Luận văn tốt nghiệp: Tác động của tâm lý làng xã đối với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn hiện nay
lượt xem 6
download
Luận văn tìm hiểu về tác động của tâm lý làng xã đối với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn hiện nay; những giải pháp nhằm phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của tâm lý làng xã đối với việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn tốt nghiệp: Tác động của tâm lý làng xã đối với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn hiện nay
- LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TÁC ĐỘNG CỦA TÂM LÝ LÀNG XÃ ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ NÔNG THÔN NƯỚC TA HIỆN NAY 1
- Tháng 04/2011 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tâm lý làng xã là một dạng biểu hiện đặc thù và nổi bật của tâm lý xã hội trong xã hội Việt Nam, phản ánh những nét tâm lý tiêu biểu nhất của người nông dân trong một cộng đồng dân cư (làng xã – một loại nhóm lớn). Việc triển khai quy chế dân chủ ở nông thôn là một bước phát huy cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, nhằm khơi dậy một cách toàn diện vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị và động viên mạnh mẽ nhân dân góp phần xây dựng chính quyền ngày càng vững mạnh, phục vụ đường lối đổi mới của Đảng, thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn là nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở là công bộc của dân, có đủ năng lực và phẩm chất đáp ứng yêu cầu phát triển và đổi mới đất nước, ngăn chặn, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phiền hà và sách nhiễu nhân dân. Qua nhiều năm triển khai thực hiện, có thể thấy Quy chế dân chủ đã nhận được sự đồng tình và ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân. Nó thể hiện đây là một chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân của Đảng. Song, quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn không chỉ chịu sự tác động của các yếu tố tích cực, mà còn chịu sự tác động của một số yếu tố tiêu cực, gây trở ngại cho việc thực hiện quy chế này. Một trong những yếu tố cơ bản tác động tích cực lẫn tiêu cực đến quá trình thực hiên Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn là tâm lý làng xã. Tâm lý làng xã và quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn có mối quan hệ biện chứng. Tâm lý làng xã có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn. Tâm lý làng xã tích cực sẽ thúc đẩy quá trình thực hiện Quy chế dân chủ. Ngược lại, tâm lý làng xã tiêu cực, lạc hậu sẽ kìm hãm, gây khó khăn, trở ngại đối với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở 2
- cơ sở. Mặt khác Quy chế dân chủ ở cơ sở sẽ góp phần biến đổi tâm lý làng xã theo hướng tích cực và khắc phục những tâm lý làng xã tiêu cực đang tồn tại làm hình thành những đặc trưng mới của tâm lý làng xã ở thời lỳ đổi mới – thời kì đưa nông thôn phát triển nông nghiệp là chủ yếu, chuyển dần sang sản xuất theo hướng công nghiệp, hiện đại hóa. Những tác động qua lại này đều được phản ánh, in dấu vào bộ mặt tâm lý của người nông dân, cộng đồng dân cư làng xã nông thôn, các tổ chức và thiết chế chính trị xã hội ở nông thôn. Nhận diện những tác động, biến đổi của tâm lý làng xã đối với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn hiện nay là khảo sát mối quan hệ qua lại, tác động qua lại giữa tâm lý làng xã với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở nông thôn. Việc tìm hiểu tác động của tâm lý làng xã tới việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn là một nhiệm vụ cần thiết trong nghiên cứu mối quan hệ giữa các yếu tố tâm lý xã hội với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở nông thôn hiện nay. Bởi lẽ, tâm lý làng xã là hạt nhân, là yếu tố trung tâm của các yếu tố tâm lý xã hội ở nông thôn. Tâm lý làng xã có tác động trên cả hai chiều tích cực và tiêu cực đối với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn. Trên cơ sở nhận thức như vậy, tôi quyết định chọn đề tài: “Tác động của tâm lý làng xã đối với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn hiện nay” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp nhằm có những đề xuất, giải pháp phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của tâm lý làng xã đối với việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Mục đích: Tìm hiểu về tác động của tâm lý làng xã đối với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn hiện nay. Nhiệm vụ: Thứ nhất: Tìm hiểu một số vấn đề lí luận chung về tâm lý làng xã và Quy chế dân chủ, thực hiện triển khai Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn. Thứ hai: Tác động của tâm lý làng xã đối với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn. 3
- Thứ ba: Những giải pháp nhằm phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của tâm lý làng xã đối với việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đề tài nghiên cứu về tác động của tâm lý làng xã đối với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở nông thôn hiện nay. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về tác động của tâm lý làng xã đối với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ từ 1998 đến nay. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được viết và hoàn thành trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về vấn đề dân chủ và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Trong bài luận văn này tôi sử dụng một số phương pháp như: so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, phương pháp logic lịch sử. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương, 13 tiết 4
- NỘI DUNG Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÂM LÝ LÀNG XÃ VÀ THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ NÔNG THÔN 1.1 Bước đầu xác định khái niệm “tâm lý làng xã”. Nghiên cứu về tâm lý làng xã với tư cách là một vấn đề tâm lý xã hội còn hết sức ít ỏi và mới bắt đầu mấy năm trở lại đây. Đời sống kinh tế xã hội của làng xã ở nước ta trong lịch sử và hiện tại, chủ yếu được nghiên cứu từ góc độ của khoa học lịch sử, dân tộc học, văn hóa, xã hội học, kinh tế học...Chúng ta còn ít các nghiên cứu tâm lý học có tính chuyên sâu về tâm lý làng xã, đặc biệt là những nghiên cứu thực tiễn. 5
- Chính vì vậy mà đến nay, chúng ta vẫn chưa có một khái niệm chính thức về tâm lý làng xã. Đã đến lúc chúng ta cần xây dựng khái niệm về tâm lý làng xã. Sở dĩ điều này trở thành một nhiệm vụ nghiên cứu lý luận quan trọng bởi lý bởi lẽ: Thứ nhất, nước ta là một nước nông nghiệp, có tới gần 80% dân số sống ở nông thôn. Cho nên, tâm lý nông dân là tâm lý là tâm lý rất đặc trưng của người Việt Nam, nó phản ánh hoạt động thực tiễn của đại đa số người dân Việt Nam. Thứ hai, làng xã là đơn vị hành chính đã tồn tại rất lâu dài trong lịch sử dân tộc ta. Nó đã từng là “tiểu quốc gia”, một xã hội Việt Nam thu nhỏ trong hàng ngàn năm của chế độ phong kiến. Nó ăn sâu vào tiềm thức của người nông dân từ thê hệ này qua thế hệ khác. Nó chi phối suy nghĩ và hành vi của người nông dân (kể cả những người nông dân đã rời bỏ làng xã ra sống ở đô thị và trở thành cán bộ công chức nhà nước). Thứ ba, khái niệm là cơ sở để chúng ta nghiên cứu những vấn đề nội dung của tâm lý làng xã. Việc xác định tâm lý làng xã phải chú ý một đến một số khía cạnh quan trọng sau: Tâm lý làng xã là dạng cơ bản của tâm lý xã hội. Nói cách khác, đây là một hình thức của tâm lý nhóm. Tâm lý làng xã phản ánh những nét tiêu biểu nhất, đặc trưng nhất của những người nông dân trong một cộng đồng dân cư. Tâm lý làng xã được hình thành và phát triển trong một quá trình lịch sử lâu dài. Nó được sự chắt lọc của thời gian và kiểm nghiệm của lịch sử. Từ những phân tích trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm bước đầu về tâm lý làng xã: Tâm lý làng xã là một dạng tâm lý xã hội bền vững của một cộng đồng dân cư cơ bản ở nông thôn, nó phản ánh những nét tâm lý tiêu biểu nhất, đặc trưng nhất của những người nông dân trong cộng đồng ấy. Tâm lý làng xã là sản phẩm của nền văn minh nông nghiệp Việt Nam, được tạo nên từ hoạt động sản xuất, hoạt động đấu tranh, vật lộn với thiên nhiên trải qua một quá trình hàng ngàn năm. Nền sản xuất nông nghiệp của làng xã Việt Nam trải qua hàng năm ấy là nền sản xuất tiểu nông, manh mún. Người nông dân làm ra sản 6
- phẩm chủ yếu để phục vụ cho gia đình mình, nếu có trao đổi thì cũng một phạm vi rất hẹp (chợ làng). Nền sản xuất tiểu nông là nền sản xuất mang tính tự cung tự cấp rất cao, là nền sản xuất chủ yếu theo kinh nghiệm mà ở đó người ta ít thấy hiện diện của các yếu tố khoa học – kỹ thuật, chính vì vậy mà năng suất lao động rất thấp. Những đặc điểm này của nền sản xuất nông nghiệp Việt Nam đã in đậm dấu ấn của nó lên tâm lý làng xã, làm cho tâm lý làng xã trở thành một dạng tâm lý xã hội rất đặc thù. Là một hình thái của ý thức xã hội, tâm lý làng xã một mặt là sản phẩm của hoạt động thực tiễn (hoạt động lao động sản xuất và hoạt động sinh hoạt hàng ngày) của người nông dân, mặt khác, nó tác động tích cực trở lại hoạt động sống của người nông dân hoặc theo chiều hướng tích cực hoặc theo chiều hướng tiêu cực. Những thay đổi về kinh tế xã hội hiện nay ở nông thôn trên cơ sở phát triển nền kinh tế thị trường, ứng dụng khoa học – kĩ thuật vào sản xuất, sự hội nhập về kinh tế, văn hóa với các quốc gia khác...đã tác động lớn đến tâm lý làng xã truyền thống, làm cho yếu tố tâm lý xã hội này có những thay đổi nhất định. Một số yếu tố tâm lý mới sẽ bổ sung vào tâm lý làng xã làm cho nó mang một sắc thái mới. Đó là những biến đổi về tư duy, tình cảm, thái độ và hành vi của người nông dân trong điều kiện sản xuất theo hướng kinh tế thị trường. 1.2 Quy chế dân chủ và thực hiện triển khai Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn. Chỉ thị số 30/CT TW ngày 18 – 02 – 1998 của Ban chấp hành Trung ương về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nêu rõ: Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, của công cuộc đổi mới. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách đổi mới về kinh tế, chính trị, xã hội, phát huy một bước quyền làm chủ của nhân dân, nhờ đó đã đạt được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. 7
- Tuy nhiên, nhìn chung, quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn đang phổ biến và nghiêm trọng mà chúng ta chưa đẩy lùi, chưa ngăn chặn được. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chưa được cụ thể hóa và thể chế hóa thành luật pháp, chậm đi vào cuộc sống. Như Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 6 – 1997) đã nhấn mạnh, lúc này để giữ vững và phát huy được bản chất tốt đẹp của Nhà Nước ta, phải phát huy quyền làm chủ của dân, thu hút nhân dân tham gia quản lí nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng. Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền làm chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Muốn vậy, Nhà nước cần ban hành Quy chế dân chủ ở cơ sở có tính pháp lý, yêu cầu mọi người, mọi tổ chức ở cơ sở đều phải nghiêm chỉnh thực hiện. Quy chế dân chủ cần được xây dựng cho từng loại cơ sở xã, phường, doanh nghiệp, bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu, cơ quan hành chính…phù hợp với đặc điểm của từng loại cơ sở. Việc xây dựng Quy chế dân chủ ở cơ sở cần quán triệt những quan điểm chỉ đạo sau: Đặt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong cơ chế tổng thể của hệ thống chính trị “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Coi trọng cả ba mặt nói trên, không vì nhấn mạnh một mặt mà coi nhẹ hạ thấp các mặt khác. Vừa phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp, vừa thực hiện tốt các chế độ dân chủ trực tiếp ở cấp cơ sở để nhân dân bàn bạc và quyết định trực tiếp những công việc quan trọng, thiết thực, gắn liền với lợi ích của mình. 8
- Phát huy dân chủ phải gắn liền phát triển kinh tế xã hội và nâng cao dân trí, tạo điều kiện mở rộng dân chủ có chất lượng và hiệu quả. Nội dung các quy chế phát huy dân chủ ở cơ sở phải phù hợp với Hiến pháp, pháp luật, thể hiện tinh thần dân chủ đi đôi với kỉ cương, trật tự, quyền hạn gắn với trách nhiệm, lợi ích đi đôi với nghĩa vụ; chống quan liêu, mệnh lệnh, đồng thời chống tình trạng vô chính phủ, lợi dụng dân chủ vi phạm pháp luật. Gắn quá trình và thực hiện Quy chế dân chủ với công tác cải cách hành chính, sửa đổi những cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính không phù hợp. Quy chế dân chủ ở cơ sở quy định những việc chính quyền địa phương phải thông tin và công khai để dân biết, những việc dân bàn và quyết định trực tiếp, những việc dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan Nhà Nước quyết định, những việc dân giám sát, kiểm tra và các hình thức thực hiện Quy chế dân chủ. Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở là gắn với công cuộc cải cách thể chế, cải cách hành chính hiện nay để thực hiện phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” bằng bốn loại quyền cụ thể của người dân ở cơ sở trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cải cách thể chế, xây dựng chính quyền và hệ thống chính trị ở cơ sở là một vấn đề rất lớn phải giải quyết để thực hiện dân chủ chính trị từ cơ sở. Quy chế dân chủ ở xã mà Đảng ban hành hướng chủ yếu vào mục đích này. Tinh thần cơ bản của Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn là thực hiện triệt để các biện pháp chống quan liêu, tham nhũng, làm trong sạch thể chế từ cơ sở, nâng cao chất lượng cán bộ ở cơ sở, coi đó là khâu quyết định hiệu lực, hiệu quả của chính quyền cơ sở, của hệ thống chính trị cơ sở. Sự ủy quyền của dân có đảm bảo được lành mạnh và có làm cho dân thực sự là người chủ hay không, tùy thuộc một phần lớn vào phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, vào sự đoàn kết, nhất trí, phối hợp hành động và sự đổi mới phương pháp hoạt động của các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể cơ sở. Những điều khoản quy định trong quy chế và những biện pháp thực hiện đều nhằm vào phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tạo thế chủ động, tích cực của dân, phát triển mạnh mẽ phương thức dân chủ trực tiếp để 9
- dân tự quản, tự quyết định những vấn đề liên quan trực tiếp tới cuộc sống hàng ngày của họ. Nó phù hợp với đặc điểm tâm lý nông dân và tâm lý cộng đồng làng xã, phát huy được vai trò và chức năng của xã vừa là một cấp bách hành chính, vừa có tính chất tự quản, cộng đồng. Chỉ thị số 30 – CT/TƯ ngày 18 – 2 – 1998 của Trung ương Đảng đã nêu rõ những quan điểm và nội dung chủ yếu, phương châm, phương pháp để xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là ở cơ sở nông thôn: Thứ nhất là,, đối với những việc cần thông báo để nhân dân biết: Chính quyền xã có trách nhiệm thông tin kịp thời và công khai để nhân dân biết những công việc chính sau: Chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan trực tiếp đến lợi ích của nhân dân trong xã bao gồm: nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định của Uỷ ban nhân dân xã và cấp trên có liên quan đến địa phương; các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công việc liên quan đến dân; Những quy định của Nhà nước và chính quyền địa phương về đối tượng, mức thu các loại thuế, lệ phí và các nghĩa vụ khác đối với nhân dân theo quy định của pháp luật hiện hành; Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội dài hạn và hàng năm của xã; quy hoạch sử dụng đất đai, dự toán và quyết toán ngân sách xã hàng năm; dự toán và quyết toán thu chi các quỹ, dự án các khoản huy động đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng của xã và kết quả thực hiện; các công trình dự án do Nhà nước, các tổ chức và cá nhân đầu tư, tài trợ trực tiếp cho xã; chủ trương, kế hoạch vay vốn phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo; điều chỉnh địa giới hành chính của xã; kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ tiêu cực tham nhũng của cán bộ xã; công tác phòng chống các tệ nạn xã hội; sơ kết, tổng kết hoạt động của Hội động nhân dân, Ủy ban nhân dân xã; phương án đồn điền, đổi thửa phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển nông nghiệp, kinh tế trang trại, hợp tác xã. [10 tr.21] Ủy ban nhân dân xã có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các thành viên của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và Trưởng thôn cùng các cấp thông tin theo quy định tại điều 5 của Quy chế này để 10
- nhân dân biết bằng các hình thức sau: niêm yết công khai văn bản tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã và các trung tâm dân cư, văn hóa, hệ thống truyền thanh của xã, thôn và các tổ chức văn hóa, thông tin, tuyên truyền cơ sở; tổ chức các cuộc tiếp xúc cử tri của đại biểu Hội đồng nhân dân xã; tại các kỳ họp của Hội đồng nhân dân xã, các kỳ họp của Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và của cuộc họp của thôn; gửi văn bản tới hộ gia đình hoặc Trưởng thôn. [10 tr.23] Nhân dân phải được tham gia các buổi họp sơ kết 6 tháng, tổng kết cuối năm, kiểm điểm các hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã. Đảng bộ, chính quyền xã cần phải tổ chức mỗi năm 2 kỳ, đoàn cán bộ chủ chốt của xã lần lượt đi tất cả các xóm để nhân dân đóng góp xây dựng trực tiếp về mọi hoạt động của Đảng, chính quyền cũng như của từng cán bộ chủ chốt. Thứ hai là, đối với những việc dân bàn và quyết định trực tiếp: Có thể thấy hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò quan trọng trực tiếp trong việc tạo điều kiện để nhân dân bàn và quyết định những công việc trực tiếp chủ yếu như: chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi công cộng (điện, đường, trường, trạm y tế,nghĩa trang, các công trình văn hóa, thể thao...); lập thu, chi các quỹ trong khuôn khổ pháp luật; xây dựng hương ước, quy ước làng văn hóa, nếp sống văn minh, giữ gìn an ninh trật tự, bài trừ mê tín dị đoan, các tệ nạn xã hội; các công việc nội bộ trong cộng đồng dân cư thôn, phù hợp với pháp luật của Nhà nước; thành lập Ban giám sát công trình xây dựng do dân đóng góp; tổ chức bảo vệ sản xuất, kinh doanh giữ gìn an ninh, trật tự an toàn giao thông, vệ sinh môi trường và các hoạt động khác trên địa bàn xã, thôn. [12 tr.13] Ngoài những khoản đóng góp quy định tại khoản 1 điều 7 những khoản đóng góp khác của nhân dân ủng hộ với mục đích tương trợ, nhân đạo, từ thiện, Uỷ ban nhân dân xã phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp tuyên truyền vận động nhân dân theo nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện, không được áp đặt, phân bổ, bình quân nhất loạt. [12 tr.13] 11
- Cấp ủy Đảng lãnh đạo, Ủy ban nhân dân xã xây dựng phương án, chương trình, kế hoạch. Ủy ban nhân dân xã phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc chỉ đạo, tổ chức nhân dân bàn quyết định bằng các hình thức: họp dân ở từng ấp thảo luận và biểu quyết công khai hoặc kiểm phiếu kín, lập biên bản gửi Ủy ban nhân dân xã; họp chủ hộ bàn, biểu quyết công khai hoặc phiếu kín, lập biên bản gửi Ủy ban nhân dân xã (các cuộc họp này được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba số người trong diện họp tham dự); nếu không họp thì phát phiếu lấy ý kiến của hộ gia đình. [12 tr.13] Việc lấy ý kiến, biểu quyết công khai tại cuộc họp hoặc bỏ phiếu kín về từng vấn đề do nhân dân tự quyết định theo quy định tại điều 7 của Quy chế này phải được lập biên bản để để báo cáo Uỷ ban nhân dân xã về nội dung cuộc họp và kết quả của những vấn đề đã biểu quyết. Nếu đa số nhân dân hoặc chủ hộ đồng ý thì Ủy ban nhân dân xã tổ chức thực hiện có sự giám sát, kiểm tra của Ban thanh tra nhân dân xã hoặc Ban giám sát công trình do dân cử. Nhân dân có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh các quyết định được đa số đồng ý. Nếu xét thấy đa số quyết định không phù hợp với luật pháp và các quy định của chính quyền địa phương thì Ủy ban nhân dân xã đề nghị Ủy ban nhân dân huyên xem xét, quyết định. [12 tr.14] Thứ ba là, đối với những việc dân làm, tham gia ý kiến, Đảng bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân quyết định: Khi những buổi họp dân thực sự có chất lượng, nhân dân thực sự là chủ về mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội, nhân dân có trách nhiệm góp ý thẳng thắn, không sợ bị trù dập, thì những phương thức thực hiện dân chủ một cách gián tiếp như đặt hòm thư góp ý, phát phiếu thăm dò ý kiến phải ít sử dụng. Người dân là chủ thể sáng tạo góp phần xây dựng những dự thảo nghị quyết, quy chế và kế hoạch cho Đảng bộ, chính quyền các đoàn thể nhân dân, như: dự thảo quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội dài hạn, hàng năm của xã, phương án chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất và phương án phát triển nghành nghề, giải quyết việc làm cho người lao động; dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai ở địa phương và việc quản lý sử dụng có hiệu quả quỹ đất 12
- công ích ở địa phương; dự thảo quy hoạch khu dân cư và đề án định canh, định cư, vùng kinh tế mới, kế hoạch và dự án huy động và sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng do xã quản lý; dự thảo đề án phân vạch, điều chỉnh địa giới hành chính xã, đề án chia, thành lập thôn, làng, ấp,bản; phương án đền bù, giải phóng mặt bằng; giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân xã,...Hay những chương trình có tính quốc gia như dự thảo triển khai các chương trình quốc gia về y tế, nước sạch, môi trường, an toàn thực phẩm, kế hoạch hóa gia đình. [12 tr.14] Phương thức thực hiện những việc dân bàn, tham gia ý kiến, Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Nhân dân quyết định: Uỷ ban nhân dân xã dự thảo các văn bản, kế hoạch, phương án và phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã, các đoàn thể nhân dân tổ chức lấy ý kiến công khai dưới các hình thức: Phát biểu thăm dò ý kiến từng hộ gia đình; họp nhân dân hoặc chủ hộ thôn, làng, ấp, bản thảo luận, lập biên bản gửi Uỷ ban Nhân dân xã; họp các đoàn thể, các tổ chức kinh tế để thảo luận, ghi biên bản gửi Uỷ ban Nhân dân xã; đặt hòm thư góp ý, Uỷ ban Nhân dân xã tổng hợp ý kiến. [12 tr.15] Thứ tư là, những việc nhân dân giám sát, kiểm tra: Nhân dân là những người chủ thật sự của làng, xã, nhất thiết phải được kiểm tra, giám sát những việc sau: hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân xã; kết quả thực hiện nghị quyết của hệ thống chính trị sau mỗi năm, mỗi khóa, mỗi kỳ đại hội; hoạt động của đại biểu Hội đồng Nhân dân xã, của cán bộ Uỷ ban Nhân dân và cán bộ, công chức Nhà nước hoạt động tại địa phương; giải quyết khiếu nại, tố cáo của dân; dự toán và quyết toán ngân sách xã; kết quả nghiệm thu và quyết toán công trình do nhân dân đóng góp xây dựng và các chương trình dự án do Nhà nước, các tổ chức vá cá nhân đầu tư tài trợ trực tiếp cho xã; quản lý và sử dụng đất đai; thu chi các khoản lệ phí theo quy định của Nhà nước, các khoản đóng góp của dân; kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ tiêu cực, tham nhũng liên quan đến cán bộ xã; việc thực hiện chính sách ưu đãi, chăm sóc, giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ, những người và gia đình có công với nước, chính sách bảo hiểm xã hội, cứu tế xã hội. [12 tr.16] 13
- Nhân dân trực tiếp giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc gián tiếp thông qua các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức đại diện cho mình hoặc Ban Thanh tra nhân dân bằng các phương thức sau đây: tham gia trực tiếp (nếu được mời) hoặc thông qua các tổ chức đại diện cho mình trong các cuộc họp của chính quyền xã bàn về các vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của mình; tham gia ý kiến đánh giá báo cáo tổng kết công tác sáu tháng và hàng năm của chính quyền xã; góp ý kiến vào bản kiểm điểm công tác và tự phê bình của Chủ tịch Hội đồng Nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân xã trong cuộc họp tổng kết cuối năm; bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức vụ do Hội đồng Nhân dân xã bầu; phát hiện những cơ quan tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân và có dấu hiệu tham nhũng, lãng phí, sử dụng sai mục đích thu, chi ngân sách và các khoản đóng góp của nhân dân; thực hiện chương trình, dự án và sử dụng quản lý đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng trái với những quy định của pháp luật và các hành vi vi phạm pháp luật khác, tố cáo, kiến nghị với chính quyền xã, cơ quan có thẩm quyền làm rõ, giải quyết và thông báo kết quả giải quyết. [10 tr. 29] Với ý nghĩa đó, hệ thống chính trị cơ sở, trong đó trực tiếp là chính quyền và Đảng bộ xã, phải có vai trò tích cực, chủ động trong việc tổ chức thực hiện và tạo điều kiện cho người dân được phát huy những quyền của họ trong các hoạt động trên với các hình thức: nhân dân giám sát hoạt động và tư cách đại biểu Hội đồng nhân dân, các thành viên Ủy ban nhân dân; Có quyền khiếu kiện, khiếu nại, tố cáo các hành vi xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân, vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực của đại biểu Hội đồng nhân dân và các thành viên của Ủy ban nhân; các kỳ họp của Hội đồng nhân dân xã mời đại diện các tổ chức đoàn thể tham dự và mời đại diện nhân dân dự thính; thông qua các tổ chức: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Hội Người cao tuổi; thông qua Ban thanh tra nhân dân được thành lập và hoạt động theo pháp luật; Ủy ban nhân dân xã chịu trách nhiệm tổ chức việc tiếp dân, giải quyết kịp thời các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân theo đúng quy định của pháp luật; khi phát hiện có dấu hiệu tham nhũng, tiêu cực, sử dụng sai mục đích, lãng phí trong việc thu, chi ngân sách, các khoản đóng 14
- góp, các loại quỹ và quản lý đất đai, nhân dân có quyền yêu cầu làm rõ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, người quản lý trực tiếp phải cung cấp và giải trình đầy đủ các việc nói trên mà không có bất cứ một hạn chế nào. [12 tr. 17] Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, và cá nhân đối với việc giám sát và kiểm tra của nhân dân: mời đại diện của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận Tổ quốc cùng cấp, các đối tượng liên quan trực tiếp tham gia các cuộc họp của chính quyền xã bàn bạc các vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích trực tiếp của nhân dân địa phương, xem xét, giải quyết các kiến nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo thẩm quyền và thông báo kết quả giải quyết cho tổ chức, cá nhân có kiến nghị, trình cơ quan có thẩm quyền các vụ việc vượt quá thẩm quyền; Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã có trách nhiệm gửi cho Trưởng thôn bản kiểm điểm công tác và tự phê bình tại cuộc họp tổng kết hàng năm để Trưởng thôn tổ chức nhân dân đóng góp ý kiến; hàng năm, Mặt trận Tổ quốc xã tổ chức lấy phiếu tín nhiệm của các thành viên Mặt trận đối với các chức vụ chủ chốt do Hội đồng nhân dân xã bầu ra. Nếu tỷ lệ số phiếu tín nhiệm thấp dưới 50% số người tham gia thì Mặt trận Tổ quốc xã đề nghị Hội đồng nhân dân xã xem xét, miễn nhiệm; trưởng thôn phối hợp với Trưởng thôn ban công tác Mặt trận có trách nhiệm tổ chức cuộc họp thu nhập ý kiến của nhân dân về các vấn đề do nhân dân tự quyết định, tổng hợp, báo cáo một cách chính xác, khách quan, trung thực ý kiến góp ý của nhân dân bằng các văn bản gửi chính quyền xã; nhân dân không được tụ tập đông người khiếu kiện vượt cấp, gây mất trật tự an ninh và chống đối người thi hành công vụ trong khi các kiến nghị đang được xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật. [10 tr. 30] Trong những điều dân biết, Quy chế nhấn mạnh tới chính sách, pháp luật nhà nước, các quy định thủ tục hành chính, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội dài hạn và hàng năm của xã, đặc biệt là quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, dự toán và quyết toán ngân sách xã hàng năm, các dự án, các nguồn tài trợ, các kết quả thanh tra, kiểm tra, xử lý, và dân có quyền được biết bằng văn bản niêm yết công khai, bằng truyền thanh, bằng hội nghị và chất vấn khi tiếp xúc. Đây thực sự là một bước tiến lớn, pháp lý hóa, thể chế hóa quyền làm chủ của nhân dân. Trong 15
- những điều mà dân quyết định trực tiếp, đáng lưu ý là dân bàn và quyết định về chủ trương, mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng, lập thu, chi các loại quỹ trong khuôn khổ luật, giám sát công trình xây dựng, bảo vệ sản xuất, kinh doanh, xây dựng hương ước, quy ước làng văn hóa. Đó là một số điểm nổi bật về sự chuyển biến tích cực trong nhận thức về quyền và nghĩa vụ, về các biện pháp giải quyết vấn đề dân chủ cho nông dân ở làng xã trong việc ban hành và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Cuộc vận động Quy chế dân chủ ở nông thôn và các loại hình cơ sở nói chung đã được nhiều năm và cần có những sơ kết, tổng kết bước đầu ở một số địa phương và cả nước, cần đi sâu nghiên cứu, tác động vào tâm lý nông dân, tâm lý cộng đồng làng xã để cuộc vận động có tính cách mạng này ở nông thôn đạt được kết quả cao hơn và vững bền hơn. Tóm lại, xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là ở cơ sở nông thôn, là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, đáp ứng được đòi hỏi bức xúc và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Ban hành, triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở là hợp lòng dân, là một chủ trương có tính chiến lược nhất quán của Đảng và Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Qua một thời gian triển khai xây dựng và thực hiện, Quy chế dân chủ ở cơ sở đang thực sự làm thay đổi bộ mặt xã hội nông thôn, đang là động lực thúc đẩy kinh tế xã hội nông thôn phát triển, góp phần giải phóng mọi tiềm năng, khơi dậy trí sáng tạo của nông dân, góp phần đấu tranh có hiệu quả các tệ nạn tiêu cực trong bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện Quy chế còn những hạn chế nhất định, chưa đạt yêu cầu đề ra. Vì vậy, tiếp tục triển khai thực hiện triệt để, sâu rộng Quy chế dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là ở nông thôn theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là một yêu cầu cấp bách trước mắt nhưng cũng có tính chiến lược, lâu dài, không chỉ làm trong một đợt, một thời gian ngắn mà phải chú ý thường xuyên và kiên định. 16
- Chương 2 TÁC ĐỘNG CỦA TÂM LÝ LÀNG XÃ ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ NÔNG THÔN HIỆN NAY 17
- Tâm lý làng xã vốn đã ăn sâu vào nhận thức, tình cảm của người nông dân. Sự tác động của tâm lý làng xã đến việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn hiện nay thể hiện ở hai mặt tích cực và tiêu cực. Sự tác động đó được thể hiện ở những khía cạnh sau: 2.1 Tác động của tâm lý cộng đồng làng xã đến việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn Tâm lý cộng đồng hình thành một cách phổ biến và biểu hiện một cách tự nhiên trong đời sống của làng xã. Đã là thành viên của một cộng đồng làng xã thì không chỉ có tình cảm với nhau, mà còn có nghĩa vụ giúp người khác hay được người khác giúp mình trong sản xuất, trong sinh hoạt kể cả trong đấu tranh với địch họa, thiên tai để bảo vệ làng. Sự khước từ hoặc lảnh trốn khỏi cộng đồng tất sẽ bị dư luận của làng lên án, sẽ bị cô lập và sẽ tự tách ra khỏi cộng đồng. Đó là sự trừng phạt về lương tâm. Trong cuộc sống còn khó khăn nhiều về kinh tế, còn phụ thuộc vào thiên nhiên, vào sự quản lý xã hội thì cá nhân chỉ có thể gắn bó và dựa vào cộng đồng để tự khẳng định được mình. Họ sợ dư luận, sợ cô đơn, sợ tách biệt, bị day dứt lương tâm khi không hòa đồng vào tập thể, khi không được giúp đỡ và không giúp đỡ người khác lúc khó khăn. Người nông dân ý thức rất rõ là chỉ hành động trong cộng đồng, cá nhân mới có sức mạnh, mới có thể giải quyết được các công việc lớn của gia đình và làng xã. Một biểu hiện rất đặc trưng của tâm lý cộng đồng trong quan hệ tình cảm là tình làng nghĩa xóm. Tình cảm cộng đồng đóng vai trò rất quan trọng trong sự ảnh hưởng của tâm lý cộng đồng đến nhận thức và hành vi của người nông dân. Đó là sự thể hiện tính cộng đồng của làng xã trong quan hệ tình cảm. Nó phản ánh tinh thần đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau của cộng đồng, cả cộng đồng vì mỗi người, mỗi người vì cả cộng đồng. Tình cảm này thấm nhuần nghĩa vụ đạo đức giữa các thành viên trong cộng đồng với nhau. Tình cảm cộng đồng hình thành trong hoạt động chung của cộng đồng làng xã – hoạt động lao động và sinh hoạt hàng ngày. Khu vực canh tác chung, nguồn nước chung, nơi hội họp chung, nơi thờ phụng chung là cơ sở để nảy sinh những hiểu biết, đồng cảm, gắn bó, chia sẻ và giúp đỡ nhau. Trong tình cảm cộng đồng 18
- “cái tôi” và “cái chúng ta” được dung hợp với nhau. Tình cảm cộng đó càng được tôi luyện, hun đúc và biến thành sức mạnh đoàn kết trong sự nghiệp đấu tranh chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, khi chúng ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tình cảm cộng đồng cũng có mặt tiêu cực, nhiều khi trở thành trở lực kìm hãm sự phát triển kinh tế và xã hội. Bỡi lẽ, nó níu kéo những cá nhân muốn vươn lên, tách khỏi cộng đồng để làm giàu chính đáng, để bộc lộ năng lực riêng của mình. Cuộc điều tra tâm lý nhân dân của Viện tâm lí học tiến hành tại Hòa Bình, Thái Bình, Thanh Hóa năm 1995 cho thấy, gần 30% nông dân được hỏi cho là sự phân hóa giàu nghèo, hoạt động kinh doanh ở nông thôn hiện nay là không thể chấp nhận được. Trong trong cuộc điều tra tâm lí nông dân tại 7 tỉnh đại diên cho cả nước do Viện tâm lý học tiến hành năm 1999 – 2000, có 39,7% nông dân cho rằng việc phát triển trang trại ở nông thôn dẫn đến phân hóa giàu nghèo, dẫn đến quan hệ ông chủ và người làm thuê, dẫn tới bóc lột và mất danh dự của con người… Ở đây có sự thống nhất của hai mặt đối lập. Trong cộng đồng làng xã, tính tư hữu, tiểu nông và cá nhân của người nông dân thể hiện rất rõ nhưng trong các hoạt động lao động sản xuất và công việc chung của làng xã, trong giao tiếp hằng ngày, tính cộng đồng lại thể hiện rất rõ nét. Ở đây, “cái tôi” và “cái chúng tôi” dường như rất khó phân biệt rạch ròi, rất dễ hoán vị và đổi chỗ cho nhau. Nhân cách của người nông dân dường như được tạo nên từ hai thành tố: “cái tôi” và “cái hoạt động”. Hai yếu tố này không hề mâu thuẫn với nhau, mà trái lại, kết hợp rất linh hoạt và hài hòa trong con người và cộng đồng của người nông dân . Với người nông dân Việt Nam, tâm lý cộng đồng vừa là sản phẩm, vừa là phương tiện hành động, vừa là yếu tố không thể thiếu được trong đời sống của họ. Hoạt động của cá nhân dù trong lao động sản xuất hay trong sinh hoạt đều mang tính cộng đồng. Được hình thành, phát triển và tồn tại qua nhiều thế hệ, tâm lý cộng đồng in đậm và thể hiện thường xuyên trong nhận thức và hành vi của mỗi người nông dân và có sức sống mãnh liệt trong đời sống nông thôn. 19
- Từ khi chúng ta phát triển nền nông nghiệp nông thôn theo hướng kinh tế thị trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn (tức là thực hiện sự thay đổi cơ bản trong hoạt động lao động sản xuất và tổ chức cuộc sống của người nông dân) thì tâm lý cộng đồng càng được mở rộng và phát triển, ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người nông dân hiện nay. Sự tác động của tâm lý cộng đồng làng xã đến việc thực hiện Quy chế dân chủ ở nông thôn hiện nay thể hiện ở hai mặt tích cực và tiêu cực. * Tác động tích cực Tâm lý cộng đồng có tác động tích cực vì nó tạo ra bầu không khí đoàn kết, nhất trí trong bàn bạc, quyết định và giám sát các chủ trương, kế hoạch liên quan tới sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Tâm lý cộng đồng sẽ là cơ sở quan trọng phối hợp hành động và thống nhất cao về nhận thức để đi đến quyết định phù hợp với nguyện vọng của đa số nhân dân trong quá trình nhân dân tham gia giải quyết những vấn đề lớn của địa phương. Khi có được những quyết định hợp lòng dân thì các quyết định đó sẽ được người dân thực hiện tự nguyện, nhanh chóng và có hiệu quả cao, trong làng xã sẽ có bầu không khí thoải mái, ấm cúng và phấn khởi. Tinh thần đoàn kết, nhất trí của tâm lý cộng đồng là yếu tố quan trọng trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực khác ở nông thôn hiện nay. Đảng và Nhà nước ta đã xác định, tham nhũng hiện nay đã trở thành “quốc nạn” không chỉ ở các đô thị mà ở cả nông thôn. Trong cuộc điều tra cơ bản toàn quốc về tâm lý nông dân tại 7 tỉnh đại diện cho các vùng kinh tế trong cả nước của Viện Tâm lý năm 1999 – 2000, có 60, 5% số nông dân được hỏi rằng tham nhũng là vấn đề tiêu cực bức xúc nhất, đứng đầu trong số các hiện tượng tiêu cực ở nông thôn hiện nay. Tâm lý cộng đồng cũng có vai trò tích cực trong việc đấu tranh chống các tệ nạn xã hội ở nông thôn. Trong những năm gần đây, tệ nạn xã hội có xu hướng tăng không chỉ ở đô thị mà ở cả nông thôn. Ở nông thôn tệ nạn cờ bạc, số đề, nghiện rượu phát triển, các tệ nạn ma túy mại dâm đã xuất hiện. Cuộc điều tra tâm lý nông dân tại 7 tỉnh (Yên Bái, Nam Định, Nghệ An, Bình Định, Lâm Đồng, Tây 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn tốt nghiệp: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị nhân sự tại công ty xe đạp - xe máy Đống Đa - Hà Nội
79 p | 2052 | 1226
-
Luận văn tốt nghiệp: Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị bán hàng ở Công ty thực phẩm Hà Nội
102 p | 1892 | 957
-
Luận văn tốt nghiệp: "Thực trạng công tác hạch toán kế toán tổng hợp tại Công ty dệt len Mùa Đông"
165 p | 1594 | 755
-
Luận văn tốt nghiệp ” TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN ”
68 p | 1461 | 416
-
Luận văn tốt nghiệp: Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ tại Kho bạc Nhà nước Hà Nội – Thực trạng và Giải pháp
77 p | 1138 | 411
-
Luận văn tốt nghiệp: TÁC ĐỘNG CỦA THỰC TIỄN QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN LỰC ĐẾN SỰ GẮN KẾT CỦA NHÂN VIÊN VỚI TỔ CHỨC TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
138 p | 744 | 317
-
Luận văn tốt nghiệp "Các biện pháp hoàn thiện công tác tổ chức lao động tại Bưu điện huyện Tuần Giáo"
94 p | 878 | 237
-
Luận văn tốt nghiệp: Tác động của thực tiễn quản trị nguồn nhân lực đến sự hài lòng trong công việc của tiếp viên hãng hàng không Quốc gia Việt Nam (Vietnam Airlines)
103 p | 646 | 235
-
Luận văn Tốt nghiệp: Nâng cao công tác tạo động lực cho người lao động tại Công ty Cổ phần đầu tư Xây lắp và Thương mại Đức Nguyên
50 p | 509 | 181
-
Luận văn tốt nghiệp: TÌNH HÌNH ỨNG DỤNG ERP VÀ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA ERP ĐẾN TỔ CHỨC HỆ THỐNG THÔNG TIN KẾ TOÁN TẠI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
124 p | 819 | 164
-
Luận văn tốt nghiệp:Tác động của các nhân tố tính cách thương hiệu đến lòng trung thành của khách hàng
90 p | 543 | 151
-
Luận văn tốt nghiệp: Nghiên cứu vai trò của Hợp tác xã đối với các xã viên - Tiếp cận từ phía xã viên hợp tác xã dịch vụ tổng hợp Đa Tốn, huyện Gia Lâm, TP. Hà Nội
125 p | 337 | 66
-
Khóa luận tốt nghiệp: Tác động của du lịch đến nghề dệt, may của người Thái ở bản Văn, Mai Châu, Hòa Bình - Đỗ Bình Thiêm
11 p | 177 | 21
-
Luận văn tốt nghiệp đại học: Nghiên cứu tác động của quản trị tri thức đến hiệu quả tài chính của doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Cần Thơ và tỉnh Vĩnh Long
132 p | 141 | 21
-
Luận văn tốt nghiệp: Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương VN trong những năm gần đây
129 p | 139 | 19
-
Luận văn tốt nghiệp Quản trị kinh doanh: Giải pháp hoàn thiện công tác tuyển dụng và trả lương tại Công ty trách nhiệm hữu hạn phân phối Xe máy Hồng Đức - chi nhánh Cần Thơ
87 p | 28 | 16
-
Luận văn tốt nghiệp Kế toán: Hoàn thiện công tác kiểm soát Chi thường xuyên Ngân sách nhà nước tại Phòng Tài chính - Kế hoạch của Ủy ban nhân dân huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang giai đoạn 2019-2021
77 p | 28 | 14
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn