, nghiên cứu thực chất của văn hóa. Những trường phái nghiên cứu văn hóa này đã ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến tầng lớp trí thức dân tộc Việt Nam trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX. ảnh hưởng trực tiếp là lực lượng trí thức Tây học, đã từng du học ở các nước phương Tây mà chủ yếu là ở Pháp. ảnh hưởng gián tiếp là qua phong trào Tân thư, từ Trung Quốc, Nhật Bản đã truyền vào nước ta nhiều sách khoa học dịch từ phương Tây. Thứ hai, phong trào Tân thư, Tân học ở các nước châu á. Sau đêm dài trung cổ, châu Âu bừng tỉnh trong thời kỳ Phục hưng với những thành tựu rực rỡ trên tất cả các lĩnh vực, đánh dấu thời kỳ chuyển tiếp từ thời trung đại sang thời cận đại, từ xã hội phong kiến chuyển sang xã hội tư sản. Sự phát triển của khoa học kĩ thuật là động lực, là căn nguyên vượt trội của phương Tây. Trong khi đó, phương Đông tự ru ngủ mình trong vòng hào quang của quá khứ trở thành trì trệ, bảo thủ, bị phương Tây vượt qua rất nhanh, buộc chấp nhận là người đi trước về sau. Đứng trước nguy cơ bành trướng của chủ nghĩa tư bản phương Tây, phương Đông phải đi tìm câu trả lời cho con đường độc lập và phát triển của mình. Phong trào Tân thư - hiện
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0