intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ

Chia sẻ: Hà Nguyễn Thúy Quỳnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:31

131
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khái niệm về đầu tư dới các góc độ khác nhau. Dới góc độ tài chính thì đầu tư là một chuỗi hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu. Dưới góc độ tiêu dùng thì hiện tại để thu mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ

  1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU T VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
  2. CHƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU T VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ I. Đầu t. 1. Khái niệm về đầu t dới các góc độ khác nhau. Dới góc độ tài chính thì đầu t là một chuỗi hoạt động chi tiêu để chủ đầu t nhận về một chuỗi các dòng thu. Dới góc độ tiêu dùng thì đầu t là sự hy sinh tiêu dùng hiện tại để thu đợc mức tiêu dùng nhiều hơn trong tơng lai. Khái niệm chung: Đầu t là việc bỏ vốn hoặc chi dùng vốn cùng các nguồn lực khác ở hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả có lợi trong tơng lai. 2. Vai trò của đầu t. 2.1. Trên góc độ toàn bộ nền kinh tế. - Đầu t với việc tăng cờng khả năng khoa học- công nghệ của đất nớc. Công nghệ là trung tâm của CNH. Đầu t là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cờng khả năng công nghệ của nớc ta hiện nay. Có 2 con đờng cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nớc ngoài. Dù là sự nghiên cứu hay nhập nó thì cũng cần phải có vốn đầu t. Mọi phơng án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu t sẽ là những phơng án không khả thi. - Đầu t và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chính đầu t quyết định qua trình chuyển dịch kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt đợc tốc độ tăng trởng nhanh của toàn bộ nền kinh té. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu t có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãng thổ, đa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị…của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. - Đầu t tác động đến tốc độ tăng trởng và phát triển kinh tế.
  3. Muốn giữ tốc độ tăng trởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu t phải đạt từ15- 20% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nớc: Ở các nớc phát triển, ICOR thờng lớn từ 5- 7. ở các nớc chậm phát triển ICOR thấp từ2- 3. Đối với các nớc đang phát triển, phát triển về bản chất đợc coi là vấn đề đảm bảo các nguồn vốn đầu t dủ để dạt đợc một tỉ lệ tăng thêmsản phẩm quốc dân dự kiến. Có sự khác nhau trên là vì chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu t trong các ngành các vùng lãnh thổ cũng nh phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông htờng ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng lực. Do đó ở các nớc phát triển, tỷ lệ đầu t thấp thờng đãn đến tốc độ tăng trởng thấp. 2.2. Trên góc độ vi mô. Đầu t quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Chẳng hạn, để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa đợc tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu t. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ đang tồn tại sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất - kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, h hỏng. Để duy trì đợc sự hoạt động bình thờng cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay đổi các cơ sở vật chất - kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu t. II. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế 1. Cơ cấu kinh tế Phát triển kinh tế với tốc độ cao và bền vững là mục tiêu phấn đấu của tất cả các nớc. Để thực hiện đợc mục tiêu đó cần thiết phải xây dựng 1 cơ cấu kinh tế hợp lý. Trong đó cần phải xác vai trò, tỷ trọng và mối quan hệ hợp thành giã các ngành kinh tế quốc dân, giữa các vùng, lãnh thổ và giữa các thành phần kinh tế. Các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế phải đợc thể hiện cả về mặt số lợng cũng nh về mặt chất lợng và đợc xác định trong những giai đoạn nhất định, phù hợp với những đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội cụ thể của mỗi quốc gia qua từng thời kỳ. Có thể hiểu cơ cấu kinh tế là một tổng thể các bộ phận hợp thành kết cấu (hay cấu trúc) của nền kinh tế trong quá trình tăng trởng sản xuất xã hội. Các bộ phận đó gắn bó với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và biểu hiện ở các quan hệ tỷ lệ về số lợng, tơng quan về chất lợng trong những không gian và thời gian nhất định, phù hợp với những điều kiện kinh tế xã hội nhất định nhằm đạt đợc hiệu quả kinh tế xã hội cao. Cơ cấu kinh tế không phải là một hệ thống tĩnh bất biến mà luôn ở trạng thái vận động, biến đổi không ngừng. Chính vì vậy, cần phải nghiên cứu các qui luật khách quan, thấy đợc sự vận động phát triển của lực lợng sản xuất xã hội để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp với những mục tiêu chiến lợc kinh tế xã hội của từng thời kỳ lịch sử nhất định. Một cơ cấu kinh tế hợp lý phải có các bộ phận kết hợp một cách hài hoà, cho phép khai thác tối đa các nguồn lực của đất nớc một cách có hiệu quả, đảm bảo nền kinh tế tăng trởng với nhịp độ cao và phát triển ổn định, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của ngời dân. Nớc ta trong thời gian tơng đối dài, nền kinh tế tồn tại theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, sau 15 năm nền kinh tế nớc ta đã đạt đợc những thành tựu có ý nghĩa to lớn. Đại hội VI đảng ta chủ trơng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng phát triển 3 chơng trình kinh tế lớn. Sản xuất lơng thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, chú trọng phát triển kết cấu hạ tầng vào 3 chơng trình và thực
  4. hiện luật đầu t nớc ngoài. Đến Đại hội VII, VIII, IX khi công cuộc đổi mới bắt đầu đi vào chiều sâu, đảng ta tiếp tục khẳng định xây dựng cơ cấu kinh tế hợ lý là một nội dung quan trọng của CNH – HĐH, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa xã hội. 2. Phân loại cơ cấu kinh tế 2.1. Cơ cấu kinh tế ngành. - Ngành nông nghiệp: Là tổ hợp các ngành gắn liền với các quá trình sinh học gồm: nông nghiệp, lâm nghiệp và ng nghiệp. Do sự phát triển của phân công lao động xã hội, các ngành này hình thành và phát triển tơng đối độc lập, nhng lại gắn bó mật thiết với nhau. Nông nghiệp là một ngành cơ bản của nền kinh tế cả nớc, vừa chịu sự chi phối chung của nền kinh tế quốc dân, vừa gắn bó mật thiết với các ngành khác trên địa bàn nông thôn, đồng thời lại phản ánh những nét riêng biệt mang tính đặc thù của 1 ngành mà đối tợng sản xuất là những cơ thể sống. Theo nghĩa hẹp: nông nghiệp bao gồm trồng trọt và chăn nuôi, theo nghĩa rộng thì nông nghiệp còn bao gồm cả lâm nghiệp và thuỷ sản. - Ngành công nghiệp: Là một ngành quan trọng của nền kinh tế bao gồm ngành công nghiệp nhẹ: Chế biến nông, lâm, thuỷ sản, may mặc, da – giầy, điện tử – tin học, một số sản phẩm cơ khí và hàng tiêu dùng. Công nghiệp nặng: Dầu khí, luyện kim, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng…. - Ngành dịch vụ: Đây là một ngành kinh tế ra đời và phát triển gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Dịch vụ bao gồm rất nhiều loại: Thơng mại, dịch vụ vận tải chính – viễn thông, dịch vụ tài chính tiền tệ nh hàng hoá, hành khách, dịch vụ bu tín dụng, bảo hiểm, kiểm toán, chứng khoán…dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ t vấn, dịch vụ phục vụ đời sống. Đối với Việt Nam hiện nay, du lịch đang thực sự trở thành 1 ngành kinh tế mũi nhọn. 2.2. Cơ cấu kinh tế vùng – lãnh thổ. Trong từng Quốc gia do những điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khác nhau nên trong quá trình phát triển đã hình thành các vùng kinh tế sinh thái khác nhau. Cơ cấu vùng – lãnh thổ kinh tế là sự phân công lao động xã hội theo lãnh thổ trên phạm vi cả nớc. Cơ cấu vùng – lãnh thổ đợc coi là nhân tố hàng đầu để tăng trởng và phát triển bền vững các ngành kinh tế đợc phân bố ở vùng. Việc xác lập cơ cấu kinh tế vùng – Lãnh thổ 1 cách hợp lý nhằm phân bố trí các ngành sản xuất trên vùng – lãnh thổ sao cho thích hợp để triển khai có hiệu quả mọi tiềm năng và lợi thế của từng vùng. Việc bố trí sản xuất ở mỗi vùng không khép kín mà có sự liên kết với các vùng khác có liên quan để gắn với cơ cấu kinh tế của cả nớc: ở nớc ta có thể chia ra các vùng kinh tế nh sau: - Trung du và mi ền núi bắc bộ - Tây Nguyên - Đồng bằng sông cửu long - Vùng KTTĐ Bắc bộ - Vùng KTTĐ Miền trung - Vùng KTTĐ Phía Nam 2.3. Cơ cấu thành phần kinh tế (gồm có): - Kinh tế nhà nớc: Phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lợng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nớc định hớng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. - Kinh tế tập thể: Phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. - Kinh tế cá thể, tiểu chủ: Cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. - Kinh tế t nhân.
  5. - Kinh tế hỗn hợp: Dới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nớc với kinh tế t nhân trong và ngoài nớc. - Kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài: Là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam đợc khuyến khích phát triển, hớng mạch vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá và dịch vụ có công nghệ cao, xây dựng kết cấu hạ tầng. 3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế 3.1 Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Từ khi đổi mới đến nay cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển biến tích cực nhng vẫn cha thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ và nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn, các ngành nghề cha đợc phát triển. Nhìn chung cơ cấu kinh tế ở nớc ta còn bất hợp lý, dẫn tới sản xuất đạt hiệu quả thấp, cha khai thác hết mọi tiềm năng của đất nớc. Do đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một tất yếu cần thiết để phát triển đất nớc. 3.2 Xu hớng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Cơ cấu kinh tế ngành: Có sự chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Đẩy nhanh CNH – HĐH nông nghi ệp và nông thôn tiếp tục phát triển và đa nông nghiệp, lâm nghiệp, ng nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ nhất là công nghệ sinh học. Công nghiệp: Vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, vừa đi nhanh vào một số ngành lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản, may mặc….Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng. Sản xuất t liệu sản xuất cần thiết để trang bị cho các ngành kinh tế và quốc phòng, khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Phát triển mạnh và nâng cao chất lợng các ngành dịch vụ, thơng mại, kể cả thơng mại điện tử, các loại hình vận tải, bu chính – viễn thông, du lịch, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm…. - Cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ: Phát huy vai trò của vùng kinh tế trọng điểm có mức tăng trởng cao, tích luỹ lớn, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy thế mạnh của từng vùng, liên kết với vùng trọng điểm tạo mức tăng trởng khá,. Quan tâm phát triển kinh tế- xã hội gắn với tăng cờng quốc phòng- an ninh ở các vùng mi ền núi, đồng bào các dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo chú trọng các vùng tây nguyên, tây bắc, tây nam. Có chính sách hỗ trợ nhiều hơn cho các vùng khó khăn để phát triển cơ cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, xoá đói giảm nghèo, đa các vùng này vợt qua tình trạng kém phát triển. - Cơ cấu thành phần kinh tế. Chú trọng phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế khác nhau, giữa trong nớc và nớc ngoài. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu t xã hội. III VAI TRÒ CỦA ĐẦU T TRONG VIỆC CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở VIỆT NAM 1. Vai trò của đầu t trong việc chuyển dịch cơ cấu ngành Cơ cấu ngành của nền kinh tế là tổ hợp các ngành, hợp thành các tơng quan tỷ lệ, biểu hiện mối liên hệ giữa các ngành đó của nền kinh tế quốc dân. Chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế là sự thay đổi có mục đích, có định hớng và dựa trên cơ sở phân tích đầy đủ căn cứ lý luận và thực tiễn, cùng với việc áp dụng đồng bộ các giải pháp cần thiết để chuyển cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái khác, hợp lý và hiệu quả hơn
  6. Chuyển dịch cơ cấu ngành phải đợc coi là điểm cốt tử, một nọi dung cơ bản lâu dài trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nếu xác định phơng hớng và giải pháp chuyển dịch đúng sẽ đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội cao trong sự phát triển. Ngợc lại sẽ phải trả giá đắt cho những sự phát triển về sau . Chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế thành công hay thất bại phụ thuộc rất nhiều vào khâu quyết định chủ trơng chuyển dịch và tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đã xác định. ở đây, nhà nớc có vai trò quyết định trong việc hoạch định chủ trơng và chính sách kinh tế vĩ mô, còn các doanh nghiệp thì có vai trò quyết định việc thực thi phơng hớng, nhiệm vụ chuyển dịch. Một nền kinh tế quốc dân bao gồm nhiều ngành sản xuất khác nhau. Do đó, 1 quốc gia muốn phát triển và đạt đợc tốc độ tăng trởng cao phả có 1 cơ cấu ngành hợp lý. Đối với Việt Nam, để thực hiện mục tiêu CNH – HĐH đất nớc, phấn đầu năm 2010 cơ bản trở thành 1 nớc công nghiệp thì điều này lại càng có ý nghĩa. Chính vì vậy, việc đầu t vào chuyển dịch cơ cấu ngành, tạo sức bật cho nền kinh tế đóng 1 vai trò hết sức quan trọng. Vai trò này của đầu t đợc thể hiện ở những khía cạnh sau: Thứ 1: Đầu t tác động làm thay đổi tỷ trọng đóng góp vào GDP của các ngành: Đây là 1 hệ quả tất yếu của đầu t. Đầu t vào ngành nào càng nhiều thì ngành đó càng có khả năng đóng góp lớn hơn vào GDP. Việc tập trung đầu t vào ngành nào phụ thuộc vào chính sách và chiến lợc phát triển của mỗi quốc gia. Thông qua các chính sách và chiến lợc, nhà nớc có thể tăng cờng khuyến khích hoặc hạn chế đầu t đối với các ngành cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Dẫn đến sự tăng đầu t vào 1 ngành sẽ kéo theo sự tang trởng kinh tế của ngành đó và thúc đẩy sự phát triển của các ngành, các khu vực có liên quan. Vì vậy sẽ tạo ra sự tăng trởng kinh tế chung của đất nớc. Việc xác định nên tập trung đầu t vào ngành nào có tính chất quyết định sự phát triển của quốc gia. Nhng kinh nghiệm của các nớc trên thế giới đã cho thấy con đờng tất yếu có thể tăng trởng nhanh với tốc độ mong muốn là tăng cờng đầu t nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Do đó, để thực hiện đợc các mục tiêu đã định, Việt Nam cũng không thể nằm ngoài sự phát triển. Thứ 2: Nh đã nói ở trên, đầu t đã làm thay đổi tỷ trọng của các ngành trong cả nền kinh tế. Sự thay đổi này lại đi liền với sự thay đổi cơ cấu sản xuất trong từng ngành hay nói cách khác, sự phân hoá cơ cấu sản xuất trong mỗi ngành kinh tế là do có tác động của đầu t. Sự phân hoá này cũng là một tất yếu để phù hợp với sự phát triển của ngành. Trong từng ngành, đầu t lại hớng vào các ngành có điều kiện thuận lợi để phát triển, phát huy đợc lợi thế của ngành đó và làm điểm tựa cho các ngành khác cùng phát triển. Thứ 3: Nhờ có đầu t mà quy mô, năng lực sản xuất của các ngành cũng đợc tăng cờng. Mọi việc nh mở rộng sản xuất, đổi mới sản phẩm, mua sắm máy móc ….Suy cho cùng đều cần đến vốn, 1 ngành muốn tiêu thụ rộng rãi sản phẩm của mình thì phải luôn đầu t nâng cao chất lợng sản phẩm đa dạng hoá mẫu mã, kiểu dáng, nghiên cứu chế tạo các chức năng, công dụng mới cho sản phẩm. Do đó việc đầu t để nâng cao hàm lợng khoa học công nghệ trong sản phẩm là 1 điều kiện không thể thiếu đợc nếu muốn sản phẩm đứng vững trên thị trờng, nhờ vậy mà nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ trên thị trờng. 2. Vai trò của đầu t đối với chuy ển dịch cơ cấu kinh tế vùng – lãnh thổ. II.1. Đầu t thúc đẩy phát triển kinh tế của một số vùng- lãnh thổ.
  7. Một số vùng – lãnh thổ khi có nguồn vốn đầu t vào sẽ có thể có nhiều cơ hội để sản xuất kinh doanh, tạo đà cho sự tăng trởng kinh tế của mình. Tác động này của đầu t có thể xem xét trên 2 khía cạnh nh sau: Thứ nhất là: Đầu t giúp các vùng – lãnh thổ phát huy đợc tiềm năng, thế mạnh kinh tế của vùng. Với nhng vị trí địa lý, đặc thù tự nhiên khác nhau mỗi vùng – lãnh thổ sẽ có những thế mạnh kinh tế khác nhau, nhng để phát triển kinh tế thì không chỉ dựa vào những tài nguy ên vị trí địa lý sẵn có đó, mà phải có đủ điều kiện để khai thác và sự dụng nó có hiệu quả. Điều này đòi hỏi phải có nguồn vốn đầu t. Vì khi đợc dầu t thích đáng các vùng sẽ có điều kiện để xây dựng cơ sở hạ tầng, máy móc công nghệ hiện đại, xác định các phơng hớng phát triển đúng đắn để tận dụng, phát huy sức mạnh của vùng. Nh một số vùng miền núi có địa hình đồii núi cao ( Sơn La – Hoà Bình ) trớc khi đợc đầu t vùng không có công trình nào lớn mạnh thực sự, nhng nhờ đầu t khai thác thế mạnh sông núi của vùng nhà máy thuỷ điện đã đợc xây dựng, góp phần làm phát triển nền kinh tế của vùng. Thứ hai là: Đầu t góp phần nâng cao tỷ trọng đóng góp vào GDP của các vùng – lãnh thổ đợc đầu t. Nh phân tích trên đầu t giúp các vùng tận dụng đợc thế mạnh của mình, tạo đà cho sự phát triển kinh tế của vùng. Khi nền kinh tế phát triển hơn thì khả năng đóng góp vào GDP cũng sẽ cao hơn so với trớc kia. GDP % 1990 1995 1999 ĐB sông Hồng 18,6 20,5 20,3 Đông nam bộ 24,6 31,5 32,3 Nh vậy đầu t tác động làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, vùng nào có sự đầu t nhiều hơn sẽ có cơ hội phát triển kinh tế nhiều hơn, khả năng đóng góp vào GDP của vùng tăng cao hơn, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của vùng cao hơn các vùng – lãnh thổ ít đợc đầu t khác. II.2. Đầu t tác động nâng cao đời sống của dân c. Nguồn vốn đầu t đợc sử dụng vào các hoạt động sản xuất và dịch vụ góp phần tạo công ăn việc làm cho ngời lao động. Nhờ có nguồn vốn đầu t mà các vùng mới có điều kiện để xây dựng các nhà máy, cơ sở hạ tầng trên lãnh thổ của vùng. Ngay khi những công trình của dự án đầu t mới đang đợc xây dựng thì đã là cơ hội tạo việc làm cho nhiều ngời dân của vùng, thu hút lao động nhàn rỗi của vùng. Cho đến khi các cơ sở đó đi vào hoạt động cũng đã thu hút đợc nhiều lao động trong vùng. Nh hàng loạt các nhà máy đờng, xi măng đợc đầu t xây dựng đã thu hút công nhân lao động trong vùng vào làm, giải quyết nhiều công ăn việc làm cho khu vực đó. Đầu t giúp nâng cao thu nhập của dân c, giúp xoá đói giảm nghèo, ngời dân từ chỗ bế tắc, thất nghiệp, sau khi có nguồn vốn đầu t thu hút lao động, tạo việc làm, ngời dân có thể có thu nhập cao hơn, ổn định cuộc sống, phát huy năng lực của mình. Có thể phân tích qua ví dụ cụ thể sau: ở huyện Thạch Thành – Thanh Hoá Trớc khi có nhà máy đờng liên doanh Đài Loan – Việt Nam, ngời dân trồng mía chỉ để bán lẻ hoặc bán với giá quá rẻ, nhiều ngời dân không có việc làm. Nhng sau khi có nhà máy đờng ở
  8. tại đó, ngời dân trồng mía có nơi tiêu thụ lại với giá cao hơn, nên ngời dân đã có thu nhập cao hơn, nhiều ngời dân đã có việc làm, góp phần nâng cao đời sống của mình. II.3. Đầu t góp phần giải quyết những mất cân đối về phát triển kinh tế giữa các vùng. Nguồn vốn đầu t thờng đợc tập trung ở những vùng kinh tế trọng điểm của đất nớc, thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế của những khu vực đó, và đến lợt mình những vùng phát triển này lại làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Các vùng kinh tế trọng điểm đợc đầu t phát huy thế mạnh của mình, góp phần lớn vào sự phát triển chung của cả đất nớc, kéo con tàu kinh tế chung của đất nớc đi lên, khi đó các vùng kinh tế khác mới có điều kiện để phát triển. Đầu t cũng đã thúc đẩy các vùng kinh tế khó khăn có khả năng phát triển, giảm bớt sự chênh lệch kinh tế với các vùng khác. Các vùng kinh tế khó khăn khi nhận đợc sự đầu t, giúp họ có thể có đủ điều kiện để khai thác, phát huy tiềm năng của họ, giải quyết những vớng mắc về tài chính, cơ sở hạ tầng cũng nh phơng hớng phát triển,tạo đà cho nền kinh tế vùng , làm giảm bớt về sự chênh lệch với nền kinh tế các vùng khác. Qua những phân tích trên cho thấy , đầu t có sự tác động quan trọng đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng _lãnh thổ, từng vùng có khả năng phát triển kinh tế cao hơn, phát huy đợc thế mạnh của vùng, đời sống nhân dân trong vùng có nhiều thay đổi, tuy nhiên trên thực tế mức độ đầu t vào từng vùng là khác nhau, điều đó làm cho nền kinh tế gia các vùng vẫn luôn có sự khác nhau, chênh lệch nhau. 3. Vai trò của đầu t đối với chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế. 3.1 Đầu t đã có tác động tạo ra những chuyển biến về tỷ trọng đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế. Thực hiện đờng lối đổi mới của Đảng và nhà nớc, trong những năm qua cơ cấu thành phần kinh tế ở nớc ta đã có sự chuyển dịch theo hớng tiến bộ và bớc đầu đã đạt đợc nhiều kết quả đáng khích lệ. Bên cạnh khu vực kinh tế trong nớc, khu vực kinh tế có vốn đầu t trực tiếp của nớc ngoài FDI cũng ngày càng có những đóng góp tích cực vào sự tăng trởng kinh tế của cả nớc. Đáng chú ý là trong khu vực kinh tế trong nớc (bao gồm các thành phần kinh tế nhà nớc, tập thể, t nhân, cá thể và kinh tế hồn hợp ). Cơ cấu của các thành phần đã có sự chuyển dịch theo hớng tăng tỷ trọng các thành phần kinh tế ngoài nhà nớc và giảm tỷ trọng của kinh tế nhà nớc phù hợp với chủ trơng đa dạng hoá các thành phần kinh tế nhng vẫn đảm bảo vai trò quản lý của nhà nớc theo định hớng XHCN. 3.2 Tạo ra sự phong phú đa dạng về nguồn vốn đầu t Nền kinh tế bao cấp đã chỉ rõ những nhợc điểm của mình với 2 thành phần kinh tế và nguồn vốn chỉ do ngân sách cấp, do đó không mang lại hiệu quả cao. Nhng từ khi nớc ta chuyển sang kinh tế thị trờng thì nền kinh tế không chỉ tồn tại 2 thành phần nh trớc đây là kinh tế nhà nớc và kinh tế tập thể mà đã xuất hiện thêm các thành phần kinh tế khác nh kinh tế t nhân, kinh tế cá thể, kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài. Cùng với sự xuất hiện này là sự đa dạng về nguồn vốn đầu t do các thành phần kinh tế mới mang lại. Các thành phần kinh tế mới đã bổ sung một lợng vốn không nhỏ vào tổng vốn đầu t của toàn xã hội, tạo nên một nguồn lực mạnh mẽ hơn trớc để phát triển kinh tế. Việc có thêm các thành phần kinh tế đã huy động và tận dụng đợc các nguồn lực trong xã hội một cách hiệu quả hơn, khuyến khích đợc mọi cá nhân tham gia đầu t làm kinh tế.
  9. Vốn đầu t của họ có thể đến đợc những nơi, những lĩnh vực mà nhà nớc cha đầu t đến hoặc không có đủ vốn để đầu t. Chính vì vậy, việc đa dạng hoá nguồn vốn là một yếu tố không thể thiếu đợc trong đầu t phát triển. CHƠNG II THỰC TRẠNG VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU T ĐỐI VỚI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở VIỆT NAM. I. Tổng quan chung về đầu t và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Trong những năm gần đây, thế giới đã biết Việt nam nh một nớc đang thực hiện thành công công cuộc đổi mới. Để đạt đợc những thành công này, Đảng và chính phủ đã có những chính sách cải cách và mở cửa hết sức đúng đắn. Những chính sách này đã mang lại những tích cực trong việc thu hút vốn đầu t để phát triển nền kinh tế vốn còn chậm phát triển của Việt Nam và một trong những thành công nổi bật của đầu t trong công cuộc đổi mới là sự chuyển dịch cơ câú kinh tế theo hớng CNH- HĐH. Điều đầu tiên mà chúng tôi đề cập đến ở đây là sự thành công của Việt Nam trong việc từng bớc chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế công nghiệp tiên tiến, tức là tăng dần tỉ trọng của công nghiệp và dịch vụ trong GDP so với nông nghiệp.Bình quân trong những năm qua, giá trị của ngành dịch vụ ở mức 39%, của ngành công nghiệp là 38% và con số này của ngành nông nghiệp là 23%.Công nghiệp việt nam đang bớc từng bớc vững chắc và đang chứng tỏ là một ngành có thể kéo đoàn tàu kinh tế tiến lên. Giá trị của nông nghiệp tuy có giảm nhng ngành nông nghiệp của nớc ta vẫn không chỉ đảm bảo đợc an ninh lơng thực mà còn luôn giữ vững vị trí là một trong 3 nớc xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Bên cạnh những thành công này không thể khôg kể đến nỗ lực của Đảng và Nhà nớc trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng- lãnh thổ. Các vùng kinh tế: Tây bắc, Đông bắc, Đồng bằng sông hồng, Khu 4, Duyên hải mi ền trung, Tây nguyên, Đông nam bộ và Đồng bằng sông cửu long đã xây dựng đợc cho mình các thế mạnh về cây, con để đầu t sản xuất, cải thiện đáng kể đời sống nhân dân và đã hình thành đợc các vùng kinh tế trọng điểm làm động lực cho sự phát triển của cả nớc. Một thành tựu lớn của Việt Nam trong công cuộc
  10. cải cách kinh tế đã đợc cả thế giới ghi nhận là đã xoá đợc đói, giảm đợc nghèo ở những vùng kém phát triển với tỉ lệ đói nghèo xuống xấp xỉ 10%. Một điều cần nói đến nữa ở đây là sự chuyển biến về cơ cấu thành phần kinh tế, ngoài 2 thành phần kinh tế cũ là kinh tế nhà nớc, kinh tế tập thể các thành phần kinh tế khác nh kinh tế t nhân, kinh tế cá thể, kinh tế hỗn hợp và khu vực có vốn đầu t nớc ngoài cũng đã góp phần làm đa dạng hoá nguồn vốn đầu t, bổ sung cho nguồn vốn của nhà nớc. Năm 2003, tổng vốn đầu t toàn xã hội đạt mức 35,6% GDP. Điều đó thể hiện vai trò tích cực của các thành phần kinh tế trong việc đầu t vào các ngành, vùng để phát triển kinh tế. Đặc biệt, khu vực kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài là một bộ phận không thể tách rời trong sự nghiệp phát triển kinh tế Việt Nam. Trong những năm qua, khu vực này đã có bớc phát triển khá, tạo thêm một số mặt hàng mới, thị trờng mới, tăng thêm sức cạnh tranh của sản phẩm, góp phần quan trọng vào các thành tựu kinh tế- xã hội của đất nớc. II. Thực trạng của hoạt động đầu t đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Sau nhiều năm thực hiện mở cửa nền kinh tế. Nớc ta đã nhận đợc rất nhiều nguồn vốn từ nớc ngoài đổ vào, cùng với lợng vốn trong nớc, tạo thành 1 nguồn vốn đầu t lớn cho nền kinh tế. Đây là 1 điều kiện rất tốt để chúng ta thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp với xu hớng phát triển chung của thế giới. Và vì vậy, cơ cấu ngành cũng không thể không có những sự thay đổi. Sự thay đổi này đợc thể hiện ở những mặt sau. Thứ 1: Nhờ có nguồn vốn lớn cùng với chính sách cải cách và đổi mới của Đảng, cơ cấu ngành đã có sự chuyển dịch tích cực theo hớng CNH – HĐH, phát huy đợc lợi thế của từng ngành, làm tăng hiệu quả và chất lợng phát triển kinh tế. Đúc rút kinh nghiệm của các nớc đi trớc, Việt Nam đã chú trọng vào phát triển khu vực công nghiệp và dịch vụ, 2 khu vực có khả năng đem lại tốc độ tăng trởng nhanh cho nền kinh tế. Chính vì vậy tỷ trọng đóng góp vào GDP của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ cũng có sự chênh lệch khác nhau. Tỷ trọng ngành nông – lâm – thuỷ sản trong GDP tiếp tục có xu hớng giảm từ 27,2% năm 1995 xuống 25,4% năm 1999 và còn 23% năm 2002 trong khi tỷ trọng ngành công nghiệp – xây dựng phát triển từ 28,7% lên 34,5% và lên đến 38,6% năm 2002 (Trong đó tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến tăng từ 18% năm 1999 lên 20,4% năm 2002). Ngành dịch vụ tăng từ 38,6% năm 1990 lên 44,1% năm 1999 và sau đó lại giảm còn 38,4% năm 2002. Sự thay đổi này phản ánh xu hớng ngày càng phát triển của khu vực công nghiệp và dịch vụ trong những năm gần đây, mức đóng góp vào GDP của 2 khu vực này ngày càng tăng và chiếm tới khoảng 79%. Hiện nay vốn đầu t vào 2 khu vực này cũng đang tăng mạnh, đặc biệt là công nghi ệp. Tổng số dự án đầu t nớc ngoài đầu năm 2002 đợc cấp giấy phép là 104 dự án, tăng 50,7% với tổng vốn đăng ký hơn 159 triệu USD, tăng gần 50%. Có 34 dự án đầu t vào ngành công nghiệp nặng với tổng vốn đăng ký hơn 33 triệu USD ( bình quân gần 1 triệu USD/dự án). Điều này hứa hẹn nền công nghiệp nớc ta sẽ tiếp tục có những chuyển biến đáng kể, góp phần hơn nữa vào quá trình đẩy mạnh CNH – HĐH đất nớc. Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển công nghiệp: Những thành công trong chính sách đổi mới của Việt Nam đã đa nớc ta từng bớc hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Việc chính phủ Mỹ tuyên bố chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam ( 7/1975) và hiệp định khung giữa Việt Nam và EU đợc ký kết, Việt Nam là thành viên chính thức của Hiệp hội các nớc ASEAN đã tạo điều kiện thuận lợi cho nớc ta phát triển. Cùng từ những thành công của chính sách đổi mới, vị trí và uy tín cuả Việt Nam trên thế giới ngày càng tăng, quan hệ giữa Việt Nam với các nớc trong khu vực ( nhất là ASEAN) ngày càng xích lại gần nhau hơn. ở trong nớc, các ngành, các doanh nghiệp đã vợt qua nhiều thử thách và đang từng bớc khởi sắc, chấp nhận sự cạnh tranh gay gắt trên thị trờng quốc tế và trong nớc để tồn tại và phát triển bền vững.
  11. Hớng phát triển công nghiệp trong những năm tới: Chặng đờng phát triển kinh tế Việt Nam từ nay tới năm 2020 gắn liền với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Theo các nhà dự báo chiến lợc của Việt Nam, từ nay tới năm 2020 đợc chia thành 2 chặng: + Từ nay tới năm 2010: Chặng đờng đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, đa đất nớc vợt qua giai đoạn trung bình của quá trình công nghiệp hoá ( GDP bình quân đầu ngời đạt khoảng 1000 USD theo giá 1990, vào năm 2010). + Từ 2010 – 2020: Chặng đờng đẩy nhanh hiện đại hoá. * Việc định hớng phát triển các ngành công nghiệp, cần quán triệt các quan điểm sau: + Tăng tốc độ phát triển công nghiệp và do đó nâng cao tỷ trọng công nghiệp trong nền kinh tế. + Trong cơ cấu ngành của công nghiệp, cần chú ý sản phẩm và cơ cấu sản phẩm của nó vì đây là yếu tố năng động, linh hoạt trớc những diễn biến của thị trờng so với ngành nghề. + Trong phát triển công nghiệp, cơ cấu ngành cần kết hợp với cơ cấu vùng và với cơ cấu theo thành phần để thực hiện đợc các mục tiêu. + Kết hợp hớng ngoại với hớng nội, trong đó hớng ngoại là chủ yếu + Chú ý hiệu quả kinh tế – xã hội của cơ cấu. Luôn định hớng và tạo điều kiện cho các ngành trọng điểm, mũi nhọn phát triển Ngành trọng điểm, mũi nhọn trong sự phát triển công nghiệp đợc xác định dựa vào các tiêu chuẩn sau: + Vai trò, vị trí của ngành đó đối với nền KTQD + Khả năng đáp ứng nhu cầu thị trờng, đặc biệt là nhu cầu thị trờng quốc tế. + Khả năng và lợi thế trong nớc cho việc phát triển các ngành đó: + Thực trạng hiện có và có thể có cho sự phát triển sau đây: Ngành trọng điểm, mũi nhọn chịu sự tác động của nhiều nhân tố, nên có thể thay đổi theo từng thời ký phát triển. Với những năm tới, trong sự phát triển công nghiệp, các ngành trọng điểm, mũi nhọn có thể là: + Các ngành khai thác tài nguyên khoáng sản mà ta có thế mạnh, trữ lợng và chất lợng khai thác và chế biến cho phép ( ví dụ dầu khí) + Các ngành phục vụ cho kết cấu hạ tầng của nền kinh tế. Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng sẽ là một trọng điểm cuả nớc ta từ nay tới 2010 cũng trong thời kỳ đó nhu cầu xây dựng nhà cửa và tiêu dùng của dân c cũng rất lớn, ta lại có điều kiện và khả năng phát triển các ngành này ( Điện lực, xi măng). + Một số ngành chế biến nông, lâm, hải sản nhiệt đới mà ta có tiềm năng( diện tích cha khai thác còn nhiều, đầu t còn ít), nhu cầu lớn ( ví dụ chế biến gạo, thuỷ sản, hải sản, cà phê, chè mía đờng, hoa quả và bia, nớc giải khát) + Một số ngành mà ta có lực lợng lao động dồi dào, có truyền thống tay nghề cao, giải quyết việc làm và đóng góp cho xuất khẩu ( ví dụ giày dép, dệt). - Cơ cấu ngành công nghiệp đã có sự chuyển dịch theo hớng tăng tốc độ phát triển và tỷ trọng các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu phát huy đợc lợi thế của ngành, hình thành đợc một số ngành mũi nhọn. Một số khu công nghiệp , khu chế xuất có công nghệ cao đồng thời phát triển một số ngành chế biến nông sản. Đến năm 2000, các ngành công nghiệp khai thác chiếm khoảng 15% tổng giá trị ngành công nghiệp, trong đó ngành dầu khí đã chiếm tới 12%. Đây là một ngành đầy tiềm năng bởi nớc ta có vùng biển rộng lại là nơi có nhiều mỏ dầu khí. Vì vậy cần có sự đầu t thích đáng vào ngành này để tận dụng đợc triệt để nguồn lợi về nguyên thiên nhiên. Công
  12. nghiệp chế tác, bao gồm sản xuất thực phẩm, sản phẩm phi kim loại, sản phẩm dệt, hoá chất, sản phẩm da, giả da và kim loại, sản phẩm điện tử, công nghệ thông tin chiếm tới 79% tổng giá trị nàgnh công nghiệp. Điều đó cho thấy ngành này ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Nhu cầu cao về các sản phẩm của ngành này đã kéo theo sự phát triển của ngành đặc biệt là các ngành nh sản xuất chế biến thực phẩm ( chiếm 23,6% tổng giá trị ngành công nghiệp), dệt ( 5,6%), sản phẩm phi kim loại (9,2%), hoá chất (5,4%), sản phẩm da và giả da (4,7%). Đây cũng là những mặt hàng xuất khẩu đem lại lợi nhuận cao. Cuối cùng là ngành điện, ga và nớc các ngành này chiếm khoảng 6% tổng giá trị ngành công nghiệp, trong đó điện và ga là 5,6% còn nớc chỉ chiếm gần 0,4% sở dĩ có điều này là bởi vì nhu cầu điện cho sản xuất, sinh hoạt đang tăng lên với tốc độ rất nhanh. Đầu t vào ngành này mang lại lợi nhuận cao và hơn nữa nớc ta lại có điều kiện thuận lợi để phát triển ngành nh có nhiều con sông để xây dựng nhà máy thuỷ điện thuỷ điện, có nhiều mỏ than phục vụ cho nhiệt điện…còn đầu t vào ngành nớc lại rất hạn chế do chi phí quá cao cho việc xây dựng các nhà máy lọc và xử lý nớc, nguồn nớc sạch lại khan hiếm, một lí do nữa là do ý thức, thói quen và tập quán sinh hoạt của ngời dân. - Phát triển công nghiệp 10 năm qua đã góp phần đáng kể giữ đợc nhịp độ tăng trỏng của nền kinh tế. Trong GDP, năm 1990 công nghi ệp chiếm tỷ trọng19,1%, năm 1995 chiếm 22,5% và nm 2000 chiếm 26,9%. Việc phân bổ lao động trong công nghiệp đã có sự chuyển dịch hợp lý hơn, tạo tiền đề cho hình thành nhiều cơ sở công nghiệp, nhiều trung tâm công nghi ệp mới, trong đó đặc biệt là trên địa bàn các vùng kinh tế trọng điểm của đất nớc nh khu vực ngoại thành các đo thị lớn Hà nội, TP HCM, Đà Nẵng, Hải phòng, Đồng Nai, Bà Rịa ,Vũng Tàu, Bình Dơng, Khánh Hoà, Cần thơ, Quảng Ninh…Đã hình thành và phát triển thêm nhiều ngành công nghiệp mới, tăng khả năng cạnh tranh của công nghi ệp Việt Nam trên thị trờng nội địa và quốc tế. Các ngành này đều nhập thiết bị tiên tiến hiện đại, sản phẩm có chất lợng cao phù hợp với nhu cầu của ngời sản xuất và tiêu dùng và tham gia thị trờng thế giới. Ngoài ra chúng ta đã tập trung phát triển mạnh một số sản phẩm công nghiệp chiến lợc làm cơ sở cho sự phát triển bên vùng của công nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung nh dầu thô, điện, than, thép, xi măng, giấy, vải. Bên cạnh đó còn hình thành đợc nhiều trung tâm công nghiệp mới, Đặc biệt là trên địa bàn các vùng kinh tế trọng điểm…Đây là những cơ sở vật chất rất quan trọng để chuẩn bị cho thực hiện chiến lợc 2001-2010. Để tạo điều kiện cho các ngành trọng điểm mũi nhọn hình thành và phát triển nhanh chóng, vấn đề cực kỳ quan trọng là nhà nớc cần xây dựng và ban hành các chính sách phát triển công nghiệp một cách đúng đắn và tổ chức thực hiện chúng một cách nghiêm túc. Trong từng chính sách đó cần xác định rõ giới hạn tác động của nhà nớc, của thị trờng và của doanh nghiệp, hộ gia đình đến ngành, nghề, mặt hàng, ngành hàng sản xuất – kinh doanh. Nói chung, nhà nớc chỉ nên tập trung vào các ngành mũi nhọn, ngành trọng điểm mà ở đó cần có sự tập trung vật lực, tài lực, trí lực mới có thể phát triển đợc. - Những thành quả trên cho thấy cơ cấu công nghiệp tiếp tục có sự chuyển dịch đáng kể, song các ngành công nghiệp lại cha tạo đợc bớc đột phá về chất lợng, hiệu quả và các sản phẩm công nghiệp có chất lợng cao còn chiếm tỷ trọng nhỏ. Chính vì vậy, một sự đầu t thích đáng hơn nữa theo chiều sâu là một điều hết sức cấp bách. - Nông nghiệp vẫn là ngành chiếm vị trí hàng đầu trong cơ cấu kinh tế quốc dân ở nớc ta. Tuy không thể làm giàu bằng nông nghiệp nhng những chuyển biến tích cực của nông nghiệp đã góp phần không nhỏ vào việc giải quyết những vấn đề kinh tế – xã hội cấp thiết, đa đất nớc thoát khỏi khủng hoảng và tạo tiền đề cho những bớc phát triển mạnh hơn trong tơng lai.
  13. + Nền nông nghiệp Việt Nam đang vận động theo những xu hớng Tích cực, đang chuyển dần từ thế độc canh, tự cấp tự túc sang kinh tế thị trờng phát huy lợi thế của từng vùng sinh thái để hình thành các vùng chuyên canh. + So với yêu cầu của quá trình CNH – HĐH nền nông nghiệp Việt Nam về cơ bản cha thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, thị trờng nông thôn còn ở giai đoạn đầu của sự hình thành. + Khả năng sinh thái đa dạng cha đợc khai thác đầy đủ và có hiệu quả. Tỷ suất hàng hóa thấp. Trồng trọt, đặc biệt là trồng cây lơng thực, vẫn chiếm vị trí hàng đầu, chăn nuôi theo kiểu sản xuất hàng hóa cha phát triển mạnh. - Trong nông nghiệp, cơ cấu cây trồng vật nuôi đợc dịch chuyển theo hớng tăng tỷ trọng các loại sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, khai thác đợc lợi thế theo cây, con. Tập trung phát triển một số cây công nghiệp và ăn quả có tiềm năng xuất khẩu và sức cạnh tranh quốc tế. Tốc độ chăn nuôi tăng nhanh hơn trồng trọt, cây công nghiệp và cây ăn quả tăng nhanh hơn cây lơng thực.Đã hình thành đợc một số vùng chuyên canh phục vụ công nghiệp chế biến và xuất khẩu.Đã hình thành một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn nh gạo, cà phê, cao su, điều, tôm… - Trong ngành nông nghiệp, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra nh sau: Đơn vị: % 1990 1995 2000 Toàn ngành nông nghiệp 100 100 100 - Trồng trọt 74,4 80,4 80 - Chăn nuôi 24,1 16,6 17,3 - Dịch vụ nông nghiệp 3,0 2,7 Qua biểu trên, ta thấy tỷ trọng giữa các ngành trong toàn ngành nông nghiệp có sự thay đổi nhng sự thay đổi naỳ diễn ra khá chậm chạp. Tỷ trọng ngành trồng trọt có xu hớng giảm dần , trong khi đó ngành chăn nuôi tăng lên. Tuy nhiên mức tăng của ngành chăn nuôi tăng nhanh hơn mức giảm của ngành trồng trọt (0,7% so với 0,4%). Điều này cho thấy chăn nuôi ngày càng đợc chú trọng hơn và đang chứng tỏ là một ngành có khả năng đem lại lợi nhuận cao. - Dịch vụ là một lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế quốc dân bao hàm tất cả những hoạt động phục vụ sản xuất và đời sống dân c. Theo nghĩa đó, hoạt động dịch vụ bao hàm cả hoạt động thơng mại. Nhng thông thờng, do vị trí đặc biệt quan trọng và những đặc thù riêng, hoạt động thơng mại thờng đợc tách riêng khỏi phạm trù dịch vụ và đợc coi là một vế ngang bằng với hoạt động dịch vụ. Trong chuyên đề này thơng mại – dịch vụ đợc xem xét với t cách một ngành kinh tế thực hiện qua trình lu thông trao đổi hàng hoá và thực hiện các công việc phục vụ tiêu dùng của sản xuất và của dân c trên các thị trờng. Các ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng trong GDP từ 38,6% năm 1990 tăng lên 40,5% năm 2000, vừa đáp ứng đợc nhu cầu phát triển tổng kinh tế, vừa phục tốt đời sống, từng bớc nâng cao chất lợng phục vụ. Cơ cấu các ngành dịch vụ trong tổng giá trị dịch vụ đã có sự chuyển dịch bớc đầu: + Ngành thơng mại trong nhiều năm gần đây luôn phát triển và dẫn đầu về tỷ trọng đóng góp trong tổng giá trị ngành dịch vụ, từ 37,2% năm 1995 đến 37,3 năm 2000 + Ngành giao thông, bu điện cũng đang chứng tỏ mình là một ngành có thế mạnh và đang trên đà phát triển đóng góp vào tổng giá trị của ngành tăng từ 7,6% năm 1990 lên 9,0% năm1995 vào năm 2000 là 9,4%. Các ngành nh giao thông, y tế, quản lý nhà nớc cũng tăng từ 20% năm1995 lên 20,5% năm 2000. Trong đó khoa học và giáo dục đào tạo là hai ngành tiếp tục có tốc độ tăng trởng cao nhất trong khu vực dịch vụ (9,1% và 8,5% năm
  14. 2002), thể hiện mức độ u tiên cao, quyết tâm và nỗ lực của Chính phủ trong việc thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ. Bên cạnh đó lại có sự giảm xuống ngành tài chính, ngân hàng. Năm 1995, tỷ lệ đóng góp của ngành này là 4,6%, đến năm 2000 giảm xuống còn 4,1% và chỉ còn xấp xỉ 2% vào 2002. Điều này cho thấy sự giảm sút trong đầu t vào lĩnh vực này và đây là một điều bất cập bởi trong điều kiện kinh tế phát triển nh hiện nay thì các dịch vụ về tài chính và ngân hàng là rất quan trọng. Các ngành nh giao thông, bu điện, giáo dục, y tế… tuy phát triển nhng hầu hết đều phát triển rất chậm. Tuy nhiên, với mộtnớc mới đi vào tiến trình CNH – HĐH nh Việt Nam thì tỷ trọng 38% - 40% GDP của khu vực dịch vụ không phải là thấp ( con số tơng ứng của Trung Quốc; Inđonexia và Mianma là 33,6%; 37,1% và 32,5%). Vấn đề là ở chỗ nhà nớc cần phải có các chính sách và biện pháp phù hợp nhằm khai thác hết các tiềm năng, phát huy lợi thế và nâng cao giá trị của ngành. Nếu xét trong năm 2003 chúng ta có: Tỷ trọng trong GDP (2003) Nông nghiệp 21,80% Công nghiệp và xây dựng 39,97% Dịch vụ 38,23% ( Nguồn: Vụ kinh tế đối ngoại, Bộ kế hoạch đầu t ) Các mặt hàng xuất khẩu chính (2003): Dầu thô(19%), hàng dệt may(18%), hải sản(11%), giày dép(11%), gạo(4%), cà phê(3%), các loại khác(34%). Nếu xét trong năm 2003, tỷ trọng đóng góp trong GDP của ngành Công nghiệp vẫn chiếm cao nhất là 39,97%. Ngành Nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng thấp nhất là 21,80%. Chúng ta đã xây dựng một sống ngành công nghiệp mũi nhọn có khẳ năng xuất khẩu nh công nghiệp khai thác, công nghiệp dệt may, giày dép.... Thứ 2: Mặc dù cơ cấu ngành đã có những chuyển biến tích cực nhng sự chuyển dịch giữa các ngành và trong từng ngành còn chậm và cha hợp lý. - Sản xuất công nghiệp phát triển chậm, cha ổn định, tốc độ tăng trởng toàn ngành mới đạt bình quân hàng năm 12,2%, còn thiếu nhiều yếu tố và cơ sở cho phát triển lâu dài, hội nhập và cạnh tranh. Cơ cấu ngành công nghiệp và cơ cấu sản phẩm công nghiệp chậm chuyển dịch theo hớng hiệu quả, tăng sức cạnh tranh và phát huy lợi thế của từng ngành sản xuất công nghiệp. Việc này là do chúng ta chỉ chú trọng đến đầu t mở rộng, phát triển công suất sản xuất, chỉ coi trọng quy mô mà cha quan tâm nhiều đến đầu t nâng cao chất lợng sản phẩm, đổi mới công nghệ hiện đại nhằm đáp ứng nhu cầu phù hợp với thị trờng. Một lý do nữa khiến cho việc chuyển dịch trong ngành còn chậm chạp là do công tác dự báo, xây dựng và quản lý quy hoạch công nghiệp cha tốt, dẫn tới việc đầu t dàn trải, theo phong trào và phát triển quá mức trong một số ngành nh xi măng, mía đờng, lắp ráp xe gắn máy 2 bánh, ô tô, rợu, bia,….Điều này vừa gây lãng phí, kém hiệu quả trong đầu t, vừa gây mất cân bằng cung cầu trên thị trờng. Một ví dụ điển hình nh trong năm ngoái là ngành sắt thép đã phải chịu thua lỗ nặng nề do có quá nhiều nhà máy sản xuất, trong khi nhu cầu lại tăng không đáng kể. Hay nh hiện nay, phong trào khu công nghiệp, khu chế xuất ở các tỉnh đang phát triển rầm rộ. Kết quả bớc đầu cũng rất đáng khích lệ, nhng việc xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất này đã phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng, từng lĩnh vực hay cha, liệu nó có căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế chung hay không, thì phải cần đến sự quản lý ở cấp vĩ mô, tránh để xảy ra tình trạng nh của sắt thép, xây dựng xong lại không thể đi vào hoạt động hoặc hoạt động chỉ cầm chừng. Việc hình thành và phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp nặng mà ta có điều kiện
  15. vẫn cha thực hiện đợc. Một số ngành công nghiệp theo chốt nh cơ khí, chế tạo, công nghiệp đóng tàu, công nghiệp luyện kim phát triển chậm. Trong số các dự án đầu t vào công nghi ệp thì quy mô các dự án đầu t vào ngành công nghiệp nặng quá nhỏ nên khó có khả năng đầu t công nghệ hiện đại, mà phần lớn chỉ làm gia công, chế biến và làm dịch vụ. Sản phẩm công nghiệp làm ra tính theo đầu ngời còn thấp nhng đã có hiện tợng tồn đọng d thừa làm cho sản xuất cầm chừng. - Trong nông nghiệp, cơ cấu sản xuất cũng còn những hạn chế, bất cập và chuyển dịch rất chậm. Cho đến nay, chăn nuôi vẫn còn là ngành phụ. Giá trị sản xuất của chăn nuôi vẫn còn là ngành phụ. Giá trị sản xuất của chăn nuôi qua các năm 1999, 2000, 2001 là 18,5%; 19,3%; 19,5%. Trong khi đó con số tơng ứng của trồng trọt là: 79,2%; 78,2% và 77,8%. Tức là giá trị của chăn nuôi có tăng lên nhng cũng chỉ bằng 1/4 so với trồng trọt. Đây là 1 điều bất hợp lý bởi trong xu thế phát triển hiện nay, nhu cầu chất lợng cuộc sống tăng cao đòi hỏi chăn nuôi phải lớn hơn trồng trọt. Nguyên nhân chính của việc chăn nuôi chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ là do phơng thức chăn nuôi còn mang tính tự cung tự cấp, qui mô nhỏ, phân tán theo từng hộ gia đình, với kỹ thuật lạc hậu, tận dụng sản phẩm phụ của trồng trọt là chính, lấy công làm lãi. Cả nớc hiện có trên 10,7 triệu hộ nông nghiệp, đã chăn nuôi trên 2,8 triệu con trâu, gần 4,1 triệu con bò, trên 23,1 triệu con lợn và 233,3 triệu con gia cầm, với sản lợng thịt hơi đạt trên 2 triệu tấn. Tính đến ngày 11-10-2001, cả nớc có 1762 trang trại chăn nuôi, chỉ chiếm 2,9 tổng số trang trại và mới sản xuất đợc khoảng 1/10 sản lợng sản phẩm chăn nuôi. Do vậy, chất lợng và chủng loại sản phẩm chăn nuôi còn thấp, giá cả còn cao, cha đáp ứng đợc yêu cầu của thị trờng cả trong nớc và xuất khẩu. Tỷ lệ xuất khẩu đạt đợc còn thấp so với sản lợng sản xuất, mặc dù về số lợng gia súc, gia cầm Việt Nam đứng thứ hạng cao (Số lợng lợn đứng thứ nhất khu vực, thứ hai Châu á, thứ 5 thế giới, chỉ sau Mỹ, Trung Quốc, Braxin, Đức; số lợng Bò đứng thứ 4 khu vực, thứ 14 Châu á, thứ 53 thế giới; số lợng Trâu đứng thứ 2 khu vực, thứ 6 châu á, thứ 18 thế giới).Nói chung,sự chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp còn mang tính tự phát.Trong ngành trồng trọt, tình trạng “trồng-chặt” vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi, mỗi khi có lên xuống của giá cả trong nớc và thế giới.Đây lại là một lỗi nữa của công tác dự báo nhu cầu thị trờng và quy hoạch vùng nguy ên liệu hợp lý. Cơ cấu sản xuất của khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản mặc dù đã có chuyển dịch nhng còn chậm và mang nặng tính độc canh. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP mặc dù đã giảm từ năm 1999 đến nay, nhng vẫn còn ở mức khá cao, chiếm 81,9% năm 1999; 80,8% năm 2000 và 78,5% năm 2001. Tỷ trọng lâm nghiệp liên tục giảm sút, mặc dù lâm nghiệp có nhiều tiềm năng về rừng và đất rừng. Năm 1999, ngành này chỉ chiếm 5,6% GDP, nhng 2 năm sau con số này còn thấp hơn với trung bình mỗi năm giảm 0,1%. Tỷ trọng thủy sản từ năm 2000 đến nay đã tăng khá hơn nhng vẫn còn thấp; từ 13,8% năm 2000 lên 16% năm 2001. Tuy đã có những chuyển biến tích cực trong chuyển dịch cơ cấu, song sản xuất của các ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thuỷ sản vẫn chủ yếu là dới dạng thô và sơ chế. Đây chính là một nguyên nhân khiến cho sản phẩm của ta thờng bị ép giá và không mang lại hiệu quả xuất khẩu cao. Vì vậy việc đầu t vào các ngành công nghiệp chế biến, tăng hàm lợng khoa học công nghệ trong sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh đang là một đòi hỏi cấp bách không chỉ của riêng các sản phẩm nông nghiệp mà còn cả các sản phẩm công nghiệp, nhất là trong bối cảnh Việt Nam cần đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Cơ cấu nông thôn, nông, lâm nghiệp , thuỷ sản đã có sự chuyển dịch nhng nói chung vẫn còn chậm, vẫn mang tính thuần nông, độc canh, năng suất, chất lợng, hiệu quả thấp. Cần phải có sự tác động vào khâu giống, khâu chế biến, khâu tiêu thụ để tăng giá trị tăng thêm; chuyển vốn, chuyển nhà máy về nông thôn để chuyển dịch cơ cấu nông thôn nông nghiệp tăng thu nhập, nâng cao năng suất, hiệu quả trên cơ sở rút bớt lao
  16. động sang làm công nghiệp – dịch vụ. Nếu chúng ta không nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn thì chẳng những còn bị tụt hậu so với những nớc cùng chặng đờng mà còn khó thực hiện đợc mục tiêu cơ bản trở thành nớc công nghiệp vào năm 2020. Bên cạnh nhĩng xu thế biến đổi có tính tích cực đã nêu ra ở trên, sự vận động của nông nghiệp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng bộc lộ rõ một loạt những tồn tại, khó khăn và cản trở sau: Thứ nhất, Cơ cấu sản xuất nông nghiệp có trình độ sản xuất hàng hóa thấp kém, tính chất độc canh, quảng canh, tự cấp tự túc còn nặng nề. Thứ hai, Các bộ phận hợp thành nền nông nghi ệp (trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, ng nghiệp ) cha gắn với nhau chặt chẽ trong cơ cấu. Ngoại trừ mối quan hệ tất yếu giữa trồng trọt và chăn nuôi, tất cả các bộ phận hợp thành nền nông nghiệp phát triển rất rời rạc, thậm chí trong một số trờng hợp lại mâu thuẫn hoặc triệt tiêu nhau. Có thể dẫn ra một vài ví dụ để chứng minh: + Ở vùng núi, để giải quyết nhu cầu lơng thực, ngời ta đã tàn phá rừng làm rẫy. + Việc khai thác rừng vô tổ chức, vô kế hoạch, khai thác một cách hủy hoại tài nguyên rừng, trong khi công tác trồng và tu bổ rừng rất yếu kém. Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp không gắn chặt với việc xây dựng nông thôn. Các hoạt động phi nông nghi ệp ( tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến, thơng mại dịch vụ, giao thông vận tải....) kém phát triển. Chính sự mất cân đối này đã và đang trở thành nhân tố tiêu cực, cản trở và kìm hãm sự phát triển của bản thân nông nghiệpvà bảo đảm đời sống của nhân dân. Thứ t, giữa nông nghiệp và công nghi ệp, dịch vụ cha tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất. Trên bình diện chung có thể thấy công nghiệp có những đóng góp nhất định cho sự chuyển biến vợt bậc của nông nghiệp ở mức độ nhất định đã tạo ra những điều kiện thuận lợi hơn cho phát triển công nghiệp. Nhng đi vào khía cạnh cụ thể, có thể thấy sự chuyển biến của mối quan hệ giữa chúng để tạo lập cơ cấu kinh tế thống nhất còn chậm chạp và nhỏ bé. Một số hạn chế trong phát triển ngành nông nghiệp: Thứ nhất, Đất đai canh tác – t liệu sản xuất chủ yếu không có gì thay thế đợc – là một đại lợng có hạn và đang có xu hớng giảm dần. Hiện nay ở nớc ta việc quản lý và sử dụng đất đai đang đứng trớc một loạt mâu thuẫn. Những mâu thuẫn này không dễ gì có thể giải quyết đợc Dù đã có những mệnh lệnh cấm chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp ở những vùng trọng điểm, nhng trên thực tế, bằng cách này cách khác, diện tích đất nông nghi ệp vẫn đang bị thu hẹp mạnh. Thứ hai, Tác động tích cực của những động lực tạo ra từ những năm đầu đổi mới cơ chế quản lý đang đi dần đến đỉnh điểm của sự tới hạn. Sự giới hạn trong tác động của những động lực hiện tại còn biểu hiện trên nhiều mặt khác: + Sự cách biệt ngày càng lớn giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và mi ền núi. + Giá cánh kéo giữa hàng nông phẩm thô và hàng t liệu sản xuất (vật t nông nghiệp ), hàng tiêu dùng thiết yếu có xu hớng ngày càng mở rộng; hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu dới dạng thô hoặc chế biến đơn giản. Thực tiễn cho thấy, bên cạnh việc chú trọng áp dụng những thành tự khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học, vào sản xuất nông nghiệp, cần tìm trong những
  17. nhân tố kinh tế – xã hội những động lực trực tiếp, mạnh mẽ mới cho sự phát triển nông nghiệp và nông thôn. + Sự manh mún phân tán của kinh tế hộ hạn chế trực tiếp khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ và phát triển các vùng chuyên canh. Kinh tế hộ nông nghi ệp và nông thôn bộc lộ những nhợc điểm nhất định, mà rõ nhất là ở hai phơng diện: * Khả năng ứng dụng các thành tựu mới của khoa học công nghệ. * Khả năng hình thành và phát triển ổn định các vùng chuyên canh. + Tiềm năng thủy sản lớn nhng cha phát huy đợc thế mạnh, khả năng khai thác còn hạn chế. Trong những năm qua, thủy sản đợc phát triển khá mạnh và toàn diện trên cả phơng diện nuôi trồng, khai thác và chế biến. Nhng kết quả đạt còn nhỏ bé so với tiềm năng kinh tế của đất nớc. Tuy vậy, sự phát triển này hiện đang đơng đầu với một loạt khó khăn: * Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ đánh bắt còn thấp kém, việc đánh bắt hải sản chủ yếu mới thực hiện ở vùng biển gần, cha đủ sức vơn ra khơi xa. Việc đầu t tăng cờng co sở vật chất lại gặp khó khăn về vốn liếng và cơ cấu tổ chức. * Công nghệ chế biến thấp kém, công nghệ cjhế biến mới dừng ở mức sơ chế, giá trị kinh tế của xuất khẩu thấp. * Việc phát triển nuôi trồng thủy sản vùng nớc lợ ở nhiều vùng đã dẫn đến tình trạng tàn phá rừng tràm, rừng đớc nguyên sinh, phá hoạt môi trờng sinh thái. * Nguy cơ tiềm tàng về bất ổn định do tranh chấp vùng biển đông cùng có tác động tiêu cực đến sự phát triển khai thác thủy sản. - Ngành dịch vụ phát triển chậm so với tiềm năng và khả năng có thể khai thác đợc. Tỷ trọng các ngành dịch vụ trong GDP có xu hớng giảm, trong đó thơng nghiệp chỉ chiếm khoảng 14,5% GDP là quá thấp. Dịch vụ vận tải kho bãi, thông tin liên lạc mặc dù đã có những bớc tiến khá nhanh, nhng cũng chỉ mới chiếm gần 4% GDP. Ngành du lịch, một ngành đầy triển vọng mang lại giá trị cao với 5 di sản thiên nhiên thế giới và hàng nghìn thắng cảnh nổi tiếng có thể khai thác tốt, đặc biệt là khi Việt Nam đợc coi là điểm đến an toàn nhất Châu á. Vậy mà ngành công nghiệp không khói này cũng mới chỉ đóng góp khoảng 3,1% vào GDP. Nguyên nhân chủ yếu là do tình trạng yếu kém về cả cơ sở vật chất lẫn phơng thức hoạt động, sự quản lý lỏng lẻo và không có chiến lợc phát triển rõ ràng . Các loại hình dịch vụ khác nh tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, bu chính viễn thông, vận tải hàng không, đờng biển…cũng vẫn còn chậm phát triển và đóng góp vào GDP không nhiều. Bên cạnh những xu thế vận động tích cực đã nêu trên, sự phát triển thơng mại dịch vụ ở nớc ta cũng đã lộ rõ những tồn tại, yếu kém đó là: Thứ nhất, sự phát triển thơng mại dịch vụ cha gắn bó chặt chẽ với sự phát triển các ngành kinh tế trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành kinh tế quốc dân. Về nguyên tắc, sự phát triển tơng mại – dịch vụ phải dựa trên cơ sở sự phát triển các ngành sản xuất và có tác động tích cực đến sự phát triển các ngành ấy. Trên thực tế, sự thiếu gắn bó trong phát triển thơng mại dịch vụ với các ngành khác thể hiện trên những khía cạnh sau đây: * Cơ cấu các mặt hàng kinh doanh cha thật sự hợp lý so với cơ cấu sản xuất và cơ cấu tiêu dùng cuản toàn xã hội. Từ nhấn mạnh yêu cầu “phục vụ” trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, trong cơ chế mới, thiên hớng “Kinh doanh thuần tuý” chạy theo những mặt hàng có lợi nhuận cao, tập trung vào thị trờng thành phố, đồng bằng...bộc lộ ngày càng rõ
  18. nét. Từ đó dẫn đến tình trạng mà ngời ta vẫn gọi là thơng mại đã “bỏ trống nhiều trận địa”: Hàng t liệu sản xuất thông thờng, hàng tiêu dùng thiết yếu cho vùng cao, vùng sâu và vùng nông thôn. * Tiềm năng xuất khẩu cha đợc khai thác đầy đủ, thị trờng xuất khẩu không ổn định đã hạn chế việc sử dụng các khả năng sản xuất hiện có và có thể, Hàng nhập khẩu là nguyên vật liệu để sản xuất t liệu tiêu dùng chiếm tỷ trọng lớn. Nhiều hàng tiêu dùng nhập khẩu là những hàng hoá trong nớc có khả năng sản xuất đã gây nên khó khăn cho sản xuất trong nớc. Các t liệu lao động ( thiết bị ) nhập khẩu có trình độ thấp, cha thúc đẩy hiệu quả của qúa trình đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ của các ngành sản xuất. * Hệ thống dịch vụ phát triển mạnh, nhng chủ yếu hớng vào dịch vụ sinh hoạt. Đó là lĩnh vực có khả năng sinh lợi lớn mà rủi ro trong kinh doanh thấp. Thứ hai, với t cách là môi trờng thực hiện sự giao lu đổi đổi hàng hoá giữa các chủ thể kinh tế, hệ thống thị trờng ở nớc ta mới đang trong giai đoạn đầu của quá trình hình thành, vì thế chúng chủ yếu còn ở dạng sơ khai, manh nha và thiếu đồng bộ. Với một môi trờng nh vậy, việc phát triển sản xuất và lu thông hàng hoá tất yếu gặp những khó khăn cản trở, lợi thế từng vùng không đợc phát huy đầy đủ. Tình trạng sơ khai manh nha và thiếu đồng bộ của các thị trờng là bạn đồng hành của tình trạng thiếu hoàn thiện và đồng bộ của hệ thống chính sách và luật pháp về kinh tế. Chính trong bối cảnh đó mà những khuyết tật của thị trờng đã phát sinh và phát triển tới mức không thể không nói là mạnh mẽ. chẳng hạn, tình trạng buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả... Thật ra, việc hình thành đồng bộ thị trờng và hệ thống các chính sách, luật pháp là một quá trình. Tình trạng giao thoa, đan xen giữa cơ chế quản lý cũ và cơ chế quản lý mới trong những giai đoạn nhất định của quá trình chuyển đổi là không tránh khỏi. Nhng tình trạng ấy đã bị lợi dụng và gây ra những nhiễu loạn nhất định trong sản xuất và lu thông hàng hoá. Cũng chính trong bối cảnh này, những “ tín hiệu” phát ra từ thị trờng không phải lúc nào cũng hoàn toàn xác thực và do vậy, ngời gặp khó khăn trớc hết vẫn là các doanh nghiệp sản xuất. Thứ ba, cơ cấu thị trờng hàng hoá giữa các vùng, các khu vực phát triển không đều Trên tổng thể toàn bộ lãnh thổ đất nớc có thể thấy rằng thị trờng thành phố, các trung tâm dân c và các cửa khẩu biên giới phát triển nhanh, Nhịp độ hoạt động khẩn trơng, hàng hoá phong phú và đa dạng. Trong khi đó thị trờng nông thôn , đặc biệt là là thị trờng miền núi, vùng sâu, vùng xa rất chậm phát triển, nếu không muốn nói là tụt lùi so với những năm dới thời bao cấp. Đơng nhiên, không thể nào có sự phát triển đồng đều trên tất cả các vùng, vì khả năng, điều kiện của các vùng rất khác nhau. Song sự phát triển phiếm diện của thị trờng ở các vùng phản ánh sự phiến diện trong khai thác tiềm năng lợi thế của các vùng và trách nhiệm của thơng mại dịch vụ trong việc đáp ứng nhu cầu hàng hóa của các vùng, qua đó thực hiện sự bình đẳng về kinh tế xã hội của dân c các vùng. Trong thực tế đã xẩy ra nghịch lý tài nguy ên sơ khai ở mi ền núi (lâm sản, sản phẩm cây công nghiệp dài ngày...) bị thu hút mạnh về các thành phố, trung tâm công nghiệp lớn, trong khi các nơi khai thác tài nguy ên có trình độ kinh tế xã hội vẫn thấp kém, dân c ở đó vẫn thiếu hàng hóa tiêu dùng thiết yếu (gạo, mắm muối, vải, kim, chỉ,,,). Nói cách khác rằng hàng đi – về không cân xứng đã đào sâu thêm hố ngăn cách và làm tăng thêm sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, miền núi và miền xuôi. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế chịu tác động của nhiều yếu tố: thị trờng, tiến bộ khoa học – công nghệ, các nguồm lực, định hớng phát triển của Chính Phủ, kinh tế đối ngoại, điều kiện, môi trờng lịch sử xã hội của sự phát triển kinh tế .....ở đây xin nêu một số yếu tố ảnh hởng sau đây: 1. Thị trờng, đặc biệt là nhu cầu và tình hình cạnh tranh trên thị trờng (trong và ngoài nớc) là yếu tố có ảnh hởng trực tiếp và quyết định đầu tiên tới cơ cấu ngành của nền tế. Chính
  19. nhu cầu, cơ cấu nhu cầu và xu thế vận động của chúng đặt ra những mục tiêu cần vơn lên để thỏa mãn, là cơ sở để đảm bảo tính thực thi và hiệu quả của phơng án cơ cấu ngành của nền kinh tế. 2. Những định hớng chiến lợc và vai trò quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nớc cũng có vai trò rất quan trọng đối với việc hình thành cơ cấu ngành. Trong trờng hợp phó mặc cho sự tác động của thị trờng thì sự hình thành cơ cấu ngành mong mu ốn sẽ quá chậm, nhất là những ngành bao gồm các doanh nghiệp hoạt động không vì mục đích lợi nhuận hoặc mức lãi thấp (sản xuất hàng hóa công cộng, nguyên liệu cho công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng .....). Ngợc lại, những định hớng thiếu cơ sở khách quan. hoặc sự can thiệp quá sâu của Nhà nớc trong quá trình thực hiện đều dẫn tới chỗ hình thành cơ cấu ngành kém hiệu quả. 3. Tác động của tiến bộ khoa học – công nghệ có ảnh hởng nhiều mặt đến cơ cấu ngành của nền kinh tế. ở nớc ta, yếu tố này đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển một số ngành nh dầu khí, điện tử... làm thay đổi quy mô, tốc độ phát triển của các ngành chế biến, dịch vụ. III. Thực trạng của đầu t đối với chuyển dịch cơ cấu vùng – lãnh thổ 1. Đầu t tạo ra những chuyển biến tích cực trong kinh tế của vùng. 1.1 Đầu t đã có những tác động tới chuyển dịch cơ cấu GDP tính theo vùng. Trong những năm qua đầu t đã có những tác động tích cực tới chuyển dịch cơ cấu GDP tính theo vùng. Tỷ trọng GDP của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam tăng 1,72%, trong khi đó tỷ trong dân số của vùng này chỉ tăng 0,4% nghĩa là tỷ trọng GDP tăng nhanh hơn tỷ trọng tăng dân số. Tỷ trọng GDp vùng Tây Nguyên tăng 0,16%…trong khi tỷ trọng dân số tăng 0,87% làm cho GDP bình quân đầu ngời của Tây Nguyên so vơi cả nớc giảm đi 0,2%, cùng giảm tỷ lệ GDP bình quân đầu ngời so với cả nớc là vùng Trung du và miền núi Bắc bộ giảm đi 0,03%. Nh vậy dới tác động của cải cách đầu t, GDP của các vùng đã thay đổi theo chiều hớng tăng tỷ trọng của vùng Tây Nguyên và vùng trọng điểm kinh tế phía Nam, giảm đi ở những vùng còn lại. Bảng về chỉ tiêu GDP theo vùng Đơn vị: % GDP/ng ời so với tỷ lệ GDP này của cả nớc. 199 199 99- 199 1999 99-95 5 9 95 5 Trung du và mi ền núi B.Bộ 9,13 8,43 - 0,7 0,5 0,47 - 0,03 Tây nguyên 3,36 3,52 0,16 0,54 0,52 - 0,02 ĐB Sông cửu Long 26,6 25,9 - 0,95 0,97 0,02 9 7 0,72 Vùng KTTĐ Bắc bộ 18,3 17,9 - 1,33 1,33 0 7 9 0,38 Vùng KTTĐ miền trung 5,24 5,16 - 0,71 0,72 0,01 0,08 Vùng KTTĐ phía nam 37,2 38,9 1,72 2,62 2,72 0,1 1 3 Tổng số sáu vùng 100, 100, 0 0 (Theo nguồn: Tạp chí quản lý nhà nớc)
  20. Thực tế trong những năm qua cho thấy trong khuôn khổ sự tăng trởng, phát triển kinh tế chung của cả đất nớc là khá cao thì tốc độ giữa các địa phơng (vùng, tỉnh) là khá chênh lệch. Tốc độ tăng trởng cao nhất đạt đợc ở những Tỉnh, những vùng có các lợi thế và điều kiện phát triển sơ bộ (cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, vốn, thị trờng và tài nguyên thiên nhiên), phù hợp hơn với những đòi hỏi của cơ chế thị trờng. Đó là các thành phố lớn nh Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Quảng Ninh – là những địa phơng có cơ sở hạ tầng tơng đối tốt hơn, trình độ lao động và năng lực công nghiệp cao hơn, có lợi thế khả năng tạo vốn, về tiềm năng tự nhiên hơn xét trên quan điểm thị trờng. Với những u thế thực tế có thể khai thác và sử dụng ngay và có hiệu quả hơn nh vậy, dòng vốn đầu t, cả trong nớc lẫn ngoài nớc cũng tập trung mạnh hơn vào những địa phơng này. Trong khi đó, ở các địa phơng – nông thôn hay địa phơng – mi ền núi, ngoại trừ sự gia tăng nào đó ở nông thôn thì tốc độ tăng trởng chung thấp xa hơn các đô thị đáng kể. Xét theo vùng lớn, có tình trạng là vùng nào không có những đầu tàu công nghiệp - đô thị thực sự mạnh hoặc tơng đối thiếu hơn ccác điều kiện phát triển sơ bộ kể trên nói chung đạt một tốc độ phát triển chỉ bằng 1/2 đến 2/3 tốc độ của các vùng khác. Sự so sánh giữa 2 vùng Bắc Trung Bộ và Đông Nam Bộ minh họa rõ hơn nhận xét đó. Vùng Đông Nam Bộ nói chung có những điều kiện thuận lợi hơn hẳn vùng Bắc Trung Bộ để đạt đợc tốc độ tăng trởng cao hơn trong thời gian ngắn: có các trung tâm công nghiệp đô thị lớn và cực kỳ năng động nh Thành Phố Hồ Chí Minh, Biên Hòa, Vũng Tàu, có cơ sở hạ tầng tốt hơn, điều kiện tự nhiên cho sự phát triển, từ đất đai, khí hậu cho đến khoáng sản đều thuận lợi hơn. Trong khi đó, vùng Bắc Trung Bộ, nếu xét toàn bộ, mặc dù có các thành phố Huế, Vinh và gần đây là Thanh Hóa với t cách là những Trung tâm khu vực, rõ ràng vẫn thiếu những đô thị – công nghiệp đủ sức đóng vai trò là đầu tàu tăng trởng của vùng. Điều kiện thiên nhiên không thuận lợi cho sự phát triển nông thôn dẫn tới chỗ dân nghèo, thiếu vốn phát triển, thiếu cơ sở hạ tầng. Bảng: Cơ cấu ngành của cả nớc và của các vùng (%GDP) năm 1999: Tỷ phần Xây dựng Dịch vụ Công Nông, lâm của vùng nghiệp nghiệp trong trong GDP của GDP của trong GDP trong trong GDP cả nớc GDP vùng vùng vùng Cả nớc 22,08 28,75 7,65 41,68 Miền núi Tây Bắc 2,09 40,08 36,02 8,12 17,13 Đ.Bắc – Việt Bắc 8,56 14,13 39,15 11,02 40,16 Đ.Bằng sông 20,86 15,51 25,88 10,56 50,12 Hồng Bắc Trung Bộ 9,21 12,38 38,68 9,18 46,02 DHải mi ền Trung 8,05 14,07 34,75 8,02 48,02 Tây Nguyên 2,68 11,54 46,47 12,54 33,45 Đông Nam bộ 33,88 39,89 9,12 6,87 40,58 Tây nam bộ 19,56 11,31 51,02 4,38 38,08 (Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu t, viện chiến lợc phát triển) 1.2 Hình thành các khu công nghiệp tập trung, các vùng kinh tế trọng điểm.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2