intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn tốt nghiệp: Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

94
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Lịch sử phát triển kinh tế - xã hội loài người từ trước đến nay đã trải qua rất nhiều hình thái kinh tế xã hội, đó là: Hình thái công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa - giai đoạn đầu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Nhưng đến tận bây giờ vẫn chưa có một cơ chế quản lý, điều hành kinh tế một cách phù hợp và hợp lý nhất, từ việc phát triển kinh tế chỉ dựa vào cơ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn tốt nghiệp: Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
  2. A - đặt vấn đề Lịch sử phát triển kinh tế - xã hội loài người từ trước đến nay đã trải qua rất nhiều hình thái kinh tế xã hội, đó là: Hình thái công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa - giai đoạn đầu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Nhưng đến tận bây giờ vẫn chưa có một cơ chế quản lý, điều hành kinh tế một cách phù hợp và hợp lý nhất, từ việc phát triển kinh tế chỉ dựa vào cơ chế thị trường để giải quyết vấn đề cơ bản của nền kinh tế cho đến việc chỉ dựa vào tổ chức quản lý điều hành của Nhà nước để phát triển kinh tế. Hiện nay, tất cả các nước trên thế giới dù là những nước trước đây nền kinh tế chỉ dựa vào sự hoạt động cuả cơ chế thị trường hay những nước trước đây chỉ dựa vào vai trò quản lý nền kinh tế của Nhà nước, đều đang nghiên cứu để xây dựng một mô hình cơ chế tổ chức quản lý điều hành nền kinh tế thích hợp nhất. Tuy nhiên không có một hình mẫu chung nào mà mỗi nước với hoàn cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội riêng thì phải có một mô hình riêng sao cho phù hợp với hoàn cảnh của nước mình. Nhưng xu thế chung trên toàn cầu phải là một cơ chế dựa trên sự kết hợp hài hòa tương hỗ giữa "Bàn tay vô hình" và "Bàn tay hữu hình" Hay nói cách khác là sự kết hợp giữa sự quản lý của Nhà nước và cơ chế thị trường để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ở mức cao nhất, đồng thời hạn chế và khắc phục được những tệ nạn và hậu quả xã hội một cách hiệu quả nhất. Mặc dù vậy, việc xác định mức độ, liều lượng và cách thức can thiệp của Nhà nước vào kinh tế vẫn đang là một bài toán khó đối với rất nhiều nước. Với nước ta vấn đề còn phức tạp hơn, vì do hoàn cảnh riêng nên chúng ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vậy ngoài vai trò điều tiết nền kinh tế thị trường để phát huy những ưu thế và khắc phục mặt traí của nó, Nhà nước còn phải định hướng nó phát triển theo mục tiêu tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thực tế đến tận giai đoạn hiện nay vẫn chưa có một cơ chế quản lý nào như vậy. Tất nhiên là nếu có một cơ chế nào như vậy thì chỉ thuận lợi cho việc định hướng và học tập những bài học kinh nghiệm chứ không thể bệ nguyên cái cơ chế đó vào hoàn cảnh nước ta được. Do đó đòi hỏi các nhà kinh tế cần phát huy hết năng lực, tìm tòi, sáng tạo để đề ra
  3. một phương thức quản lý tối ưu nhất của Nhà nước đối với nền kinh tế, để vừa phát triển kinh tế vừa đảm bảo cho xã hội ngày càng công bằng và văn minh hơn. Chính vì để nâng cao sự hiểu biết của mình về vấn đề nêu trên nên em đã chọn đề tài "Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay".
  4. B - Giải quyết vấn đề I - Lý luận về vai trò kinh tế của nhà nước: 1 - Vai trò kinh tế của Nhà nước nói chung trong lịch sử. Thực tế cho thấy, trong hình thái kinh tế - xã hội đầu tiên, công xã nguyên thuỷ, chưa có Nhà nước. Trong thời kỳ này chưa tồn tại giai cấp và do vậy chưa thể tồn tại nhà nước. Xã hội sống thành bầy đàn từ thị tộc đến bộ lạc rồi đến bộ tộc. Của cải trong xã hội sản xuất ra là của cải chung và mọi người đều được hưởng. Nhưng khi có sự phát triển của lực lượng sản xuất, sản phẩm được tạo ra nhiều hơn và do đó trong xã hội có nhiều của cải dư thừa. Những người đứng đầu các thị tộc, bộ lạc, bộ tộc đã chiếm những của cải chung của xã hội làm của riêng. Trong xã hội có sự tư hữu về tư liệu sản xuất và có sự phân hóa thành kẻ giầu, người nghèo. Mâu thuẫn và xung đột giai cấp trong xã hội bắt đầu xuất hiện. Để bảo vệ quyền lợi của mình, các thế lực nắm quyền thống trị về kinh tế lập ra một bộ máy sử dụng bạo lực để chấn áp, tiêu diệt các thế lực khác. Cùng với thời gian, bộ máy ấy được hoàn thiện và trở thành nhà nước. Như vậy Nhà nước ra đời từ nguyên nhân kinh tế, nó là sản phẩm của mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa trong xã hội có đối kháng giai cấp. Trong bất kỳ giai đoạn nào, Nhà nước đều có vai trò kinh tế của mình nhưng mức độ và hình thức biểu hiện ở mỗi giai đoạn có sự khác nhau. Trong thời đại chiếm hữu nô lệ, Nhà nước đã dùng quyền lực của mình can thiệp vào việc phân phối của cải sản xuất ra. Thời kỳ này, của cải được làm ra bởi những người nô lệ dưới sự điều khiển, chỉ huy của giai cấp chủ nô nhưng lượng của cải ấy không được "phân phối " mà bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt bằng bạo lực. Các thủ đoạn bạo lực phi kinh tế ở đây được sử dụng làm công cụ để chiếm đoạt, cưỡng bức kinh tế. Sang thời đại phong kiến, Nhà nước phong kiến không chỉ can thiệp vào việc phân phối của cải sản xuất ra mà còn đứng ra tập hợp nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp, khuyến khích, quan lại di dân đi mở mang các vùng đất mới, đề ra các chính sách ruộng đất thích hợp với từng thời kỳ. Nhìn chung các hoạt động diễn ra một cách tự phát.
  5. Vào khoảng thế kỷ XV, CNTB được hình thành ở giai đoạn hình thành và phát triển này giai cấp tư sản dưới sự hỗ trợ của công cụ bạo lực Nhà nước tư bản non trẻ thực hiện phương thức tích luỹ nguyên thuỷ. Sau đó nhờ việc áp dụng kỹ thuật và công nghệ mới, nền sản xuất ở các nước tư bản phát triển rất nhanh đòi hỏi tất yếu nảy sinh cơ chế thị trường. Từ sau năm 1917, với sự ra đời của Liên Bang Cộng Hòa XHCN Xô Viết và sau năm 1945 là sự ra đời của hệ thống XHCN thế giới, trong nền kinh tế thế giới còn có nền kinh tế chỉ huy vận động theo cơ chế kế hoạch hóa tập chung. Trong cơ chế này, Nhà nước là người quản lý trực tiếp mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế bằng kế hoạch và thông qua một loạt các chỉ tiêu pháp lệnh và chỉ tiêu gián tiếp. Kết quả nền kinh tế các nước này rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng và phải chuyển sang cơ chế thị trường, phải đổi mới cách thức quản lý của Nhà nước. 2 - Tính tất yếu khách quan của quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế: a - Quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta: * Cơ chế cũ và những khuyết tật của nó: Cơ chế cũ là cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp với những đặc trưng: Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, điều đó thể hiện ở sự chi tiết hóa các nhiệm vụ do trung ương giao bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ một trung tâm. Các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở nhưng không chịu trách nhiệm gì đối với quyết định của mình. Coi thường quan hệ hàng hóa - tiền tệ và hiệu quả kinh tế, quản lý nền kinh tế và kế hoạch hóa bằng chế độ cấp phát, giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu do đó hạch toán chỉ là hình thức. Tất cả những điều trên dẫn đến bộ máy quản lý cồng kềnh, có nhiều cấp trung gianvà kém năng động dần đến đội ngũ quản lý năng lực kém, phong cách thì quan liêu cửa quyền. *Quá trình chuyển từ cơ chế cũ sang cơ chế mới.
  6. Sau ngày giải phóng miền Nam nền kinh tế nước ta cũng tồn tại một lúc cả 3 loại hình kinh tế: Kinh tế tự túc, tự cấp, kinh tế kế hoạch hóa tập trung và kinh tế hàng hóa. Đó là thực tế khách quan tồn tại sau năm 1975 nhưng ngày nay các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều. Việc áp dụng cơ chế quản lý kinh tế cũ vào điều kiện nền kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực như sự tăng trưởng kinh tế gặp nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nề thu nhập nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như không có. Đến cuối những năm 1980 giá cả leo thang, khủng hoảng kinh tế đi liền với lạm phát cao làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút, thậm chí một số địa phương nạn đói đang rình rập. Nguyên nhân sâu xa về sự suy thoái nền kinh tế ở nước ta là do ta đã dập khuôn một mô hình kinh tế chưa thích hợp và kém hiệu quả. Do vậy tại Đại hội VI của Đảng đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN. Đến Đại hội VII của Đảng khẳng định: "Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước". b - Cơ chế thị trường và những khuyết tật của nó: Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều chỉnh nền kinh tế hàng hóa đối với sự tác động khách quan của các quy luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó quyết định những vấn đề cơ bản của nền kinh tế. Cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ, môi trường, động lực và quy luật chi phối sự vận động của thị trường. Nói đến cơ chế thị trường trước hết là phải nói đến các nhân tố cơ bản cấu thành thị trường là hàng và tiền, người bán và người mua hàng hóa. Từ đó hình thành các quan hệ hàng - tiền, mua - bán, cung cầu và giá cả hàng hóa. Nói cơ chế thị trường là nói môi trường cạnh tranh. ở đây diễn ra sự ganh đua, cọ sát giữa các thành viên tham gia thị trường để giành phần lợi cho mình. Trong cơ chế thị trường động lực hoạt động của các thành viên là lợi nhuận, lợi nhuận có tác dụng lôi kéo các doanh nghiệp vào lĩnh vực mà xã hội cần và rút khỏi lĩnh vực sản xuất khi xã hội không cần. Cơ chế thị trường dùng lỗ, lãi để quyết định các vấn đề kinh tế cơ bản.
  7. Đặc trưng của cơ chế thị trường là tự vận động theo những quy luật vốn có của nó: Như quy luật giá trị; Quy luật cung - cầu; Quy luật lưu thông tiền tệ. Các quy luật này có vị trí, vai trò độc lập, song lại có mối liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau và tạo ra những nguyên tắc vận động của thị trường. Việc áp dụng cơ chế thị trường ở các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam đã cho thấy những hiệu quả tích cực của nó trong việc phát triển kinh tế. Qua đó có thể khái quát một số ưu điểm của cơ chế thị trường như sau: Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động, huy động được các nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế. Cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm hao phí lao động cá biệt đến mức thấp nhất có thể được bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, nhờ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng xuất lao động, nâng cao chất lượng và số lượng hàng hóa. Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội, nhờ đó có thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản xuất về hàng ngàn, hàng vạn loại sản phẩm khác nhau. Những nhiệm vụ này nếu Nhà nước làm sẽ thực hiện một khối lượng công việc khổng lồ, có khi không thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao trong việc ra các quyết định cơ chế thị trường mềm dẻo hơn Nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn khi những điều kiện kinh tế thay đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất với nhu cầu xã hội Tuy nhiên, cái gì cũng có tính hai mặt của nó, ngoài những mặt tốt của cơ chế thị trường đối với việc phát triển kinh tế thì chúng ta cũng phải gánh chịu những hậu quả do khuyết tật của nó mang lại như: Mục đích của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, do đó họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội phải gánh chịu, do đó hiệu quả kinh tế xã hội không được đảm bảo.
  8. Có những mục tiêu xã hội mà dù cơ chế thị trường có những hoạt động tốt cũng không thể đạt được. Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự phân hóa giàu nghèo, tác động xấu đến đạo đức và tình người. Một nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ. Người ta nhận thấy rằng một nền kinh tế hiện đại đứng trước một vấn đề nan giải của kinh tế vĩ mô không một nước nào trong thời gian dài lại có được lạm pháp, thất nghiệp thấp và công việc ăn làm đầy đủ. Vì vậy để hạn chế được những khuyết tật thì ngày nay trong thực tế không tồn tại cơ chế thị trường thuần tuý, mà thường có sự can thiệp của Nhà nước. c - Vai trò kinh tế của nhà nước: * Nhà nước phải xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nước ta theo các mục tiêu mong muốn. Trong nền kinh tế của chúng ta hiện nay các doanh nghiệp được quyền tự do lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh, Nhà nước không can thiệp vào quyết định của họ về sản xuất cái gì ? bằng cách nào ? tiêu thụ ở đâu trong khi lựa chọn các phương án sản xuất kinh doanh doanh nghiệp lấy lợi nhuận của mình làm thước đo hiệu quả, đồng thời là mục tiêu định hướng cho hành vi của họ. Khác với doanh nghiệp, Nhà nước không theo đuổi mục tiêu của các doanh nghiệp là lợi nhuận mà theo đuổi mục tiêu chung của các dân tộc là dân giàu nước mạnh, nền kinh tế tăng trưởng một cách ổn định, vững chắc, đảm bảo hiệu quả và công bằng xã hội. Bằng việc định hướng sự phát triển của nền kinh tế, Nhà nước quản lý và can thiệp vào các doanh nghiệp với mục tiêu làm cho dân giàu, nước mạnh. Thực chất của các định hướng sự phát triển của nền kinh tế là thống nhất các lợi ích khác nhau, qui tụ các lợi ích khác nhau về lợi ích chung của các dân tộc. Để hoàn thành chức năng định hướng nền kinh tế, Nhà nước cần có: + Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội dài hạn. + Kế hoạch hoá định hướng.
  9. * Nhà nước phải tạo môi trường thuận lợi cho nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần phát triển. Mỗi cơ chế kinh tế chỉ có thể hoạt động khi có môi trường với những điều kiện kinh tế - xã hội cần và đủ. Nhà nước phải chủ động sử dụng kiến trúc thượng tầng - quyền lực Nhà nước để tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp yên tâm đầu tư, mở rộng phát triển sản xuất. Để làm được điều đó Nhà nước phải: + Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tự do hoá giá cả, thương mại hóa nền kinh tế. + Quy định và bảo đảm các quyền của người chủ sở hữu về tư liệu sản xuất. + Đa dạng hóa chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất. + Xây dựng hệ thống pháp luật của nền kinh tế thị trường. + ổn định về chính trị và xã hội. * Nhà nước phải thực hiện phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng - hiệu quả để tạo ra động lực sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường, thị trường càng mở rộng thì sự hoạt động của quy luật kinh tế vốn có của nó càng dẫn đến sự phân hóa thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, chia lẻ dân cư thành các tầng lớp khác nhau trong quan hệ của họ đối với quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị. Tình trạng bất bình đẳng sẽ dẫn đến mâu thuẫn gay gắt về lợi ích giữa các giai cấp và có thể đe doạ sự ổn định về mặt chính trị. Nhà nước phải hoàn thành chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập của các tầng lớp dân cư sao cho thoả mãn yêu cầu công bằng và hiệu quả. * Nhà nước cần can thiệp vào quá trình kinh tế khi cần thiết. Định hướng, tạo môi trượng, phân phối thu nhập là những công việc cần thiết thể hiện vai trò của Nhà nước. Quá trình thực hiện các chiến lược đó chịu ảnh hưởng của cơ chế cung - cầu giá cả trong thị trường nội địa, đồng thời còn chịu ảnh hưởng của quan hệ kinh tế - quốc tế, chính vì vậy trong quá trình thực hiện mục tiêu định hướng của các chương trình dài hạn thì những "cú sốc" làm chệch mục tiêu là điều không tránh khỏi. Trong trường hợp đó Nhà nước cần phải sử dụng những công cụ như lãi suất, thuế, khối
  10. lượng tiền tệ và chi tiêu ngân sách để làm giảm những chấn động do cú sốc gây ra, nhằm đưa nền kinh tế đi theo định hướng. * Nhà nước có vai trò quản lý tài sản quốc gia, phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý Nhà nước chính là người thay mặt nhân dân quản lý các đặc quyền đặc lợi về kinh tế. Trong cương lĩnh quốc gia: về đối nội, Nhà nước là người chủ sở hữu nguồn lực này để phân bổ sử dụng giữa các thành phần kinh tế sao cho hợp lý. Về đối ngoại, Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ các nguồn lực, ngăn chặn mọi âm mưu từ bên ngoài đến các vùng đặc quyền, đặc lợi trong lòng đất, vùng trời và vùng biển. II - Đặc trưng kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam. 1 - Sự phát triển kinh tế phải gắn liền với sự giải quyết những vấn đề xã hội: Nước ta đi lên XHCN chỉ nhằm mục tiêu lớn nhất là dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Đồng thời để phát triển kinh tế chúng ta chủ trương phát triển kinh tế thị trường. Tuy nhiên kinh tế thị trường lại đưa đến sự phân hoá giàu nghèo và nhiều vấn đề xã hội nan giải cần được giải quyết. Vì vậy để vừa phát triển kinh tế vừa giải quyết được những vấn đề xã hội, chúng ta phải kết hợp chặt chẽ kinh tế với xã hội, xã hội với kinh tế. Ngoài mục tiêu ổn định chính trị, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật phát triển sản xuất, Đảng và Nhà nước còn đề ra biện pháp để giải quyết những vấn đề xã hội, từ công ăn việc làm đến đời sống văn hoá, xây dựng các quan hệ xã hội tốt đẹp, lối sống lành mạnh, công bằng xã hội. Muốn vậy Nhà nước phải: * Phải kế hoạch hoá dân số, giải quyết việc làm cho người lao động. * Thực hiện công bằng xã hội, lối sống văn hoá, bảo đảm an toàn xã hội, khôi phục trật tự, kỷ cương trong mọi lĩnh vực của đời sống. * Chăm lo nhu cầu giáo dục, văn hoá cho nhân dân. * Thực hiện chính sách bảo trợ xã hội. * Giảm thiểu và khắc phục cũng như đẩy lùi tệ nạn xã hội. 2 - Phát triển kinh tế Việt Nam phải là phát triển bền vững:
  11. Nền kinh tế thị trường do cơ chế thị trường điều tiết khó tránh khỏi những cuộc khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ. Mà nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta phải phát triển bền vững. Muốn vậy thì phải hạn chế được những thăng trầm có tính chu kỳ bằng cách Nhà nước phải đề ra những chính sách ổn định kinh tế để chống lại những dao động không mong muốn của nền kinh tế. Đó là một mặt Nhà nước kiểm soát và hỗ trợ sự phát triển của bản thân nền kinh tế, mặt khác điều chỉnh cơ cấu và thúc đẩy tiến bộ xã hội, nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng ở mức ổn định. 3 - Tốc độ phát triển kinh tế cao: Tốc độ phát triển kinh tế không những phải ổn định mà còn phải cao thì mới có thể đảm bảo đưa nền kinh tế nước ta theo kịp các nước trên thế giới.Để cho tốc độ phát triển kinh tế ở mức cao cần ổn định và phát triển sản xuất, nâng dần nhịp dộ tăng trưởng và hiệu quả kinh tế - xã hội. Muốn đạt được điều này ngoài việc ưu tiên phát triển những ngành trọng điểm, những dịa bàn và những cơ sở sớm đưa lại hiệu quả cao, đẩy mạnh xuất khẩu, hợp tác với nước ngoài ... Nhà nước còn phải có biện pháp diều chỉnh việc sử dụng các nguồn lực khan hiếm - là các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất bao gồm: đất đai, tài nguyên thiên nhiên, lao động, tư bản, công nghệ - sao cho tiết kiệm và có hiệu quả. Hơn nữa, về mặt lâu dài để cho tốc phát triển trong tương lai luôn ở mức cao còn cần phải bồi bổ, phát triển các nguồn lực khan hiếm nhằm làm tăng giới hạn khả năng sản xuất. 4 - Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nếu trước đây kinh tế tư nhân, cá thể không được thừa nhận thì nay khuyến khích, phát triển mạnh mẽ. Đây là một thay đổi cực kỳ quan trọng. Trong công nghiệp theo Nghị quyết X của Bộ chính trị, đã thực hiện chính sách khoán và hợp đồng giao nộp sản phẩm. Nông dân được quyền sử dụng ruộng đất lâu dài và tự do bán sản phẩm trên thị trường. Nhà nước cũng đã xoá bỏ các khoản bao cấp trực tiếp và tạo quyền tự chủ về tài chính, về sản xuất kinh doanh, cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp chuyển sang hạch toán đầy đủ theo hướng lời ăn, lỗ chịu. Nhà nước cũng ban hành nghị quyết về thành lập và giải thể doanh nghiệp Nhà nước, đưa ra chủ trương làm thí điểm cổ phần hoá một
  12. số doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả của kinh tế quốc doanh - kinh tế Nhà nước, làm kinh tế quốc doanh thực sự giữ vai trò chủ đạo trong một số ngành và lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. 5 - Nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta cần tới vai trò quản lý của Nhà Nước. Nền kinh tế hàng hoá và cơ chế thị trường không làm giảm nhẹ sự quản lý của Nhà nước, vô luật là Nhà nước TBCN hay Nhà nước XHCN. Hơn nữa chúng ta xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo định hướng XHCN càng đòi hỏi sự quản lý của Nhà nước. Vấn đề là phương thức quản lý của Nhà nước như thế nào để vận dụng đầy đủ các quy luật và yêu cầu khách quan của bản thân nền kinh tế thị trường, nhưng lại phải đảm bảo định hướng XHCN, không để cho nền kinh tế vận động tự phát đi theo con đường TBCN. Kinh tế thị trường là tự do làm giàu trong khuôn khổ luật pháp, bình đẳng trong cạnh tranh (không độc quyền, không đẳng cấp, không ngăn cách), năng động trên thị trường để tiêu thụ nhanh (số lượng, mặt hàng, chất lượng, giá cả ...) để tìm lợi thế tối đa. Nhưng thị trường tự nó cũng mang nhiều nhân tố đẻ ra bệnh tật (đầu cơ, buôn lậu, tham nhũng, trốn thuế ...). Nhưng không có nền kinh tế thị trường và không có nền kinh tế thị trường và không có chế độ nào tự do tuyệt đối, mà đều có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Bộ máy Nhà nước và một cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động tốt của Nhà nước, tức là nền hành chính quốc gia tốt là phải thích ứng với cơ chế thị trường, kích thích, ủng hộ, hướng dẫn mặt tích cực của nó và ngăn chặn, bài trừ, trừng trị mặt tiêu cực của nó. 6 - kinh tế nước ta phải hòa nhập với kinh tế thế giới: Mở cửa nền kinh tế là một trong những thành tựu quan trọng trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Thời gian qua chúng ta đã có những thay đổi có ý nghĩa trong xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư nước ngoài. Về xuất nhập khẩu: * Tự do thương mại, giảm bớt một số thủ tục xuát nhập khẩu không cần thiết.
  13. * Mở rộng thị trường xuất khẩu ra nhiều nước trên thế giới. * áp dụng việc tự do trao đổi ngoại tệ tại các thị trường ngoại hối cũng góp phần đẩy mạnh xuất nhập khẩu. Về hợp tác đầu tư nước ngoài: Việc công bố luật đầu tư nước ngoài và thành lập một khu chế xuất với nhiều điều khoản ưu đãi, thể hiện tư duy phát huy lợi thế so sánh của nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới, với nhiều công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý quý báu của nước ngoài góp phần giảm bớt sự căng thẳng về vốn trong nền kinh tế. III - Mục tiêu và các chức năng quản lý vĩ mô của Nhà Nước: 1- Mục tiêu: * Bảo đảm kinh tế phát triển ổn định, không có những biến động xấu trong nền kinh tế. Mặc dù trong quá trình phát triển, nền kinh tế nước ta cũng vẫn không tránh khỏi có một số khó khăn nhất định. Chính vì vậy việc giữ ổn định chính trị và bảo đảm cho nền kinh tế không bị đảo lộn là kết quả có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó chứng minh rằng Đảng ta là người khởi xướng công cuộc đổi mới theo đường lối phù hợp với điều kiện thực tế nước ta, hoàn toàn có khả năng lãnh đạo nhân dân ta, tường bước thực hiện dân giàu, nước mạnh theo con đường XHCN. Để làm tốt mục tiêu này, Nhà nước phải tạo ra môi trường tốt cho thị trường phát huy các mặt tích cực của nó.Xác định rõ quyền sở hữu tài sản và đảm bảo khuyến khích mọi nguồn lực tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm mới, khuyến khích phát minh sáng kiến vào sử dụng nguồn chất xám, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh chống độc quyền. Thúc đẩy thị trường phát triển toàn diện các yếu tố (lao động, vốn, kỹ thuật, đất đai) trong tất cả các lĩnh vực & trong mọi không gian. * Phân bố nguồn lực có hiệu quả: Muốn sử dụng có hiệu quả nguồn lực, Nhà nước phải dựa vào công cụ kế hoạch để hoạch định sự phát triển toàn diện nền kinh tế. Thông qua công cụ này Nhà nước có thể nắm được những yếu tố ảnh hưởng đến mức cung và mức cầu, trạng thái nền kinh tế các vùng trong cả nước để từ đó phân bổ nguồn lực Nhà nước: về vốn, lao động ... cho phù
  14. hợp với từng vùng và sử dụng có hiệu quả nhất để từ đó nâng cao sản lượng thực tế tương ứng với mức sản lượng tiềm năng. Tạo điều kiện tốt cho nền kinh tế tăng trưởng và ổn định. Nhờ công cụ này mà chính phủ khẳng định được ý đồ của mình trong nhiều lĩnh vực: xây dựng công trình công cộng; thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật và giảm bớt rủi ro đối với các thành phần kinh tế; bảo đảm các hoạt động kinh tế chung để từ đó thực hiện các mục tiêu ngày càng tốt. *Mục tiêu phân bố công bằng sản phẩm làm ra là giải quyết tốt vấn đề xã hội: Để đảm bảo phân phối công bằng và giải quyết tốt vấn đề xã hội, Nhà nước cần sử dụng các công cụ luật pháp điều tiết thu nhập, bảo hộ và giáo dục nâng cao trình độ văn hoá dân tộc và cộng đồng trong quá trình phát triển kinh tế. các biện pháp can thiệp của Nhà nước có thể can thiệp trực tiếp hay gián tiếp bằng các công cụ khác nhau. Sau phải thực hiện biện pháp phân phối theo lao động trong phân phối sản phẩm làm ra. Đối với vấn đề xã hội cần có chính sách thiết thực phù hợp với từng điều kiện: trợ cấp, bảo hiểm, phát triển công nghệ ... 2- Chức năng: Nhà nước phải tạo ra được môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp bao gồm: * Giữ ổn định chính trị: Chúng ta chuyển sang kinh tế thị trường trên cơ sở ổn định chính trị, lấy ổn định chính trị làm tiền đề và là điều kiện cho cải cách kinh tế. Mặt khác, cũng nhận thức rõ phải đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực hành chính, trên cơ sở đổi mới quản lý của Nhà Nước, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của nó cho phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường, mà tiếp tục ổn định chính trị đưa cải cách tiến lên những bước phát mới. Ngay từ đầu, chúng ta đã khảng định định hướng XHCN là không thay đổi. Tuy nhiên, đã có những nhận thức mới về CNXH, khẳng định CNXH có thể sử dụng các công cụ phổ biến mà CNTB đã từng sử dụng như thị trường, các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, quy luật giá trị cho mục tiêu của mình. Xuất phát từ thực tế về thực chất nền kinh tế nước ta đã từ lâu là nền kinh tế nhiều thành phần, nên đã không chủ trương tư nhân hoá tràn
  15. lan, mà trái lại, chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và xây dựng kinh tế quốc doanh thành thực lực làm chỗ dựa của Nhà nước ở các khâu và lĩnh vực then chốt để ổn định và định hướng thị trường. Mặc dù còn nhiều khó khăn và hạn chế nhưng nhìn chung tính ổn định và hoạt đọng theo đường lối đôỉ mới, tiến đến một Nhà nước pháp quyền là nhân tố quan trọng bảo đảm cho thành công của cải cách. Đảng ta cũng khẳng định vai trò Nhà nước trong việc đảm bảo các chính sách xã hội, xử lý hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và cân bằng, ổn định; giữa phát triển kinh tế với thực hiện các chính sách xã hội và công bằng xã hội. * Ban hành hệ thống luật pháp phục vụ kinh doanh Nhà nước đặt ra các khung pháp luật, nói cách khác là quy tắc cho các trò chơi kinh tế mà các doanh nghiệp, người tiêu dùng và tất nhiên cả chính phủ phải tuân theo. Các khung pháp luật đó phải bảo đảm được tính dân chủ hay sự bình đẳng các cơ may để mọi công dân có thể tham gia các hoạt động thị trường mà không bị ai ngăn cản. Nhà nước như một người lính gác sẵn sàng ngăn chặn các nguy cơ làm tổn hại đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Chức năng này bao gồm vô số luật lệ xác định môi trường kinh doanh, các quy tắc về hợp đồng và hoạt động kinh doanh. ở Việt Nam chức năng này chưa được thực hiện đầy đủ vì hệ thống hoạt động kinh tế của ta còn đơn sơ, chưa tạo ra được môi trường kinh doanh lành mạnh. Thời gian tới chúng cần nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm của các nước để xây dựng các bộ luật kinh tế phù hợp với bước đổi mới. * Khống chế lạm pháp: Bàn tay vô hình của thị trường có thể tạo ra nhiều ưu thế cho nền kinh tế nhưng nó cũng không tránh khỏi chu kỳ kinh doanh dẫn tới khủng hoảng, lạm phát. Hậu quả của lạm phát tác động tiêu cực đối với mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội: đời sống khó khăn, sản xuất đình trệ gắn liền với lạm phát, thất nghiệp... Nếu Nhà nước buông lỏng cho thị trường vận động thì biến động có tính chu kỳ của nền kinh tế sẽ rất rõ, chẳng hạn thời kỳ siêu lạm phát ở Đức năm 20 hay thời đại suy thoái của Mỹ trong những năm 30. Những kinh nghiệm đó đã giúp ta nhận ra một điều bổ ích rằng Nhà nước XHCN cần phải tìm mọi cách để kiểm soát và ngăn chặn những thăng
  16. trầm của chu kỳ kinh doanh. Với những cố gắng của Nhà nước có thể làm cho chu kỳ kinh doanh trơn chu, ngăn chặn đình đốn, thất nghiệp và lạm phát, hai vũ khí được sử dụng chủ yếu là chính sách tiền tệ và chính sách tài chính. Nếu Nhà nước biết kết hợp một cách hài hòa hai chính sách này thì có thể tác động có lợi đến sản lượng, việc làm, thu nhập và giá cả của nền kinh tế tạo nên sự phát triển nhịp nhàng năng động và đạt hiệu quả cao. * Xây dựng cơ sở hạ tầng. Đối với những nghành, lĩnh vực quan trọng chủ chốt: an ninh, quốc phòng, cầu xá, điện...là những ngành, lĩnh vực mà tư nhân, doanh nghiệp không muốn hoặc không có khả năng và uy tín để đầu tư nhưng lại là cơ sở cần thiết cho sự tăng trưởng nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế và đảm bảo cho Nhà nước thực hiện chính sách kinh tế - xã hội - văn hoá - môi trường của mình. Nhà nước phải chú trọng tới những ngành then chốt, chú ý tới yêu cầu tốn ít vốn, tạo ra nhiều việc làm, đưa công trình vào sử dụng nhanh. Phải soát xét thật chặt chẽ công trình xây dựng dở dang của cả trung ương và địa phương, trong tất cả các ngành cũng như các công trình chưa khởi công, nhưng đã ký nhận thiết bị toàn bộ của nước ngoài. Kiên quyết giảm tiến độ hoặc đình hẳn việc xây dựng những công trình chưa thật sự cấp bách hoặc làm xong sẽ không đủ điều kiện sử dụng có hiệu quả, cần ưu tiên cho những công trình cấp thiết, trọng điểm. Phương châm này cũng phải được thấu suốt trong việc xây dựng các cơ sở khoa học, kỹ thuật, giáo dục, y tế, văn hoá ... * Bảo vệ và quản lý các nguồn tài nguyên: Tài nguyên thiên nhiên là những thứ nếu sử dụng quá lãng phí hoặc không có hiệu quả sẽ rất khó phục hồi thậm chí có những tài nguyên không thể phục hồi được. Việc sử dụng, bảo vệ và quản lý các nguồn tài nguyên này là vấn đề cấp bách của Đảng và Nhà nước ta. Đối với tài nguyên đất: Phải sửa đổi, bổ sung các chính sách về đất ruộng và các loại đất khác để quản lý, sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm.
  17. Đối với tài nguyên rừng: Phải bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên rừng, trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc; ngăn chặn nạn phá rừng, cháy rừng, phát triển rộng khắp phong trào trồng cây. tiến hành tích cực việc định canh, định cư... Đối với tài nguyên biển (thuỷ hải sản...): Coi trọng việc đánh bắt nuôi trồng đi đôi với việc giải quyết tốt việc chế biến, vận chuyển để đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh việc xuất khẩu, tận dụng diện tích mặt nước để nuôi trồng thuỷ sản... IV- Các giải pháp cơ bản để đổi mới, tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước ở nước ta hiện nay: Từ sau thời kỳ nước ta chuyển đổi nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước thì vai trò điều hành nền kinh tế của Nhà nước có sự thay đổi căn bản về chất. Để phù hợp với vai trò mới này nhà cũng đã có nhiều cải cách tích cực về bản thân bộ máy Nhà nước cũng như phương thức Nhà nước tác động vào nền kinh tế. Tuy nhiên bên cạnh những thành công đáng khích lệ thì cũng còn rất nhiều thiếu sót và yếu kém, nhất là trong điều hành kinh tế vĩ mô. Vì vậy trong tình hình kinh tế hiện nay cần phải đổi mới, tăng cường hơn nữa vai trò kinh tế của Nhà nước ta bằng các biện pháp như: 1- Hệ thống pháp luật: Nhà nước pháp quyền trước hết phải được thể hiện ở những bộ luật đồng bộ, đầy đủ và khoa học. Sau đó là việc thực hiện pháp luật trên thực tế một cách công minh, bảo đảm sự bình đẳng hoàn cho mọi công dân trước pháp luật. Thứ ba là quá trình tổ chức giám sát, kiểm tra thực hiện pháp luật. Tất cả đều nhằm đảm bảo cho việc thực thi một kiểu Nhà nước đưa trên cơ sở pháp luật được thông qua luật và bị hạn chế bởi pháp luật. Pháp luật do vậy phải phản ánh bản thân nó có sự vận động nền kinh tế thị trường, tư tưởng nhân đạo, các nguyên tắc tự do, bình đẳng... Hiện nay luật pháp nước ta vẫn chưa phát huy hết tác dụng, nạn tham nhũng, quan liêu, cửa quyền, buôn lậu...Vẫn còn tồn tại nhiều. Chính vì vậy cần phải có biện pháp hạn chế và khắc phục như: + Tập trung giải quyết dứt điểm những vụ nghiêm trọng. Đối với tội phạm đã kết luận rõ, phải xử lý nghiêm, đúng pháp luật có tác dụng giáo dục và ngăn ngừa.
  18. + Kiện toàn lại (có thể) đội ngũ những người làm công tác cầm cân nẩy mực, loại bỏ những cán bộ tham nhũng, cửa quyền; tăng cường những cán bộ gương mẫu, hết lòng vì dân, những cán bộ tốt và có năng lực. + Thường xuyên giáo dục về pháp luật cho mọi người đặc biệt là trong trường học... + Tuyên truyền giáo dục pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng: báo, đài, truyền hình... 2- Công tác kế hoạch: Kế hoạch hóa là quá trình nhận thức và vận dụng tổng hợp các quy luật khách quan, trước hết là các quy luật kinh tế trong đó có các quy luật của thị trường để xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế và xã hội. Kế hoạch hóa là một trong những công cụ trọng yếu thực hiện chính sách kinh tế của Nhà nước hướng đến sự phát triển sản xuất để thoả mãn tốt hơn nhu cầu vật chất và văn hóa của nhân dân. Nhờ kế hoạch, Nhà nước quản lý sản xuất xã hội, điều chỉnh sản xuất, phân phối và trao đổi của cải vật chất. Ngày nay, kế hoạch hóa đã trở thành một hiện tượng phổ biến trong nền kinh tế thế giới hiện đại. Xét trên phạm vi xã hội, nói cách khác, xét ở tầm vĩ mô, nền kinh tế nhiều thành phần cần phải được kế hoạch hóa nhưng không thể là kế hoạch hóa trực tiếp - pháp lệnh, không thể xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh vĩ mô cho cả nền kinh tế. Chỉ có thể thực hiện kế hoạch hóa gián tiếp, định hướng đổi mới với nó mà thôi. Vai trò chủ yếu của kế hoạch hóa ở tầm vĩ mô là thúc đẩy hình thành cơ cấu hợp lý vì vậy phải đảm bảo tính thống nhất trong cân đối các nguồn lực, lựa chọn phương hướng phát triển đúng đắn và động viên được được sức lực, trí tuệ của toàn xã hội, thực hiện thắng lợi những mục tiêu đã đề ra. Đề phù hợp với việc quản lý kinh tế vĩ mô theo cơ chế thị trường có thể nêu ra bố cục hợp lý của hệ thống kế hoạch hóa định hướng như sau: Thứ nhất: Cần xúc tiến nghiên cứu xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cũng như các chiến lược phát triển ngành, vùng, lĩnh vực. Chiến lược ổn định về phát
  19. triển kinh tế - xã hội và những định hướng lớn sẽ là cơ sở tốt cho các ngành, các cấp, các cơ sở xác định phương hướng phát triển, phương hướng đầu tư một cách lâu dài. Thứ hai: Hệ thống thông tin - dự báo có vai trò rất quan trọng nhưng chưa được quan tâm đúng mức. Mới chú ý dự báo xây dựng kế hoạch 5 năm, thiếu các dự báo dài hạn và dự báo cho một số lĩnh vực quan trọng. Công tác dự báo còn phân tán, cần được sử lý tổng hợp để nâng cao chất lượng, cung cấp kịp thời thông tin kinh tế xã hội, thị trường, khoa học công nghệ phục vụ quá trình xây dựng kế hoạch. Thứ ba: Nghiên cứu thiết kế các chương trình và dự án phát triển, đây là một phương pháp kế hoạch hóa đồng thời cũng là một bộ phận cấu thành của kế hoạch. Thông qua các chương trình và các dự án Nhà nước có điều kiện bố trí và chỉ đạo kế hoạch một cách có trọng điểm và hiệu quả cao. Thứ tư: Đổi mới phương pháp xây dựng kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm. Đây là những bộ phận chủ yếu của hệ thống kế hoạch hóa định hướng, cần phát huy vai trò tạo môi trường, hướng dẫn và điều tiết của các doanh nghiệp nhà nước, đối với các doanh nghiệp tư nhân, các tổ chức kinh tế có sự tham gia của nước ngoài. 3- Chính sách tiền tệ - tài chính - tín dụng * Chính sách tiền tệ trong cơ chế thị trường là chính sách không chỉ điều chỉnh khối tiền tệ (cả tiền mặt và bút tệ)cung ứng thêm trong một thời kỳ nhất định cho việc tín dụng nền kinh tế mua ngoại tệ, tạm ứng cho ngân sách, mà còn điều chỉnh khối tiền tệ đã sẵn có trong lưu thông cho phù hợp với mức tăng tổng sản phẩm quốc dân, phù hợp giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, giữa tiền và hàng, không gây thừa hoặc thiếu tiền so với nhu cầu lưu thông. Tùy thực trạng kinh tế và tiền tệ cụ thể của mỗi nước mà chính sách tiền tệ được xác định theo hướng thắt chặt hay mở rộng. Chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường có những nội dung lớn, đó là điều hòa khối tiền tệ, chính sách tín dụng nền kinh tế cho nền kinh tế chính sách ngoại hối. * Chính sách tài chính:
  20. Chính sách tài chính chủ yếu thể hiện hai nội dung là thu và chi tiêu của chính phủ do đó tác động vào tổng cung và tổng cầu, sản lượng, giá cả và việc làm. Khi chính sách tài chính được áp dụng để giảm hoặc thoát khỏi suy thoái kinh tế gọi là chính sách tài chính sách mở rộng, nó tác động thông qua hai con đường. + Tăng chi tiêu chính phủ như đẩy mạnh sản xuất hàng hoá công cộng, tăng đơn đặt hàng mua và các khoản chi khác. Như vậy sẽ làm tăng tổng cầu và qua đó tác động khích thích làm tăng tổng cung. + Giảm thuế sẽ kích thích tiêu dùng và đầu tư. Do vậy sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo điều kiện giải quyết việc làm trong nước. Khi chính sách tài chính được áp dụng để giảm lạm phát gọi là chính sách tài chính thắt chặt. Nó cũng tác động đến các biến số của nền kinh tế vĩ mô thông qua hai con đường: + Giảm chi tiêu chính phủ như giảm đầu tư sản xuất hàng công cộng và đơn đặt hàng, kết quả dẫn đến giảm cầu quá mức của xã hội, bình ổn vật giá, hạn chế lạm phát và đương nhiên cũng hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế. + Tăng thuế có thể làm giảm thu nhập khá do đó giảm tiêu dùng, giảm đầu tư và giảm nhu cầu xã hội quá mức khiến giá cả đi vào ổn định. * Chính sách tín dụng. Tín dụng là quan hệ kinh tế dưới hình thức quan hệ tiền tệ mà người chủ sở hữu tiền tệ cho người khác vay trong thời gian nhất định để thu món lời gọi là lợi tức. Kinh tế thị trường tạo khẳ năng mở rộng phạm vi hoạt động của tín dụng; đến lược mình, tín dụng thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tích tụ tập trung sản xuất. Sự cạnh tranh các tổ chức tín dụng đưa đến việc thu hút và huy động một lượng vốn lớn trong thời gian nhanh nhất và với lãi xuất thấp nhất, kịp thời đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp. Thừa nhận hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh tiền tệ thì lợi tức phải được xem như là giá cả của loại hàng hóa - tiền tệ và nó thay đổi theo cung cầu trên thị trường tiền tệ. Chính sự thay đổi của tỷ suất lợi tức trong từng thời kỳ góp phần vào việc điều hòa cung cầu về vốn tiền tệ trong toàn nền kinh tế.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0