intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Lý thuyết tài chính công: Thực trạng nợ công tại Việt Nam giai đoạn 2007-2012

Chia sẻ: Pham Xuan Hung Hung | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:23

192
lượt xem
40
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Với kết cấu nội dung gồm 3 chương tài liệu lý thuyết tài chính công "Thực trạng nợ công tại Việt Nam giai đoạn 2007-2012" giới thiệu đến các bạn thực trạng nợ công tại Việt Nam từ 2007-2012, giải pháp giải quyết nợ công tại Việt Nam. Với các bạn đang học chuyên ngành Tài chính ngân hàng thì đây là tài liệu tham khảo hữu ích.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Lý thuyết tài chính công: Thực trạng nợ công tại Việt Nam giai đoạn 2007-2012

  1. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Nợ  công là một phần quan trọng và không thể  thiếu trong tài chính của mỗi   quốc gia. Từ  những nước nghèo nhất ở  châu Phi đến những quốc gia đang phát triển   như  Việt Nam, Campuchia hay những cường quốc giàu có với trình độ  phát triển cao   như Mĩ, Nhật, EU thì đều phải đi vay để phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu và sử dụng  của chính phủ nhằm các mục đích khác nhau. Nợ công cần phải được sử dụng hợp lý,  hiệu quả và quản lí tốt, nếu không thì khủng hoảng nợ công có thể xảy ra với bất cứ  quốc gia nào tại bất kì thời điểm nào và để  lại những hậu quả  nghiêm trọng. Trong  bối cảnh nước ta đang tích cực thực hiện kế hoạch tái cấu trúc nền kinh tế quốc dân,   vấn đề  nợ  công cần được đặt ra và giải quyết một cách sáng suốt và thỏa đáng, vì   tương lai phát triển của nền kinh tế và của đất nước. Theo thống kê của Ủy ban Giám   sát tài chính Quốc gia thì tổng nợ  công của Việt Nam năm 2007 là 33,8% GDP đến  cuối năm 2011 thì tỷ  lệ này nâng lên 54.6% GDP. Tốc độ  tăng nhanh như  vậy là một   điều đáng báo động với một nền kinh tế  nhỏ, đang phát triển, phụ  thuộc nhiều vào  xuất khẩu nông sản và sản phẩm ngành công nghiệp nhẹ như nước ta. Từ thực trạng   đó đặt ra nhiều câu hỏi: Tình hình nợ công và quản lí nợ công ở Việt Nam trong 5 năm   trở lại đây như thế nào? Những điểm đạt được và những mặt hạn chế cần khắc phục  ra sao để từ đó đưa ra các giải pháp và đề xuất nhằm quản lí có hiệu quả  nợ  công ở  Lý thuyết tài chính công Trang 2
  2. Việt Nam? Đó cũng là những nội dung chính sẽ được đề cập trong bài thuyết trình của   nhóm 4:“Tình hình nợ công tại Việt Nam từ 2007 đến 2012.” Do   sự   hiểu   biết   còn   hạn  chế   về   nhiều   mặt   cũng  như   chưa   có   nhiều   kinh   nghiệm làm bài nên bài làm của nhóm có thể  có những sai sót. Mong cô nhận xét,   hướng dẫn để  nhóm có thể  rút kinh nghiệm và đạt kết quả  tốt hơn  ở  những bài làm  sau. CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1 Khái niệm Trong quá khứ, khủng hoảng nợ công cũng đã được biết đến vào đầu thập kỷ  80 của Thế kỷ XX. Năm 1982, Mê­hi­cô là quốc gia đầu tiên tuyên bố không trả được   nợ  vay IMF. Đến tháng 10/1983, 27 quốc gia với tổng số  nợ  lên tới 240 tỷ  USD đã  tuyên bố  hoặc chuẩn bị  tuyên bố  hoãn trả  nợ. Tuy nhiên, đến nay xung quanh khái  niệm và nội hàm của nợ công vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất. Theo quan điểm của ngân hàng thế  giới (WB) nợ  công là toàn bộ  những  khoản nợ của chính phủ và những khoản nợ được chính phủ bảo lãnh.Trong đó: ­ Nợ  của chính phủ  là toàn bộ  các khoản nợ  trong nước và nước ngoài của  chính phủ  và các đại lí của chính phủ;các tỉnh thành phố  hoặc các tổ  chức chính trị  trực thuộc chính phủ và các đại lí của các tổ chức này, các doanh nghiệp nhà nước.   ­  Nợ  của Chính phủ  bảo lãnh là những khoản nợ  trong nước và nước ngoài  của khu vực tư nhân do chính phủ bảo lãnh. Theo quan điểm của quĩ tiền tệ quốc tế (IMF)  nợ công bao gồm nợ của khu  vực tài chính công và nợ khu vực phi tài chính công. Trong đó: Lý thuyết tài chính công Trang 3
  3.  ­  Khu vực tài chính công gồm: Tổ  chức tiền tệ (nhân hàng trung  ương, các tổ  chức tín dụng nhà nước) và các tổ  chức phi tiền tệ  (các tổ  chức tín dụng không cho   vay mà chỉ có chức năng hỗ trợ phát triển).  ­  Các tổ  chức phi tài chính công như: Chính phủ, tỉnh thành phố, các tổ  chức  chính quyền địa phương, các doanh nghiệp phi tài chính nhà nước. Theo Luật Quản lý nợ  công  ban hành năm 2009 của Việt Nam quy định  nợ  công bao gồm: ­ Nợ  chính phủ: Là các khoản nợ  được kí kết, phát hành nhân danh nhà nước  hoặc chính phủ, các khoản nợ do Bộ Tài Chính kí kết, phát hành hoặc ủy quyền phát  hành; nhưng không bao gồm các khoản nợ  do NHNNVN phát hành nhằm thực hiện  mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. ­ Nợ  được chính phủ  bảo lãnh: Là khoản nợ của DN, tổ  chức kinh tế trong và   ngoài nước, Chính phủ đứng ra bảo lãnh. ­  Nợ  của chính quyền địa phương: Là các khoản nợ  do UBND cấp tỉnh, TP   thuộc trung ương kí kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành   Như  vậy, các khoản vay như  vay vốn ODA, phát hành trái phiếu chính phủ  (trong cũng như ngoài nước), trái phiếu công trình đô thị, hay một tập đoàn kinh tế vay   nợ nước ngoài được chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ công.  1.2 Phân loại nợ công Theo Luật Quản Lý nợ công 2009 ở Việt Nam quy định phân ra: ­ Nợ chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài,   được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay   khác do Bộ  Tài chính ký kết, phát hành, uỷ  quyền phát hành theo quy định của pháp   luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát  hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. ­ Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính,  tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. Lý thuyết tài chính công Trang 4
  4. ­ Nợ  chính quyền địa phương là khoản nợ  do  Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố  trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành. * Ngoài ra, còn phân loại dựa vào thời gian trả nợ như : ­ Nợ ngắn hạn (từ 1 năm trở xuống) ­ Nợ trung hạn (từ 1 năm đến 10 năm) ­ Nợ dài hạn (trên 10 năm) 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công Cân bằng ngân sách cơ  bản: Thâm hụt nhỏ  thì những khoản vay sẽ giảm đi  và ngược lại. ­ Lãi suất thực tế: Khi lãi suất tăng lên: các khoản vay của chính phủ sẽ trở  nên đắt hơn và khó khăn hơn. Nếu không có kế  hoạch vay nợ  rõ ràng thì sẽ  không   đảm bảo vay nợ  đúng thời hạn để  đáp  ứng cho nhu cầu đầu tư  của Chính phủ, làm   ảnh hưởng đến sự bền vững của chính sách tài khóa. ­ Tốc độ tăng trưởng thực tế: Nền kinh tế càng phát triển thì khoản vay của  Chính phủ sẽ trở nên dễ dàng hơn khi nền kinh tế tăng trưởng chậm. Ngoài ra khi kinh  tế tăng trưởng chậm, người dân cũng như  Doanh Nghiệp  thắt chặt chi tiêu hơn, việc  tích lũy ít đi và nguồn vay của Chính Phủ sẽ giảm đáng kể. Còn có thể đi kèm với lạm   phát và thất nghiệp,lúc này những khoản trả  nợ  vay đến hạn còn phải cấp bù lạm  phát. ­ Lãi suất ngoại tệ: Lãi suất ngoại tệ thực tế tăng lên thì khoản vay của CP sẽ  trở nên đắt hơn và ngược lại. ­ Tỷ  giá thực tế: Ảnh hưởng đến những khoản vay và trả  đối với nợ công khi  có những khoản vay nợ nước ngoài. Nếu tỷ giá tăng thì khoản trả nợ vay đến hạn sẽ  tăng và ngược lại. Còn khi vay nợ thì tỷ giá tăng đối với khoản vay nợ sẽ có lợi hơn  khi tỷ giá giảm. Lý thuyết tài chính công Trang 5
  5. 1.4 Các hình thức vay nợ: ­ Phát hành trái phiếu chính phủ:  Chính phủ  có thể  phát hành Trái phiếu  chính phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ  được coi là không có rủi ro tín dụng vì Chính phủ  có thể  tăng thuế  thậm chí in thêm  tiền để  thanh toán cả  gốc lẫn lãi khi đáo hạn. Trái phiếu chính phủ  phát hành bằng   ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn so với   khi phát hành bằng nội tệ vì chính phủ  có thể  không có đủ  ngoại tệ để  thanh toán và   ngoài ra còn có rủi ro về tỉ giá hối đoái. ­ Vay trực tiếp:  Chính phủ  cũng có thể  vay tiền trực tiếp từ  các ngân hàng  thương mại, các thể  chế  siêu quốc gia (Ví dụ: Quỹ  Tiền tệ  Quốc tế  (IMF), Ngân   Hàng Thế Giới (WB),…). Hình thức này thường được Chính phủ của các nước có độ  tin cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng vay nợ bằng hình thức phát hành trái   phiếu chính phủ của họ không cao. 1.5. Các công cụ vay nợ Vay nợ là biện pháp để  bù đắp thiếu hụt ngân sách  ở  tất cả  các quốc gia trên   thế  giới. Hiện nay, về cơ bản thì các nước đều có 2 hình thức vay là vay trong nước   và vay nước ngoài với các công cụ vay khác nhau. Cụ thể: 1.5.1 Vay nợ trong nước: Chủ yếu là tín phiếu kho bạc * Khái niệm: Tín phiếu là chứng chỉ vay nợ loại trái phiếu chính phủ có kỳ hạn  dưới 1 năm (thường là 3,6,9 tháng), dùng để huy động vốn bù đắp thiếu hụt tạm thời   ngân sách, được phát hành theo hình thức đấu thầu. Người sở  hữu tín phiếu được   hưởng lãi khi tín phiếu đáo hạn hoặc có lãi khi bán tín phiếu cao hơn giá mua. * Đặc điểm của tín phiếu: ­ Do kho bạc nhà nước phát hành ­ Mục đích phát hành:      • Nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời của NSNN. Lý thuyết tài chính công Trang 6
  6.   • Là công cụ quan trọng để NHTW điều hành chính sách tiền tệ. ­ Được bán thấp hơn vs mệnh giá. Thanh toán theo mệnh giá đến cuối kỳ  chứ  không trả lãi  định kỳ. ­ Có mệnh giá tối thiểu là 1.000.000 đồng (một triệu đồng ); các mệnh giá cụ  thể  cao hơn do Liên Bộ  Ngân hàng Nhà nước ­ Tài chính quy định và công bố  trong  thông báo phát hành. ­ Mức độ  rủi ro vỡ  nợ: thấp nhất trong tất các công cụ  trên TTTT. Tín phiếu   kho   bạc   thường   được   coi   là   không   có   rủi   ro   tín   dụng   (rủi   ro   phá   sản). ­   Tính   thanh   khoản(tính   lỏng):   là   công   cụ   có   tính   thanh   khoản   cao   nhất. ­ Thời hạn của tín phiếu kho bạc: thường là 3 tháng, 6 tháng,9 tháng với một   hay   nhiều   mức   mệnh   giá ­  Hình thức phát hành: ghi sổ và chứng chỉ tín phiếu   • Đối với hình thức ghi sổ: Do Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn và quản lý sổ  sách.      • Đối với hình thức chứng chỉ tín phiếu: Ngân hàng Nhà nước in theo mẫu do   Bộ Tài chính quy định . 1.5.2 Vay nợ nước ngoài: Nợ nước ngoài: gồm các khoản vay từ nhà đầu tư nước ngoài. Trong thực tế khi tiến hành thống kê và tính toán giá trị nợ công ở một số nước, trong  đó có Việt Nam, người ta thường chỉ quan tâm đến khoản nợ nước ngoài mà mặc  nhiên các khoản nợ trong nước 1.6. Quản lý nợ công Trong thời gian gần đây, công tác quản lý nợ của Việt Nam đã đạt được những  tiến bộ đáng kể, góp phần ổn định và phát triển kinh tế đất nước, cụ thể là: ­ Thông qua hoạt động vay nợ, Chính phủ  và chính quyền địa phương các cấp  đã huy động được nguồn vốn khá lớn cho đầu tư  phát triển, đồng thời vẫn đảm bảo   quản lý nợ trong các giới hạn an toàn. Lý thuyết tài chính công Trang 7
  7. ­ Hoạt động huy động vốn trong nước của Chính phủ  thông qua phát hành tín  phiếu, trái phiếu Chính phủ  cũng đã giúp hình thành thị  trường trái phiếu Chính phủ  trong nước, một thành tố khá quan trọng để hình thành thị trường tài chính hoàn chỉnh.  Trái phiếu Chính phủ  được niêm yết và giao dịch trên thị  trường chứng khoán đã góp   phần làm tăng tính thanh khoản của thị trường trái phiếu Chính phủ  nói riêng và phát   triển thị trường vốn trong nước nói chung.  ­ Trong công tác quản lý nợ, các văn bản pháp lý ngày càng được hoàn thiện,   đồng bộ  hơn và tiến gần đến các chuẩn mực và thông lệ  quốc tế, nhất là trong lĩnh  vực quản lý nợ nước ngoài. Chính phủ đã thực hiện nguyên tắc thống nhất quản lý nợ  Chính phủ, nợ  quốc gia trên cơ  sở  phân công, xác định trách nhiệm rõ ràng hơn giữa   các cơ quan quản lý.  ­ Công tác trả nợ Chính phủ trong và ngoài nước luôn được thực hiện đầy đủ,  đúng hạn, không để  xảy ra nợ  quá hạn như  những năm về  trước. Việc tích cực đàm  phán xử lý các khoản nợ cũ với các chủ nợ nước ngoài (thuộc Câu lạc bộ  Pa­ ri, Câu  lạc bộ Luân Đôn) đã giúp giảm đáng kể nghĩa vụ nợ của Việt Nam. Bên cạnh những thành công đạt được, công tác quản lý nợ  công  ở  Việt Nam  trước khi có Luật Quản lý nợ  công còn bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là chưa có sự  nhất quán các khái niệm về nợ cũng như  phạm vi quản lý nợ  trong các văn bản pháp   quy hiện hành như nợ Chính phủ, nợ khu vực công, nợ quốc gia. Việc phân loại, tổng   hợp nợ vì vậy cũng chưa theo các chuẩn mực quốc tế, việc quản lý nợ còn chồng chéo  giữa các cơ quan quản lý nhà nước, chưa có kế hoạch cụ thể để xây dựng và sử dụng  cơ sở dữ liệu về nợ công. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG TẠI VIỆT NAM TỪ 2007 ­ 2012 2.1  Thực trạng nợ công tại Việt Nam: Nợ công của Việt Nam đã và đang được dư luận xã hội hết sức quan tâm bởi nó  không chỉ liên quan đến lòng tin của người dân đối với việc sử dụng hiệu quả nguồn   Lý thuyết tài chính công Trang 8
  8. vốn đầu tư, mà còn có tác động đến cuộc chiến chống tham nhũng, lãng phí, đồng thời   ảnh hưởng tới cuộc sống của thế hệ tương lai. Diễn biến nợ công trong giai đoạn 2007­ 2011 (tính theo % GDP) ­ Nguồn Bộ   tài   chính. Theo nhiều chuyên gia, sự  nhìn nhận nghiêm khắc của giới phân tích tài chính trong  vấn đề  nợ  công Việt Nam là xuất phát từ  thực tế. Theo  Ủy ban Giám sát tài chính   Quốc gia, năm 2007, nợ công là 33,8% GDP nhưng từ 2008, tỷ lệ này nâng lên 36,2%;   2009:   41,9%;   2010:   56,7%.   Năm   2011,   tỷ   lệ   này   giảm   xuống   còn   54.6%. Như  vậy, từ năm 2007 đến hết 2011, nợ công đã tăng khoảng 25%, đạt mức trung bình  5%/năm. Với đà tăng này, chỉ cần 8 năm nữa, nợ công Việt Nam sẽ lên tới 100% GDP. Nhìn vào các số  liệu về  nợ  công, chi tiêu công và lạm phát từ  năm 2001 đến  2011, có thể vẽ ra bức tranh sơ lược về tình hình nợ  công liên quan đến chi tiêu công  của Việt Nam. Từ  năm 2001 đến 2007, tăng trưởng diễn ra thuận chiều với chi tiêu   công. Trong giai đoạn này, chi tiêu công có tác động tích cực đến tăng trưởng. Tuy   nhiên từ  năm 2007 đến 2011, mối quan hệ  này đã đảo chiều và chuyển sang  ảnh   hưởng tiêu cực. Một điều cần lưu ý, từ  năm 2007, trong khi tăng trưởng giảm sút thì chi tiêu   công của Việt Nam vẫn tăng lên và hầu như  ngay lập tức lạm phát cũng tăng nhanh  đáng kể. Nợ công chỉ  suy giảm chút ít vào năm 2008 rồi lại tiếp tục tăng vọt từ  năm  2009. Trong bối cảnh này, cách giải thích lôgíc là nguồn chi tiêu công được tài trợ chủ  yếu bằng phát hành tiền và lạm phát phản ứng của xã hội về  kỳ  vọng mất giá đồng   nội tệ. Mối quan hệ  đó có thể  được làm rõ qua số  lượng phát hành tiền trong giai   đoạn này. 2.1.1 Về quy mô nợ công  Quy mô nợ tăng nhanh Lý thuyết tài chính công Trang 9
  9. Ông Nguyễn Minh Phong nhận định, có 4 thách thức nợ công của Việt Nam. Thách thức thứ  nhất là quy mô nợ  tăng nhanh vượt dự  báo. Ông Phong dẫn ra   rằng, Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ cho biết, tính đến 31/12/2012, tỷ lệ nợ  Chính phủ là 45,7% GDP, nợ nước ngoài là 42,2%; nợ công là 57,3%. Trong kế hoạch  trình Quốc hội, đến 31/12/2011, nợ công là 54,6%, đến 31/12/2012 là 58,4% GDP. Ngày   8/11/2011, Quốc hội đă thông qua nâng trần nợ  công Việt Nam đến 2015 không quá   65% GDP, dư  nợ  của Chính phủ  không quá 50% GDP và dư  nợ  quốc gia không quá  50% GDP. Thách thức thứ hai, điều kiện nợ ngày càng ngặt nghèo hơn: trong tổng nợ công   của Việt Nam, cuối năm 2009 vay ODA chiếm tỷ  trọng 74,67%, vay  ưu  đãi chiếm   5,41%,   vay   thương   mại   19,92%....   Sang   năm   2010,   vay   nợ   với   lãi   suất   thấp   1­ 2,99%/năm chiếm khoảng 65,5% tổng dư nợ. Đặc biệt, các khoản vay có lãi suất cao từ 6­10%/năm trong năm 2010 đã lên tới  1,89 tỷ  USD, gấp hơn 2 lần năm 2009. Hiện các chủ  nợ  chính của Việt Nam vẫn là  Nhật Bản, Pháp, ADB, WB… Theo công bố của Tạp chí Kinh tế The Economist, tỷ lệ nợ công năm 2011 của  Việt Nam là 50,9% GDP, dự kiến đến năm 2012 tỷ lệ này là 49,9%. Mặc dù tỷ  lệ nợ  này vẫn nằm trong tầm kiểm soát (dưới 60%GDP theo cách tính chỉ tiêu tỷ lệ nợ công  trên GDP của Liên hiệp quốc) nhưng nó quá cao so với mức phổ  biến được khuyến   cáo  ở  các nền kinh tế  đang phát triển (từ  30­40%) và so với một số  nền kinh tế  mới   nổi như Trung Quốc (17,4%), Indonesia (25,6%).  Ngoài ra, cũng theo The Economist, mức nợ công tính trên đầu người của Việt   Nam năm 2011 là 638,55 USD, dự  kiến 2012 tăng lên 698,71 USD. Nếu so sánh với  817,22 USD (Trung Quốc), 808,52 USD (Indonesia), 4.626,4 USD (Malaysia), 1.195,29   USD (Philippines), 2.261,78 USD (Thái Lan) thì đây là con số không cao.  Lý thuyết tài chính công Trang 10
  10.  Tuy nhiên, nếu so mức nợ  công bình quân đầu người của Việt Nam vào năm  2001 xấp xỉ  112 USD; thì trong vòng 10 năm, con số này đã tăng gấp 6 lần, cho thấy   gánh nặng nợ tương lai đổ lên đầu người dân ngày càng tăng.  Tính ra từ năm 2007 đến cuối năm 2011, nợ công của Việt Nam đã tăng khoảng  25% (trung bình 5%/năm). Với khoản nợ này, căn cứ vào thời điểm đáo hạn thì từ nay  đến 2015 mỗi năm Việt Nam phải trả nợ gốc và lãi cho nước ngoài gần 1,5 tỉ USD và  mức trả nợ cao nhất sẽ rơi vào năm 2020 với con số lên đến 2,4 tỉ USD. Ngày 3/5/2011, tại Hội thảo “Tái cấu trúc đầu tư  công và tái cấu trúc doanh  nghiệp nhà nước”, Tiến sĩ Vũ Đình Ánh khẳng định quy mô nợ  công Việt Nam ngày   càng lớn và tăng nhanh trong những năm gần đây. Ông Ánh dẫn số liệu từ Bộ Tài chính cho thấy, tổng số nợ công của Việt Nam   tính đến cuối năm 2009 là 52,6% GDP (trong đó, nợ Chính phủ là 41,9%GDP, nợ Chính   phủ  bảo lãnh là 9,8%GDP, nợ của chính quyền địa phương là 0,8%GDP) nhưng đến  cuối năm 2010 đã tăng vọt lên đến 56,6%GDP.  Tuy nhiên, theo số  liệu công bố  mới nhất cũng của Bộ  Tài chính thì tính đến  cuối năm 2011, nợ  công đã giảm nhẹ, chiếm 54,6%GDP, trong đó nợ  chính phủ  là   43,6%GDP, nợ nước ngoài chiếm 41,5% GDP (tương đương 50 tỷ USD).  Theo số  liệu được cung cấp bởi Kiểm toán Nhà nước, tính đến hết năm 2010  nợ phải trả nước ngoài dùng để cho vay lại tương đương 11,2 tỷ USD, tăng hơn so với   9,203 tỷ USD năm 2009. Trong đó, số dư  mà Bộ Tài chính cho vay lại tại 11 tổ chức   cho vay lại và 7 đơn vị vay lại khoảng 8,4 tỷ USD.  Lũy kế đến hết năm 2011, số tiền Bộ Tài chính ứng trả nợ thay cho các đơn vị  được Chính phủ bảo lãnh vay công nước ngoài gần 2.437 tỷ đồng. Các hệ số an toàn của nợ công Việt Nam tuy vẫn còn trong giới hạn nhưng đã  tiệm cận ở mức cao. Dư nợ công tăng lên trong thời gian qua là do các khoản vay nợ  trực tiếp trong và ngoài nước của Chính phủ  để  bù đắp cho bội chi ngân sách nhà  Lý thuyết tài chính công Trang 11
  11. nước và do sự gia tăng nghĩa vụ nợ được Chính phủ bảo lãnh của một số tập đoàn và  tổng công ty nhà nước. Ở mỗi nước thì có tỷ lệ nợ công trên GDP là khác nhau nhưng cũng là một chỉ  số về quy mô của nợ công chứ không phải là một thước đo tốt về mức độ an toàn hay   rủi ro của nợ  công. Bởi vì, nợ  công khoảng 100% GDP đủ  để  Hy Lạp rơi vào tình   trạng phá sản, trong khi nợ công lên tới 200% GDP của Nhật Bản vẫn được coi là an   toàn. Nếu dùng con số 50% GDP để coi là mức trần ở nước này thì ở nước khác người  ta có thể sử dụng con số 80%. Như vậy, mức độ an toàn hay nguy hiểm của nợ công  không chỉ phụ thuộc vào tỷ lệ nợ trên GDP, mà phụ thuộc vào một số chỉ số khác như  xu hướng của tỷ lệ nợ công trên GDP, hiệu quả sử dụng nợ hay rộng hơn là tình trạng  sức khỏe của nền kinh tế. Theo   Đồng   hồ   nợ   công   toàn   cầu   (Global   debt   clock)   trên   trang   The  Economist.com, tính đến 13h (giờ Việt Nam) (28/9/2012), nợ công của Việt Nam đang  ở  mức trên 68,119 tỷ USD; bình quân nợ  công theo đầu người là 762,2 USD; nợ  công  chiếm 49,9% GDP. Cùng thời điểm, nợ công toàn cầu đang ở mức trên 48.947 tỷ USD. Thông số nợ công trên Global debt clock lúc 13h ngày 28/9/2012   Trước đó, số liệu mà Economist đưa ra, tổng mức nợ công của Việt Nam nằm  trong nhóm nước có mức nợ  công trung bình của thế  giới. Cụ  thể, lúc 15h30 ngày   4/9/2012, nợ  công của Việt Nam vào khoảng 67,6 tỷ  USD, tương đương 50% GDP,  tăng 11,2% so với năm 2011. Mức nợ công bình quân đầu người của Việt Nam đang là  756,9 USD. Còn nợ công toàn cầu là 48.771 tỷ USD. Chuyên gia kinh tế  Nguyễn Minh Phong cũng cho biết, dịch vụ  nợ  công Việt   Nam tăng. Tính đến 31/12/2012 nợ công sẽ  là 58,4% GDP (trong khi cuối năm 2011 là  54,6% GDP). Và dự  báo năm 2015 mức nợ  sẽ  lên tới 65% GDP, trong đó nợ  nước  Lý thuyết tài chính công Trang 12
  12. ngoài và Chính phủ  dưới 50%. Dịch vụ  nợ  nước ngoài năm 2011 là 12,5% và 2012 là   13,5% tổng thu ngân sách Nhà nước. 2.1.2 Về cơ cấu nợ công Trong cơ cấu nợ công Việt Nam, nợ nước ngoài có vai trò quan trọng và chiếm  tỷ  trọng cao nhất. Theo bản tin mới nhất của Cục quản lý nợ  và tài chính đối ngoại,  năm 2010 tính toán trong tổng nợ  công so với GDP có 42,2% GDP là nợ  nước ngoài,   tăng so với con số 39% của năm 2009 và cao nhất kể từ năm 2006, ước tính năm 2011  là 44,5%. Con số 42,2% GDP cũng cao hơn nhiều so với mức 38,8% mà Chính phủ đã  dự kiến vào cuối năm 2010.  Với việc dòng vốn đầu tư nước ngoài chiếm một tỷ  lệ  quá lớn trong cơ  cấu   vốn đầu   tư,   nền   kinh   tế   Việt  Nam   sẽ   rất   dễ   bị   tổn   thương   một   khi   kinh   tế thế  giới ngưng trệ, dòng vốn đầu tư nước ngoài bị suy giảm.  Nguồn cung cấp nợ nước ngoài chủ yếu của Việt Nam là các khoản vay ODA.  Theo danh mục nợ công năm 2009 của Bộ Tài chính, 60,3% nợ công là ODA và 29,8%  được tài trợ từ  trái phiếu trong nước. Nhiều khoản vay ODA có thời gian vay rất dài  với lãi suất ưu đãi, chẳng hạn vay WB thời hạn là 40 năm, ân hạn 10 năm và lãi suất   chỉ có 0,75% hay vay ADB thời hạn là 30 năm, ân hạn 10 năm, lãi suất 1%, vay Nhật  Bản thời hạn vay 30 năm, ân hạn 10 năm, lãi suất từ 1% ­ 2%, thông thường là 1% còn   một số  khoản cao hơn chỉ  2%. Tuy nhiên, cần hiểu rằng khi Việt Nam đã trở  thành   nước có mức thu nhập trung bình thì các điều kiện cho vay sẽ trở nên kém ưu đãi hơn   và chi phí trả lãi vay hằng năm sẽ ngày càng tăng.  Các điều khoản  ưu đãi của ODA đă giúp Việt Nam giảm bớt được áp lực nợ  công; tuy nhiên, các khoản vay  ưu đãi lại thường đi kèm với các điều khoản có liên  quan đến những ràng buộc về chính trị  và kinh tế  khác. Nợ  càng nhiều, ràng buộc về  kinh tế, chính trị cũng lớn hơn.  Khủng hoảng nợ Argentina (2001) và sự bất ổn của Hy   Lạp hiện nay là minh chứng điển hình cho tác động tiêu cực của nguồn nợ  công từ  nước ngoài. Lý thuyết tài chính công Trang 13
  13. Nợ của Chính phủ Việt Nam đang chiếm tỷ trọng lớn và có xu hướng mở rộng  đáng kể  trong những năm gần đây. Năm 2011, dư  nợ  Chính phủ  bằng khoảng 43,6%  GDP, giảm so với con số 45,7% của năm 2010 nhưng chủ  yếu là do GDP danh nghĩa   của năm 2011 tăng cao so với năm 2010 nên các hệ số nợ  khi so với GDP danh nghĩa  năm 2011 có xu hướng giảm nhẹ. Mặc dù vẫn trong giới hạn cho phép và tỷ trọng của  dư nợ chính phủ so với tổng mức nợ công có xu hướng giảm dần, nhưng tỷ trọng của  nợ chính phủ so với GDP lại có xu hướng tăng trong suốt thập niên 2000. Nợ chính quyền địa phương chủ yếu là vay nợ để đầu tư xây dựng cơ bản theo  Luật Ngân sách nhà nước 2002. Mức dư  nợ phát hành trái phiếu của chính quyền địa  phương hiện nay vẫn  ở  mức thấp, hiện khoảng 0,6% GDP. M ức d ư  n ợ  c ủa chính  quyền địa phương hiện nằm trong giới hạn quy định của Luật Ngân sách nhà nước,   không quá 30% tổng chi đầu tư xây dựng cơ bản trong nước của các địa phương. 2.1.3 Hệ số an toàn nợ giảm Thách thức thứ ba là dịch vụ nợ tăng nhanh, hệ số an toàn nợ giảm: dịch vụ nợ  nước ngoài của Việt Nam trong năm 2010 là 1,67 tỷ USD, trong đó riêng tiền lãi và chi  phí hơn 616 triệu USD, tăng gần 30% so với con số 1,29 tỷ USD của năm 2009. Nợ  nước ngoài của Việt Nam  đang lớn gấp 3 lần so với dự  trữ  ngoại hối   (khoảng 14­15 tỷ USD). Năm 2011, dự kiến trả nợ 86.000 tỷ đồng, chiếm 12,5% tổng   thu ngân sách nhà nước; năm 2012 sẽ phải trả 100.000 tỷ đồng, chiếm 13,5% tổng thu. Trong khi đó, ông Phong cho biết, nợ công của Thái Lan chỉ  có 44,1% GDP và   dự   trữ   ngoại   hối   là   176   tỷ   USD;   Indonesia,   Malaysia   nợ   công   chỉ   26,9%   GDP,   Philippines 47,3%… Ông Phong cũng dẫn ra rằng, theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ,   hiện nay tổng số dịch vụ nợ (trả  nợ cả gốc và lãi) của Chính phủ  chiếm khoảng 14­ 16% tổng thu ngân sách nhà nước. Trong khi đó, theo thông lệ quốc tế, mức dịch vụ nợ  an toàn là không quá 30% tổng thu ngân sách. Lý thuyết tài chính công Trang 14
  14. Thách thức thứ tư là đầu tư công chưa hiệu quả là nguồn gốc lớn nhất làm tăng   nợ công. Ông Phong lấy ví dụ, Việt Nam hiện có 194 khu công nghiệp, 1643 cụm công   nghiệp, 15 dự án khu kinh tế ven biển,  ước tính cần hơn 2000 tỷ  USD (bằng toàn bộ  đầu tư cả nước trong 50 năm nữa) để đầu tư. Năm 2011, cả  nước “lọt lưới” 333 dự  án mới sai đối tượng sử  dụng vốn trái  phiếu Chính phủ. Nợ của các doanh nghiệp nhà nước đang chiếm tới 70% nợ xấu của  các ngân hàng. Theo  Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, tính đến hết tháng 8/2011, nợ  xấu  toàn ngành ngân hàng ở mức trên 76.000 tỷ đồng và đang có xu hướng tăng. Trong đó,  các tổ chức tín dụng có nguy cơ mất trắng khoảng 37.000 tỷ đồng (thuộc nợ nhóm 5).  Nợ  xấu của một số ngân hàng cao hơn mức bình quân của toàn ngành là 3,21%/tổng  dư nợ. 2.1.4 Về tính thanh khoản của các khoản nợ  Các món vay nợ nước ngoài của Việt Nam phần lớn là vay nợ dài hạn và tính   thanh khoản nợ công hiện vẫn khá tốt, các khoản vay dài hạn với lãi suất thấp chiếm   tới 80% (nghĩa vụ trả nợ đến năm 2013 chiếm khoảng 10% dự trữ ngoại hối quốc gia   và nợ  nước ngoài chiếm 20% dự  trữ  ngoại hối hiện nay). Mặc dù vậy, nợ  công của   Việt Nam vẫn có thể xảy ra những rủi ro về tính thanh khoản, khi thời hạn trả nợ bị  xáo trộn (khoản nợ  từ  trung hạn và dài hạn có thể  chuyển thành ngắn hạn – trong   trường hợp các chủ nợ gặp khó khăn hay khủng hoảng kinh tế trong nước). Đặc biệt,  tính thanh khoản của những khoản nợ nước ngoài trong ngắn hạn cũng tiềm ẩn những  rủi ro khi tỷ  lệ dự trữ  ngoại hối của Việt Nam/tổng dư nợ ngắn hạn đã và đang sụt  giảm với tốc độ rất nhanh, từ mức 100 lần năm 2007 xuống còn 28 lần vào năm 2008,   còn 3 lần vào năm 2009 và chỉ còn gấp khoảng 2 lần trong năm 2010.  Bên cạnh đó, nghĩa vụ  trả  nợ  nội địa trong ba năm tới được  ước tính trên số  lượng trái phiếu Chính phủ  đã phát hành và sẽ  đáo hạn trong vòng 3 năm tới,  ước  khoảng   215.000   tỷ   đồng,tương   đương   20%   dự   toán   thu   NSNN   của   thời   điểm   đó   Lý thuyết tài chính công Trang 15
  15. (2014). Con số này khá lớn và ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách tài khóa, lạm phát  và các chính sách liên quan của Việt Nam trong giai đoạn tới. 2.1.5 Về chi phí vay nợ  Các khoản vay nước ngoài của Việt Nam đa số  đều có lãi suất thấp, trong đó  chủ yếu là ở mức 1% ­ 2,99%. Tuy nhiên so với các năm trước, năm 2010, các khoản   vay của Việt Nam có lãi suất cao hơn và khoản vay với lãi suất thả  nổi đang ngày   càng tăng lên, gây thêm áp lực nợ cho Chính phủ. Trong 25,097 tỷ USD tổng nợ nước  ngoài của Chính phủ, có 19,313 tỷ USD có lãi suất từ 1 ­ 2,99%; trên 1,678 tỷ USD chịu   lãi suất từ  3 ­ 5,99% (tăng 176 triệu USD so với 2009) và có tới 1,888 tỷ  USD  ở  mức   lãi suất 6­ 10%, tăng hơn gấp đôi so với 2009. Ngoài ra, các khoản vay với lãi suất thả  nổi cũng tăng 6,66 triệu USD so với 2009.     Theo Cục Quản lư  nợ  và Tài chính đối ngoại, lãi suất trung bình nợ  nước   ngoài của Chính phủ đă tăng từ 1,54%/năm vào năm 2006 lên 1,9%/năm trong năm 2009  và năm 2010 đạt tới 2,1%/năm. Hơn nữa cần lưu ý là các khoản vay  ưu đãi lãi suất  thấp cũng sẽ giảm đi khi Việt Nam gia nhập nhóm các nước có thu nhập trung bình,   thay vào đó là vay thương mại có lãi suất cao hơn nhiều. Với thực trạng này, rõ ràng  chi phí trả lãi đang trở thành gánh nặng ngày càng gia tăng của Chính phủ. 2.1.6  Về tiền vay nợ  Nợ nước ngoài của Việt Nam khá đa dạng về cơ cấu tiền vay. Trên lý thuyết,  điều này được cho là có thể hạn chế rủi ro về tỷ giá, giảm áp lực lên nghĩa vụ trả nợ  nước ngoài của Chính phủ. Tuy nhiên, trên thực tế cơ cấu này cũng tiềm ẩn những rủi   ro khi có biến động trên thị trường tài chính thế giới. Tỷ trọng cao của các khoản vay  bằng USD (22,16%) và JPY (38,83%)gây nguy cơ gia tăng khoản chi gốc và lãi khi tỷ  giá USD/VND luôn có xu hướng tăng; và JPY đang lên giá so với USD (Năm 2006:  1USD=116,3 Yên, năm 2010: 1USD=84,11979 Yên). Như  vậy khi đến kỳ  trả  nợ, Việt  Nam sẽ  phải dành một lượng USD lớn hơn nhiều để  mua đồng Yên trả  nợ. Và chỉ  Lý thuyết tài chính công Trang 16
  16. riêng biến động này này đă làm gia tăng tổng số nợ nước ngoài và nợ công của chúng  ta.  Như  vậy, mặc dù mức nợ công so với GDP của Việt Nam vẫn được đánh giá   là an toàn nhưng nợ  công đang  ẩn chứa nhiều rủi ro.  Khi nợ  công quá cao, bên cạnh  những hậu quả về mặt kinh tế, quốc gia còn phải đối mặt với nguy cơ suy giảm chủ  quyền, khi phải chịu những áp lực to lớn từ  phía các chủ  nợ  và các tổ  chức tài chính  quốc tế, nguy cơ bất ổn về xã hội khi Nhà nước không đảm bảo được những vấn đề  về an sinh xã hội cho người dân. Thông thường, đó là những sức ép về việc thắt chặt   chi tiêu, tăng thuế, giảm trợ cấp xã hội, khó khăn trong giải quyết thất nghiệp..và xa  hơn nữa là những yêu cầu về cải cách thể chế, thay đổi bộ máy quản lý, thay đổi các  định hướng kinh tế theo hướng tự do hoá nhiều hơn. Ngoài ra, việc lệ thuộc quá nhiều   vào các khoản vay nợ nước ngoài cũng sẽ làm giảm vị thế  của quốc gia trong các mối  quan hệ song phương cũng như đa phương với các đối tác là các nước chủ nợ.  Mặt khác, mối quan ngại về  sự  già hóa dân số  sẽ  làm cho nợ  công tăng vọt   trong những thập kỷ tới. Nguyên nhân là do lực lượng lao động bị thu hẹp sẽ làm cho   nguồn thu thuế của chính phủ bị sụt giảm, trong khi đó số người nghỉ hưu tăng lên sẽ  gây áp lực cho việc tăng chi tiêu chính phủ trong các khoản lương hưu và chăm sóc sức   khỏe…do vậy, quản lư nợ công thế  nào cho hiệu quả  là vấn đề  đáng quan tâm hàng  đầu tại Việt Nam hiện nay. 2.2 Những tác động tiềm tàng Vấn đề nợ công của Việt Nam rõ ràng đang gây ra hàng loạt các mối lo ngại từ  quy mô, đến tính an toàn và khả năng tài trợ nợ công. Khả  năng tăng trưởng kinh tế có thể  sẽ  bị  giảm xuống nếu các biện pháp can  thiệp quá nhanh và quá mạnh, có thể làm vô hiệu những chính sách kinh tế vĩ mô. Rõ ràng, nợ công  ở Việt Nam đang tăng nhanh trong khi thâm hụt ngân sách đã   trở  thành căn bệnh kinh niên, đầu tư  không ngừng mở  rộng kéo theo lạm phát và lãi   suất tăng cao khiến cho việc tài trợ nợ công ngày càng trở nên đắt đỏ và tạo áp lực tín  Lý thuyết tài chính công Trang 17
  17. dụng dài hạn. Nếu Chính phủ phải in thêm tiền để mua trái phiếu sẽ có thể khiến lãi  suất các loại trái phiếu dài hạn tăng cao thay vì hạ thấp đi và tất nhiên, tiếp tục gây áp   lực lạm phát. Nếu Chính phủ  đột ngột thắt chặt ngân sách thì sẽ  là một sai lầm bởi  nền kinh tế  vẫn  ở trạng thái yếu mặc dù tốc độ  tăng trưởng hiện nay không phải là  thấp. Việc vội vã thắt chặt ngân sách và tăng thuế  đã đẩy nền kinh tế  Nhật Bản vào  suy thoái trở  lại là kinh nghiệm đáng để Việt Nam học tập trong công tác điều hành,  quản lý vĩ mô 2.3 Nguyên nhân  Nợ  công ­ truớc hết là vấn đề  mất cân đối giữa thu và chi ngân sách quốc gia.  Việc chi nhiều quá, trong khi thu không đáp ứng nổi, chính phủ phải đi vay tiền dưới   nhiều hình thức khác nhau như phát hành công trái, trái phiếu, hiệp định tín dụng,… để  chi, từ đó dẫn đến tình trạng nợ. Thâm hụt ngân sách kéo dài làm cho nợ công gia tăng.  Nợ không trả sớm, để lâu thành "lãi mẹ đẻ lãi con" và càng ngày càng nhiều thêm. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới nợ  công.Tuy nhiên, tùy thuộc vào mỗi quốc gia   và mỗi thời kỳ mà nợ công có những nguyên nhân khác nhau nhưng hiện nay, nợ công  của các quốc gia thì xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau: • Việc gia tăng mạnh chi tiêu từ ngân sách nhà nước, lương và chi phí hoạt   động của bộ  máy nhà nước  ở  các cấp có xu hướng ngày càng lớn, các chương trình  kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng, đầu tư phát triển có sở hạ  tầng không ngừng tăng, đặc biệt, hậu quả  to lớn của cuộc khủng hoảng tài chính ­  kinh tế toàn cầu vừa qua đã buộc nhiều nước phải chi rất nhiều để khắc phục. • Sự kiểm soát chi tiêu và quản lý nợ của Nhà nước kém, không chặt chẽ,   thậm chí bị  buông lỏng, cộng thêm với tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư  và   chi tiêu, cộng với tệ nạn tham nhũng phát triển ở nhiều nước cũng trở thành một trong   những nguyên nhân dẫn tới nợ công. Các nguồn thu (chủ yếu từ thuế) tăng không kịp với nhu cầu chi, thậm chí một  số loại thuế chịu áp lực phải cắt giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau, đặc biệt như  Lý thuyết tài chính công Trang 18
  18. thuế quan và phí hải quan của hầu hết các nước phải cắt giảm hoặc loại bỏ phù hợp  với các quy định của WTO và các thoả  thuận thương mại khác mà họ  tham gia. Mặt   khác, vấn đề  quản lý các nguồn thu, nhất là từ  thuế, gặp không ít khó khăn  ở  nhiều  nước do tình trạng trốn thuế, tệ nạn tham nhũng, hối lộ, kiểm soát không chặt và xử  lý không nghiêm của các cơ quan chức năng Thông qua các chương trình đầu tư  công, nợ công của Việt Nam được chuyển  tải vào các dự án đấu tư nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng, tạo nền tảng cho sự phát triển   kinh tế  bền vững. Tuy nhiên, tình hình sử  dụng nợ  công  ở  Việt Nam không đạt hiệu   quả cao, thể hiện ở hai khía cạnh sau: Thứ nhất, tình trạng chậm trễ trong giải ngân vốn Tình trạng chậm trễ  trong giải ngân vốn đầu tư  từ  ngân sách Nhà nước và  nguồn vốn trái phiếu Chính phủ diễn ra khá thường xuyên. Theo báo cáo của Kho bạc  Nhà nước, hết tháng 10/2009, mới giải ngân được 26.586 trong số 64.000 tỷ đồng vốn  trái phiếu Chính phủ, bằng 47,5% kế hoạch năm. Tình trạng dự án, công trình thi công  dở  dang, chuyển tiếp, kéo dai, chậm tiến độ  vẫn chậm được khắc phục. Điều này  cùng với sự thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công và trong hoạt động của các doanh   nghiệp Nhà nước cũng như  các tập đoàn lớn, dẫn đến đầu tư  dàn trải, lãng phí, thất  thoát vốn đầu tư ở tất cả các khâu của quá trình quản lý dự án đầu tư. Thứ hai, hiệu quả đầu tư thấp Năm 2009, trong khi tổng  mức đầu tư toàn xã hội lên tới 42,2% GDP, thì tốc độ  tăng trưởng lại chỉ đạt 5,2%. Chỉ số ICOR năm 2009 đã tăng tới mức quá cao, trên 8 so   với 6,6 của năm 2008. Điều này có nghĩa là, nếu năm 2001 Việt Nam cần 5.24 đồng  vốn để tạo ra được 1 đồng sản lượng , thì giờ  đây cần phải đầu tư  thêm gần 3 đồng  vốn nữa. Các hệ số an toàn của nợ công Việt Nam tuy vẫn còn trong giới hạn nhưng đã  tiệm cận ở mức cao. Dư nợ công tăng lên trong thời gian qua là do các khoản vay nợ  trực tiếp trong và ngoài nước của Chính phủ  để  bù đắp cho bội chi ngân sách nhà  Lý thuyết tài chính công Trang 19
  19. nước và do sự gia tăng nghĩa vụ nợ được Chính phủ bảo lãnh của một số tập đoàn và  tổng công ty nhà nước. Việc duy trì chi đầu tư  từ  ngân sách nhà nước ở  mức cao trong giai đoạn vừa   qua đã làm gia tăng bội chi ngân sách. Bội chi ngân sách ở Việt Nam tăng ở mức trung   bình 4,0% GDP giai đoạn 1996 ­ 2000 lên 4,9% giai đoạn 2001 ­ 2005 và 5,5% giai   đoạn 2006 ­ 2011. Năm 2011, bội chi đã giảm xuống mức thấp nhất trong 3 năm qua là  nhờ  kết quả  của việc thực hiện Nghị quyết 11 về những giải pháp chủ  yếu  ổn định  kinh tế vĩ mô. Bội chi ngân sách kéo theo hệ quả trực tiếp là dư  nợ  công tăng và làm tăng chi   phí vay nợ của Chính phủ. Thêm vào đó, nguồn trái phiếu chính phủ huy động để đầu   tư  cho các công trình kết cấu hạ tầng và dự  án phát triển cũng đã góp phần làm tăng   nợ  công. Do nằm ngoài dự  toán, nên số nợ  chính phủ  thực tế  gia tăng trong thời gian   qua luôn lớn hơn số cần có để  bù đắp cho thâm hụt ngân sách. Đây cũng là lý do về  việc số bội chi ngân sách của Việt Nam khác so với tính toán của các tổ chức tài chính   quốc tế. Nợ của Chính phủ bảo lãnh cho các tập đoàn, tổng công ty nhà nước trong việc   thực hiện các dự  án phát triển (đầu tư  công) chiếm một tỷ  trọng khá lớn trong tổng  vốn đầu tư  của các doanh nghiệp nhà nước vừa qua và có xu hướng tăng lên, từ  4%   tổng dư nợ công năm 2001 lên 10% năm 2005 và đến nay là 18,6% năm, tương đương  11,6% GDP(2). Như  vậy, nhìn chung nợ  công của Việt Nam đang tăng nhanh trong bối cảnh   thâm hụt ngân sách. Về  nguyên tắc, nợ  công của ngày hôm nay phải được trả  bằng   thặng dư ngân sách của ngày mai. Do đó, dường như Việt Nam đang vi phạm nguyên   tắc quản lý nợ công bền vững. Lý thuyết tài chính công Trang 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2