Đề án lý thuyết Tài chính tiền tệ: Nghiệp vụ thị trường mở - một công cụ hữu hiệu của chính sách tiền tệ
lượt xem 44
download
Đề án lý thuyết Tài chính tiền tệ: Nghiệp vụ thị trường mở - một công cụ hữu hiệu của chính sách tiền tệ trình bày cơ sở lý luận về nghiệp vụ thị trường mở; thực trạng hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam trong thời gian qua; định hướng phát triển nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam. Để nắm vững nội dung chi tiết mời các bạn tham khảo tài liệu.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề án lý thuyết Tài chính tiền tệ: Nghiệp vụ thị trường mở - một công cụ hữu hiệu của chính sách tiền tệ
- LỜI NÓI ĐẦU Đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, phát triển và tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu quốc gia. Trong khi nền kinh tế phát triển thấp, tích luỹ từ nội bộ không nhiều, các nguồn lực của nền kinh tế chưa có điều kiện khai thác thì việc hỗ trợ của dòng vốn từ bên ngoài là rất cần thiết và đóng vai trò quan trọng đối với việc tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, để có thể thu hút dòng vốn từ bên ngoài đòi hỏi chúng ta phải thực thi hàng loạt các chính sách kinh tế có liên quan nhằm tạo môi trường cho dòng vốn được lưu chuyển dưới tác động của cung cầu tiền tệ trên thị trường. Bởi vì tiền tệ là vấn đề rất nhạy cảm, việc thực thi chính sách tiền tệ không những tác động đến tình trạng của nền kinh tế quốc gia mà còn ảnh hưởng đến các nước khác do xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế thế giới. Mặt khác, việc thực thi chính sách tiền tệ rất đa dạng, phần lớn tuỳ vào quan điểm nhận định của nhà lãnh đạo. Đặc biệt, với bất kỳ một Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) nào, việc bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền, bao giờ cũng là chức năng quan trọng nhất. Muốn hoàn thành tốt trọng trách trên, NHTƯ phải điều hành chính sách tiền tệ thông qua các chính sách và công cụ. Ngoài các chính sách vĩ mô, thông thường như các nước thường sử dụng ba công cụ quan trọng nhất, đó là: nghiệp vụ thị trường mở, tái chiết khấu và dự trữ bắt buộc. Với các nước phát triển đã từng sử dụng các công cụ để điều chỉnh cơ số tiền tệ và tạo ra những biến động trong cung ứng tiền thì nghiệp vụ thị trường mở luôn là công cụ tuyệt vời nhất, có vai trò quyết định quan trọng nhất trong số các công cụ được sử dụng.
- §Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ. Trên tinh thần đó, việc nghiên cứu, tổng kết việc thực thi chính sách tiền tệ cụ thể là hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở là điều đáng quan tâm. Nhận thức được tầm quan trọng của nghiệp vụ thị trường mở, em đã chọn đề tài: “ Nghiệp vụ thị trường mở một công cụ hữu hiệu của chính sách tiền tệ” để đi sâu tìm hiểu trong đề án môn học. Nguyên tắc chung cho phương pháp luận của đề tài là nghiên cứu một cách hệ thống các quan điểm kinh tế theo phương pháp duy vật biện chứng. Dựa trên cơ sở thống kê, lôgic và thu thập các tài liệu chuyên ngành lý thuyết tài chính tiền tệ cũng như tham khảo một số báo, tạp chí chuyên ngành, đề án được kết cấu gồm ba phần với các nội dung cơ bản sau: Phần 1: Cơ sở lý luận về nghiệp vụ thị trường mở Phần 2: Thực trạng hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam trong thời gian qua 2
- §Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ. Phần 3: Định hướng phát triển nghiệp vụ thị trường mở ở Việt NamPHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ 1. Lịch sử hình thành nghiệp vụ thị trường mở: * Những năm trước đây: Chính sách chiết khấu là công cụ đầu tiên. Khi FED được thành lập trước đây, thì việc thay đổi lãi suất chiết khấu là công cụ đầu tiên của chính sách tiền tệ FED chưa phát hiện ra nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ đầy sức mạnh để ảnh hưởng đến cung ứng tiền tệ, và đạo luật về dự trữ liên bang đã không có điều quy định nào về việc thay đổi dự trữ bắt buộc. Nguyên tắc chỉ đạo cho việc tiến hành chính sách tiền tệ là khi nào các khoản cho vay còn được cấp cho những mục đích sản xuất, nghĩa là để nâng đỡ hàng hoá và dịch vụ, thì việc cung cấp dự trữ cho hệ thống ngân hàng để nó cấp các khoản vay đó chắc là không có lạm phát. Trong thực tiễn, nó có nghĩa là FED cho các ngân hàng thương mại thành viên vay khi họ đến cửa sổ chiết khấu xuất trình các phiếu chiết khấu. Vào cuối cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, chính sách của FED tái chiết khấu các phiếu chiết khấu được và duy trì ở mức lãi suất thấp để cho kho bạc tài trợ chiến tranh đã đưa đến một cuộc lạm phát dữ dội. Trong năm 1919 và 1920, tỉ lệ lạm phát bình quân là 14%. FED quyết định sẽ không tiếp tục theo đuổi chính sách bị động theo học thuyết tín phiếu thực tế, bởi vì nó không phù hợp mục tiêu ổn định giá cả, và lần đầu tiên từ khi được thành lập, FED chấp nhận trách nhiệm đóng một vai trò chủ động để ảnh hưởng đến nền kinh tế. * Phát hiện ra các nghiệp vụ thị trường mở: 3
- §Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ. Vào những năm 1920, xảy ra một sự kiện đặc biệt quan trọng – FED phát hiện ra nghiệp vụ thị trường mở. Khi FED được thành lập, nguồn thu nhập của nó hoàn toàn chỉ là từ lãi thu được của những khoản tín dung cấp cho các ngân hàng thành viên. Sau cuộc suy thoái 19201921, khối lượng vay chiết khấu giảm sút nghiêm trọng và FED rất túng tiền. Nó giải quyết vấn đề này bằng cách mua các chứng khoán sinh lãi. Khi làm như vậy, FED phát hiện ra rằng, dự trữ trong hệ thống ngân hàng thương mại tăng lên và những khoản cho vay và tiền gửi ngân hàng tăng lên gấp bội. Kết quả đó ngày nay đối với chúng ta rất hiển nhiên nhưng đối với FED lúc bấy giờ là một phát hiện. Một công cụ mới của chính sách tiền tệ ra đời, và vào cuối những năm 1920, đó là một vũ khí quan trọng nhất trong kho vũ khí của FED. 2. Khái niệm thị trường mở: 2.1 Khái niệm: Với những lợi thế hơn hẳn các công cụ khác cho nên sau khi ra đời nghiệp vụ thị trường mở đã được áp dung rộng rãi ở hầu hết các nước phát triển. Tuy nhiên, một câu hỏi được đặt ra là: Thị trường mở là gì ? Câu hỏi tưởng chừng đơn giản, nhưng trên thực tế không phải vậy. Mặc dù khái niệm thị trường mở được chúng ta bắt đầu tiếp cận từ thời kỳ đầu đổi mới hoạt động ngân hàng và cho đến nay, NHNN Việt Nam đang thực sự sử dụng nghiệp vụ này vào việc điều hành chính sách tiền tệ ở nước ta, song để trả lời câu hỏi trên vẫn không ít người còn mơ hồ. Không ít tài liệu và sách vở của chúng ta đã viết rằng: Nghiệp vụ thị trường mở (Open Market Operation OMO) là nghiệp vụ Ngân hàng Trung Ương (NHTW) thực hiện việc mua vào hoặc bán ra các giấy tờ có giá (chủ yếu là ngắn hạn) nhằm làm thay đổi cơ số tiền tệ trệ cơ sở đó tác động đến lượng tiền cung ứng và lãi suất ngắn hạn. 4
- §Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ. Theo R. GlemHubbard Đại học Columbia thì “Nghiệp vụ thị trường mở là việc mua và bán các loại chứng khoán trên thị trường tài chính được thực hiện bởi Fed” (Money, the financial system and the economyTrang 500). Theo một tài liệu của Đại học Victoria New Zealand thì “Một nghiệp vụ thị trường mở ra xảy ra khi NHNN thay đổi cơ số tiền tệ bằng việc mua hoặc bán các chứng khoán tài chính trên thị trường mở”. Như vậy, chúng ta cần phân biệt rõ ràng các khái niệm như thị trương mở, nghiệp vụ thị trường mở, thị trường tài chính, thị trường chứng khoán. Thị trường mở là một bộ phận của thị trường tiền tệ nói riêng và thị trường tài chính nói chung. Với tư cách là nơi mua bán giấy tờ có giá thì trong lịch sử, thị trường mở tồn tại tr ước nghiệp vụ thị trường mở. Chỉ khi nào Ngân hàng Trung ương thực hiện các hình thức giao dịch giấy tờ có giá ( ngắn hạn là chủ yếu) để chủ động can thiệp vào lượng tiền cung ứng nhằm thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ thì khi đó, nghiệp vụ thị trường mở mới được coi là công cụ của chính sách tiền tệ. Thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn mà trong đó, thị trường mở chỉ là một bộ phận cấu thành và nó đem lại vẻ đẹp cho thị trường tiền tệ. Còn thị trường chứng khoán và thị trường vốn trung và dài hạn, nơi mua bán giấy tờ có giá trung và dài hạn qua đó hình thành nên thị giá chứng khoán. Do đó, có thể nói một cách rõ ràng rằng: “Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ được thực hiện bởi NHTƯ mà nội dung cụ thể của nó là mua hoặc bán các loại chứng khoán và các chứng khoán này không bị giới hạn về thời hạn như cách hiểu của chúng ta lâu nay". Với cách hiểu khái quát như vậy, nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam còn rất non trẻ. Đây là lần đầu tiên, thị trường mở hữu hiệu 5
- §Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ. ở Việt Nam trong khi các điều kiện cần thiết khác cho nó hội tụ chưa đủ, ít ra là vào thời điểm này. 2.2. Phân loại nghiệp vụ thị trường mở: Có hai loại nghiệp vụ thị trường mở: Nghiệp vụ thị trường mở năng động: nhằm thay đổi mức dự trữ và cơ số tiền tệ. Nghiệp vụ thị trường mở thụ động : nhằm bù lại những chuyển động của các nhân tố khác đã ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ. Ví dụ như thay đổi trong tiền gửi của kho bạc tại FED hoặc tiền nổi. FED tiến hành nghiệp vụ thị trường mở với chứng khoán của Kho bạc Mỹ và của các cơ quan nhà nước khác, nhất là các tín phiếu Kho bạc. 3. Nội dung hoạt động của thị trường mở: 3.1. Phạm vi thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở: Thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở là các tổ chức tín dung thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dung có đủ ba điều kiện sau: *1. Có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước (Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước hoặc chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố). *2. Có đủ các phương tiện cần thiết để tham gia nghiệp vụ thị trường mở gồm nối mạng máy vi tính với Ngân hàng Nhà nước, có máy Fax và điện thoại để giao dịch với Ngân hàng Nhà nước.... *3. Có đăng ký tham gia nghiệp vụ thị trường mở. Từ các yêu cầu trên của Thống đốc NHNN đối với các thành viên tham gia thị trường mở có thể thấy : 6
- §Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ. Thứ 1: NHTƯ muốn can thiệp trực tiếp vào lượng tiền cung ứng bao gồm cả tiền mặt và tiền gửi, về lý thuyết, thành viên tham gia mua bán trong trường hợp này được mở rộng không những chỉ gồm các TCTD mà còn cả các tổ chức khác, thậm chí có thể cả các cá nhân, miễn là họ có tiền mặt và có tiền gửi. Thứ 2: Nếu cơ sở pháp lý cho phép các tổ chức tín dụng hoạt động theo hướng đa năng như hệ thống tổ chức tín dung của nước ta thì phạm vi thành viên tham gia mở rộng đến tổ chức tín dung là đủ. Thứ 3: Khả năng chuyển tải của hệ thống thanh toán. Nếu cá nhân không có séc hoặc tiền trên tài khoản gửi tại NHTƯ thì không thể tham gia mua bán được trên nghiệp vụ thị trường mở, cho nên, nếu không có mạng kết nối với NHTƯ trong điều kiện giao dịch trên mạng thì không thể trở thành viên được. Các chủ thể tham gia: * Ngân hàng Trung ương Ngân hàng trung ương luôn là một bên chủ thể trong các giao dịch trên thị trường mở. Ngân hàng trung ương tham gia với vai trò hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ, lựa chọn các công cụ cần thiết để điều hành chính sách tiền tệ, trong đó có nghiệp vụ thị trường mở. Ngân hàng trung ương tham gia thị trường mở không phải vì động cơ lợi nhuận mà để điều tiết và quản lý thị trường, nhằm thực hiện được các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. * Ngân hàng thương mại NHTM là trung gian tài chính lớn nhất, có mạng lưới hoạt động rộng, các NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế nhất là ở các nước đang phát triển. Hơn thế nữa, NHTM còn là người huy động vốn để cho vay trên thị trường tiền tệ. 7
- §Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ. Các NHTM là thành viên chủ yếu tham gia nghiệp vụ thị trường mở của NHTW. Các NHTM tham gia thị trường mở nhằm điều hoà vốn khả dụng để đảm bảo khả năng thanh toán, cho vay khoản dư thừa để hưởng lãi. Sự tham gia của các NHTM trong các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở có ý nghĩa quan trọng xét trên góc độ hiệu quả chính sách tiền tệ. * Các tổ chức tài chính phi ngân hàng Bên cạnh các ngân hàng, ở một số nước các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng tham gia nghiệp vụ thị trường mở do NHTW tổ chức. * Các nhà giao dịch sơ cấp(Primary Dealers) Ngoài ra, trong thực tế ở hầu hết các nước 70% giao dịch của NHTW trên thị trường mở được thực hiện thông qua vai trò các nhà giao dịch sơ cấp. Trong các phiên giao dịch nghiệp vụ thị trường mở NHTW chỉ thực hiện mua (bán) giấy tờ có giá với các nhà giao dịch sơ cấp. Để thực hiện vai trò này, các nhà giao dịch phải có nguồn vốn đủ mạnh đáp ứng đúng quy định của NHTW và phải sẵn sàng thực hiện vai trò người tạo lập thị trường trong tất cả các phiên đấu thầu tín phiếu kho bạc. 3.2. Phạm vi hàng hoá được sử dung giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở: Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 42/2015/TTNHNN quy định về nghiệp vụ thị trường mở (OMO), có hiệu lực kể từ ngày 30/4/2016. Điều kiện để giấy tờ có giá được chấp nhận giao dịch trên OMO 8
- §Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ. Các loại giấy tờ có giá được Ngân hàng Nhà nước chấp nhận giao dịch nghiệp vụ thị trường mở phải có đủ các điều kiện sau: Một là: Có thể chuyển nhượng và nằm trong danh mục các loại giấy tờ có giá được giao dịch qua nghiệp vụ thị trường mở; Hai là: Thuộc quyền sở hữu hợp pháp của thành viên; Ba là: Được phát hành bằng đồng Việt Nam; Bốn là: Lưu ký trực tiếp tại Ngân hàng Nhà nước hoặc lưu ký tại tài khoản khách hàng của Ngân hàng Nhà nước tại Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam trước khi đăng ký bán giấy tờ có giá cho Ngân hàng Nhà nước; Năm là: Thời hạn còn lại của giấy tờ có giá trong giao dịch mua, bán có kỳ hạn phải lớn hơn thời hạn giao dịch mua, bán có kỳ hạn theo thông báo của Ngân hàng Nhà nước; Giấy tờ có giá chỉ được đăng ký bán trước ngày đăng ký cuối cùng thanh toán lãi và gốc giấy tờ có giá đáo hạn. Về nguyên tắc, mọi tài sản có thể mua bán trên nghiệp vụ này, vì chúng đều là tài sản thế chấp. Tuy nhiên, khác với tái cấp vốn thông qua hình thức cho vay có bảo đảm ở chỗ, tài sản thế chấp trên nghiệp vụ thị trường mở phải là tài sản có khả năng thanh khoản cao đảm bảo quản lý dễ dàng, đồng thời đáp ứng yêu cầu điều hành nghiệp vụ này nhanh nhạy, chính xác và đạt được ý muốn. Tài sản hội đủ các điều kiện như vậy chỉ có thể là các công cụ tài chính thuật ngữ gọi là giấy tờ có giá. Căn cứ Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các công cụ được sử dung để giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở hiện nay là các tín phiếu Kho bạc Nhà nước, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. 3.2.1. Tín phiếu Kho bạc Nhà nước: 9
- §Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ. Tín phiếu Kho bạc Nhà nước là một loại trái phiếu do Nhà nước phát hành với lãi suất cố định và thời hạn ấn định trước với kỳ hạn thanh toán thường 3, 6 và 12 tháng nhằm huy động vốn để bổ sung Ngân sách Nhà nước. Chúng được hoàn trả vốn khi đến hạn thanh toán hoặc chúng được thanh toán lãi do việc bán lần đầu có giảm giá. Tức là, với giá thấp hơn so với khoản tiền đã định được thanh toán khi hết hạn. Tín phiếu Kho bạc là loại lỏng nhất trong tất cả các công cụ trên thị trưòng tiền tệ, do vậy, chúng được mua bán nhiều nhất. Chúng cũng là loại công cụ an toàn nhất trong tất cả các công cụ ở thị trường tiền tệ, vì Chính phủ luôn đáp ứng được các món nợ phải trả bằng cách tăng thuế hoặc phát hành giâý bạc. Tín phiếu Kho bạc chủ yếu do các Ngân hàng nắm giữ, cũng có một lượng nhỏ các hộ gia đình, các công ty và các trung gian tài chính khác nắm giữ. 3.2.2. Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước: Để huy động được một khối lượng vốn lớn trong thời gian ngắn, phục vụ mục đích hoạt động hoặc đầu tư trung hạn cho các chương trình, Chính phủ quy định các Ngân hàng thương mại Quốc doanh phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước để thu hút vốn. Lãi suất thông thường cao hơn lãi suất gửi tiết kiệm, trả lãi trước hoặc sau. Nếu so sánh với tín phiếu Kho bạc, thì loại kỳ phiếu này có mức độ rủi ro cao hơn, do có thể các ngân hàng này không có khả năng thanh toán. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy các ngân hàng này là các ngân hàng của Chính phủ, do vậy việc mất khả năng thanh toán là rất khó có thể xảy ra. 3.2.3. Giấy chứng nhận tiền gửi của ngân hàng( CD): Giấy chứng nhận tiền gửi của ngân hàng(CD) là một công cụ vay nợ do ngân hàng thương mại bán cho người gửi tiền. Người gửi được 10
- §Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ. thanh toán lãi hàng năm theo một tỷ lệ nhất định và khi đến kỳ thanh toán, thì hoàn trả gốc theo giá mua ban đầu. Trước 1961, CD là không thể bán lại được. Năm 1966, nhằm làm cho CD lỏng và hấp dẫn những người đầu tư hơn, Citibank đă lần đầu phát hành CD bán lại được đối với những loaị có mệnh giá cao (trên 100.000 đô la). CD có thể bán lại ở thị trường cấp hai. Hiện nay, công cụ này được hầu hết các ngân hàng thương mại lớn phát hành và thu được thành công to lớn với tổng số dư gần đây vượt quá tổng số dư của tín phiếu Kho bạc. Chúng là nguồn vốn đặc biệt quan trọng mà các ngân hàng thương mại thu hút được từ các công ty, các quỹ tương trợ thị trường tiền tệ, các tổ chức từ thiện và các cơ quan của Chính phủ. 3.2.4 Th¬ng phiÕu Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian xác định. Đây là giấy nhận nợ được phát hành bởi các doanh nghiệp nhằm bổ sung nhu cầu vốn ngắn hạn. Luật và pháp lệnh thương phiếu ở các nước đảm bảo tính chất an toàn cho công cụ này bằng các quy định về điều kiện được phép phát hành thương phiếu. Thương phiếu là tài sản có đối với người sở hữu; Có thể là ngân hàng (thông qua các hành vi chiết khấu hoặc cho vay có bảo đảm bằng thương phiếu) hoặc các tổ chức phi ngân hàng trong quan hệ thanh toán trực tiếp (cơ chế bảo lãnh của ngân hàng làm cho thương phiếu có tính chuyển nhượng cao và vì thế được chấp nhận dễ dàng trong thanh toán của các tổ chức này). Vì vậy, việc mua bán thương phiếu của Ngân hàng Trung ương sẽ ảnh hưởng mạnh đến dự trữ của các ngân hàng hoặc tiền gửi của các khách hàng tại ngân hàng thương mại. 11
- §Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ. 3.2.5 Trái phiếu chính quyền địa phương Tương tự như trái phiếu Chính phủ, nhưng trái phiếu chính quyền địa phương khác thời hạn và các điều kiện ưu đãi liên quan đến trái phiếu. Thông thường người sở hữu trái phiếu của chính quyền địa phương được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập trái phiếu. Sự can thiệp của NHTW qua việc mua bán trái phiếu loại này cũng tương tự như trái phiếu Chính phủ. Chính quyền địa phương phát hành trái phiếu là để tài trợ cho chi tiêu của họ và thường chỉ có chính quyền địa phương lớn phát hành. Loại chứng khoán này được các nhà đầu tư ưa chuộng và các NHTM thường dùng loại chứng khoán này tái chiết khấu tại NHTW. 3.2.6 Các hợp đồng mua lại Đây là những món vay ngắn hạn trong đó tín phiếu kho bạc được dùng làm vật đảm bảo cho tài sản có mà người cho vay nhận được nếu người đi vay không thanh toán được nợ. Phần lớn các hợp đông mua lại là do người kinh doanh thực hiện qua đêm, người kinh doanh là ngân hàng hoặc tổ chức phi ngân hàng thường vay để tài trợ cho tình hình vốn của họ. Các hợp đồng mua lại cũng có thể hiểu là các nghiệp vụ trên thị trường mở. 3.3. Vấn đề giá và lãi suất bao gồm giá mua và bán trên thị trường mở: Giá và lãi suất là hai đại lượng ngược chiều nhau. Lãi suất cao thì giá thấp và ngược lại, lãi suất thấp thì giá cao. Tuỳ lợi ích của việc mua hay bán mà xếp trật tự ưu tiên theo giá từ thấp đến cao, hoặc theo lãi suất từ cao xuống thấp đối với trường hợp mua. 3.3.1. Trường hợp bán có kỳ hạn kèm theo hợp đồng bán và mua lại: 12
- §Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ. a) Giá bán giữa Ngân hàng Nhà nước với các tổ chức tín dụng xác định theo công thức sau: Gđ: Giá bán GT: Giá trị của giấy tờ có giá khi đến hạn thanh toán T: thời hạn còn lại của giấy tờ có giá khi đến hạn thanh toán L: Lãi suất thống nhất hoặc lãi suất riêng lẻ (trường hợp đấu thầu lãi suất)hoặc lãi suất do ngân hàng nhà nước thông báo (trường hợp đấu thầu khối lượng ) tại phiên đấu thâù, tính theo % năm. 365: số ngày qui ước của một năm GT Gđ = L x T 1 + 365 x 100 b). Giá mua lại giữa Ngân hàng Nhà nước với các tổ chức tín dụng xác định theo công thức sau: L x Tb Gv = Gđ x ( 1 + ) 365 x 100 Gv: Giá mua lại Gđ: Giá bán L: Lãi suất thống nhất hoặc lãi suất riêng lẻ ( trường hợp đấu thầu lãi suất ) hoặc lãi suất do ngân hàng nhà nước thông báo (trường hợp đấu thầu khối lượng) tại phiên đấu thầu, tính theo % năm. Tb: thời hạn bán (số ngày) 13
- §Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ. 365: số ngày quy ước của một năm 3.3.2. Trường hợp mua hoặc bán hẳn giấy tờ có giá giữa ngân hàng nhà nước với các tổ chức tín dụng Giá mua hoặc giá bán hẳn giấy tờ có giá được áp dụng như công thức quy định tại mục a nêu trên. 3.4. Phương thức giao dịch: Là phương thức giao dịch thể hiện tính linh hoạt của công cụ nghiệp vụ thị trường mở mà các công cụ khác không thể có được. Nghiệp vụ thị trường mở cho phép mua hoặc bán với số lượng, thời gian Giao dịch và một phương pháp giao dịch tuỳ ý, phù hợp yêu cầu chính sách tiền tệ. Khi dự báo cho thấy vốn khả dụng không thay đổi biểu hiện một sự trì trệ trong lưu thông tiền tệ trong trường hợp như vậy phương thức giao dịch sẽ là mua bán hẳn giấy tờ có giá, nhằm tạo ra một sự chuyển động tiền tệ ban đầu cần thiết. Ngoài ra, nghiệp vụ mua bán hẳn cho phép sửa sai bằng cách đảo ngược giao dịch. Khi dự báo cho thấy vốn khả dụng thay đổi thất thường do nhiều nguyên nhân như thời tiết, thiên tai.. để đảm bảo hạn chế sai sót trong việc cung ứng tiền tệ, phương thức giao dịch được áp dung sẽ là phương thức mua bán có kỳ hạn gọi là hợp đồng mua lại. Kết thúc thời hạn hợp đồng,vốn khả dung cũng đồng thời giảm xuống. 3.5. Trình độ phối hợp giữa các công cụ trong điều hành chính sách tiền tệ: Ảnh hưởng đến hiệu quả của nghiệp vụ thị trường mở đó là trình độ phối hợp giữa các công cụ điều trong điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là giữa nghiệp vụ thị trường mở và công cụ cho vay tái cấp vốn không có bảo đảm bằng giấy tờ có giá hoặc giấy tờ có giá chất lượng thấp, thực chất là cho vay tái cấp vốn theo chỉ định hiện nay là một loại 14
- §Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ. tín dung không phải ai cũng có quyền vay. Vì vậy, TCTD được vay sẽ có nhiều lợi thế trong giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở, một khi tổ chức đó tìm được nguồn vay với giá rẻ có thể sử dung để mua giấy tờ có giá với lãi suất có lợi hơn trên nghiệp vụ thị trường mở. Điều này không những tạo ra một sân chơi thiếu bình đẳng giữa các thành viên mà còn làm cho mục tiêu kích cầu tín dung không thực hiện được. Để chống sự lạm dụng này, NHTƯ các nước thường xét đơn vay rất nghiêm ngặt, mặt khác áp dung cơ chế nâng lãi suất thị trường vay để kích thích các TCTD ưu tiên bán giấy tờ có giá trên nghiệp vụ thị trường mở. Khi lượng giấy tờ có giá không còn để bán, lúc đó NHTƯ mới giảm đần lãi suất vay đến mức ngang bằng lãi suất trên nghiệp vụ thị trường mở. 3.6. Công nghệ thông tin và hệ thống thanh toán: Góp phần không nhỏ để nghiệp vụ thị trường mở hoạt động có hiệu quả đó là công nghệ thông tin và hệ thống thanh toán. Việc kết nối theo một chương trình phần mềm hiện đại trong nội bộ NHTƯ, giữa Trưởng ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở, các uỷ viên và người trực tiếp điều hành sàn giao dịch; giữa NHTƯ và các ngân hàng thành viên, bảo đảm thực hiện các công đoạn giao dịch từ khi công nhận thành viên, đăng ký chữ ký điện tử, thông báo mời thầu, đăng ký giấy tờ có giá, xét thầu, thông báo kết quả đấu thầu, tạo lập và ký hợp đồng mua lại, đến khâu thanh toán chuyển tiền và làm các loại thông báo, báo cáo... 4. Các hình thức giao dịch chủ yếu trên thị trường mở: Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở quyết định mỗi phiên giao dịch chỉ áp dung một trong hai phưong thức sau: 4.1. Bán và cam kết mua lại ( giao dịch có kỳ hạn ): Là việc bên bán ( Ngân hàng Nhà nước hoặc tổ chức tín dung ) bán và chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá cho bên mua ( tổ chức tín 15
- §Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ. dung hoặc Ngân hàng Nhà nước ) đồng thời cam kết mua lại và nhận quyền sở hữu giấy tờ có giá đó sau một thời hạn nhất định. Các hợp đồng mua lại thích hợp với điều kiện khó dự báo vốn khả dung, có thể can thiệp linh hoạt việc cung ứng vốn khả dung khi thời hạn hợp đồng chấm dứt. Hợp đồng mua lại (mua bán có kỳ hạn) đồi hỏi trình độ, kiến thức cao của cả NHNN và các TCTD, mà điều này chưa chín muồi ở Việt Nam. 4.2. Phương thức mua bán hẳn: Là việc mua, bán và chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá từ bên bán cho bên mua và không kèm theo thoả thuận mua, bán lại giấy tờ có giá. Việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở dưới hình thức mua bán hẳn sẽ làm tăng tỉ lệ cung ứng tiền của NHTƯ qua quan hệ tín dung, làm yếu khả năng điều tiết của NHTƯ, gây biến động lớn tới thị trường chứng khoán theo chiều hướng không tốt khi mà thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất nhỏ bé và yếu ớt. Nếu như Ngân hàng Trung ương mua hẳn tín phiếu Kho bạc, trái phiếu Kho bạc thì lượng tiền tệ trong lưu thông sẽ thay đổi, khả năng tiền tệ hoá thâm hụt ngân sách sẽ xảy ra. Vì vậy, NVTTM có tính linh hoạt cao trong thực tế sử dung, mà phương thức mua bán hẳn chỉ phù hợp với giai đoạn đầu. 5. Cơ chế tác động tới lượng tiền cung ứng của nghiệp vụ thị trường mở: 5.1. Khái niệm lượng tiền cung ứng: Lượng tiền cung ứng (MS) là tổng các phương tiện tiền tệ, bao gồm tiền mặt và tiền gửi không kỳ hạn tại các Ngân hàng thương mại (NHTM). 16
- §Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ. Để dẫn ra một mô hình của quá trình cung ứng tiền tệ, người ta phân biệt các khối lượng tiền trong lưu thông. Sự phân chia tuỳ theo mỗi nước, nhưng cách phân chia phổ biến là: M1: Bao gồm tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng và tiền gửi không kỳ hạn tại các ngân hàng. M2: Bao gồm M1 cộng với các khoản tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn tại các ngân hàng. M3: Bao gồm M2 cộng với các khoản tiền gửi tại các định chế tài chính khác. Khối tiền tệ L: bao gồm M3 và các loại giấy tờ có giá trong thanh toán. 5.2. Cơ chế tác động: Một cách mà NHTƯ tạo ra các thay đổi của cơ số tiền tệ là mua hoặc bán các trái khoán chính phủ thông qua một nghiệp vụ thị trường mở. Việc mua trái khoán do NHTƯ thực hiện được gọi là mua trên thị trường mở, trong khi việc bán trái khoán do NHTƯ thực hiện được gọi là bán trên thị trường mở. 5.2.1. Mua trên thị trường mở từ một ngân hàng: Một doanh nghiệp mua 100 triệu đồng trái khoán từ một ngân hàng và thanh toán các trái khoán ấy bằng môt séc 100 triệu đồng. Ngân hàng đó hoặc sẽ gửi tờ séc đó vào tài khoản của mình ở NHTƯ hoặc đổi lấy tiền mặt, đây sẽ được coi là tiền két. Dù hành động theo cách nào ngân hàng này sẽ thấy bản thân có thêm 100 triệu đồng tiền dự trữ và giảm 100 triệu đồng tiền tài sản chứng khoán. Hệ thống ngân hàng. Tài sản có Tài sản nợ Chứng khoán –100 Tiền dự trữ +100 17
- §Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ. Trong khi ấy, NHTƯ thấy rằng tài sản nợ của mình đẵ tăng thêm 100 triệu đồng là tiền dự trữ, đồng thời tài sản có của NHTƯ đã tăng thêm100 triệu đồng chứng khoán. Tài khoản T của NHTƯ lúc này: NHTƯ Tài sản có Tài sản nợ Chứng khoán +100 Tiền dự trữ +100 Kết quả thực của việc mua trên thị trường tự do này là tiền dự trữ đã tăng thêm 100 triệu đồng. Vì lúc đó không có thay đổi nào về đồng tiền lưu hành nên cơ số tiền tệ cũng đã tăng thêm 100 triệu đồng. 5.2.2. Mua trên thị trường mở từ giới phi ngân hàng: Trường hợp 1: giả sử rằng 1 cá nhân hay 1 công ty bán 100 triệu đồng trái khoán cho NHTƯ vào 1 ngân hàng địa phương. Tài khoản của công chúng đó sau giao dịch này là : Giới phi ngân hàng Tài sản có Tài sản nợ Chứng khoán 100 Tiền gửi có thể phất séc +100 Sau khi ngân hàng này nhận séc ấy, nó ghi có cho tài khoản của người gửi tiền và sau dố gửi tấm séc ấy vào tài khoản của mình ở NHTƯ. Tài khoản T của hệ thống ngân hàng trở thành : Hệ thống ngân hàng 18
- §Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ. Tài sản có Tài sản nợ Tiền dự trữ +100 Ti ền g ửi có thể phát séc +100 Tác dung đối với bản quyết toán tài sản của NHTƯ là ở chỗ nó đã thêm được 100 chứng khoán trong coọt tài sản của nó, trong khi ấy , nó tăng thêm 100 tiền dự trữ ở cột tài sản nợ của nó. NHTƯ Tài sản có Tài sản nợ Chứng khoán +100 Tiền dự trữ +100 Như tài khoản T ở trên, khi tấm séc đó của NHTƯ được gửi vào một ngân hàng, kết quả thực của vụ mua từ một giới phi ngân hàng trên thị trường mở là tương tự với vụ mua từ một ngân hàng trên thị trường mở. Tiền dự trữ tăng thêm 100 triệu đồng từ vụ mua trên thị trường mở và cơ số tiền tệ cũng tăng thêm 100 triệu đồng đó. Mặt khác, nếu cá nhân hoặc công ty ấy bán trái khoáncho NHTƯ đổi tờ séc của NHTƯ lấy tiền mặt tại một ngân hàng địa phương hoặc tại một ngân hàng dự trữ liên bang, thì tác dung đối với tiền dự trữ khác nhau. Cá nhân ấy sẽ nhận 100 triệu đồng tiền mặt trong khi tài sản chứng khoán của anh ta giảm 100 triệu đồng. Tài khoản T của cá nhân ấy sẽ là : Giới phi ngân hàng Tài sản có Tài sản nợ Chứng khoán: 100 Tiền mặt: +100 19
- §Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ. Khi NHTƯ nhận thấy rằng nó đã trao đổi 100 triệu đồng tiền mặt lấy 100 triệu đồng tiền chứng khoán, do đó tài khoản T của nó là: NHTƯ Tài sản có Tài sản nợ Các chứng khoán +100 Đồng tiền lưu hành +100 Kết quả thực của vụ mua trên thị trường mở trong trường hợp này là tiền dự trữ không thay đổi, trong khi đồng tiền lưu hành tăng thêm 100 triệu đồng. Như vậy cơ số tiền tệ tăng thêm số tiền 100 triệu đồng từ vụ mua trên, trong đó khi ấy tiền dự trữ không tăng. Sự phân tích trên cho thấy tác dụng của một vụ mua trên thị trường mở với tiền dự trữ khác đi tuỳ theo việc người bán các trái khoán đó giữ món tiền thu được dưới dạng tiền mặt hoặc là dưới dạng tiền gửi. Nếu số tiền thu được ấy giữ ở dạng tiền mặt, vụ mua trên thị trường mở này không có tác dung gì đến tiìen dự trữ; nếu số tiền thu được ấy giữ dưới dạng tiền gửi, thì tiền dự trữ tăng thêm một số tiền của vụ mua trên thị trường mở đó. Tuy nhiên tác dụng của một vụ mua trên thị trường mở đối với cơ số tiền tệ luôn luôn như nhau, dù tiền thu được từ vụ bán đó được giữ ở dạng tiền gửi hay tiền mặt. Tác động của một vụ mua trên thị trường mở đối với tiền dự trữ là không chắc chắn hơn nhiều so với tác dung của nó đối với cơ số tiền tệ. 5.2.3. Bán trên thị trường mở: Nếu NHTƯ bán 100 triệu đồng trái khoán cho một ngân hàng hay một giới phi ngân hàng cơ số tiền tệ sẽ giảm 100 triệu đồng. Ví dụ, nếu NHTƯ bán các trái khoán đó cho một cá nhân, cá nhân đó thanh toán các 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ: Một số giải pháp phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam
41 p | 2809 | 1299
-
Đề án môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ: Vốn của ngân hàng thương mại và các giải pháp tạo lập vốn cho ngân hàng thương mại ở VN
55 p | 1123 | 539
-
ĐỀ ÁN " MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ SỰ VẬN DỤNG THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở VIỆT NAM"
34 p | 835 | 295
-
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ - Đề tài: Lạm phát trong nền kinh tế thị trường
33 p | 1275 | 265
-
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ: Xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
23 p | 563 | 235
-
Đề án môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ: Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM VN
66 p | 467 | 155
-
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ: Huy động vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong những năm gần đây
24 p | 451 | 148
-
Đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ: Xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Thương mại VN
22 p | 616 | 143
-
Luận văn thạc sỹ kinh tế: Ứng dụng lý thuyết tài chính hành vi để lý giải cho những bất thường trên thị trường chứng khoán Việt Nam
0 p | 415 | 129
-
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP " ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ"
45 p | 612 | 112
-
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ: Hàng hóa của thị trường chứng khoán
30 p | 272 | 84
-
Đề án: Lý thuyết chung về hệ thống ngân hàng thương mại
16 p | 319 | 64
-
ĐỀ ÁN VỀ LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
49 p | 280 | 52
-
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ: Nghiên cứu thực trạng phát triển các công cụ của TTTC ở VN
34 p | 146 | 34
-
DỒ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ-ĐỀ TÀI: “ Bản chất của thuế giá trị gia tăng”
46 p | 165 | 34
-
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
49 p | 140 | 22
-
Đề án tốt nghiệp Tài chính Ngân hàng: Quản Trị rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay ngắn hạn đối với khách hàng doanh nghiệp tại ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam – Chi nhánh Tân Định
89 p | 10 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn