intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

ĐỀ TÀI : CHỨC NĂNG CỦA NHTW VÀ VIỆC THỰC THI CSTT Ở VIỆT NAMTW và thực thi CSTT

Chia sẻ: Nguyenhuu Dang | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:63

128
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

NHTW là một định chế tài chính công cộng thực hiện nhiệm vụ phát hành tiền và điều tiết lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế, góp phần ổn định và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc dân., điều này thể hiện thông qua các chức năng của ngân hàng trung ương: độc quyền phát hành tiền, ngân hàng của các ngân hàng và ngân hàng trung ương là ngân hàng của chính phủ, trong đó chức năng phát hành tiền là chức năng cơ bản nhât mà không có một tổ chức nào thay thế được. Để Ngân hàng trung ương có...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: ĐỀ TÀI : CHỨC NĂNG CỦA NHTW VÀ VIỆC THỰC THI CSTT Ở VIỆT NAMTW và thực thi CSTT

  1. BÀI THẢO LUẬN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ CHỨC NĂNG CỦA NHTW VÀ VIỆC THỰC THI CSTT Ở VIỆT NAM MỤC LỤC I. NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG...............................................................................................4 1.1. Lịch sử hình thành và phát triển............................................................................................4 1.1.1. Các giai đoạn phát triển của ngân hàng đến khi ra đời NHTW......................................4 1.1.2. Lịch sử hình thành ngân hàng nhà nước Việt Nam...........................................................5 1.2. Chức năng của Ngân hàng trung ương.................................................................................9 1.2.1. Chức năng của NHTW........................................................................................................9 1.2.2. Chức năng NHNN Việt Nam............................................................................................10 1.3. Các mô hình tổ chức của ngân hàng trung ương...............................................................18 1.3.1. Ngân hàng trung ương độc lập với chính phủ................................................................18 1.3.2. Ngân hàng trung ương trực thuộc chính phủ..................................................................19 1.3.3. Ưu nhược điểm của từng mô hình .................................................................................20 II. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ........................................................................................................30 2.1. Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ.............................................................................30
  2. 2.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ .........................................................................................31 2.2.1. Mục tiêu cuối cùng của CSTT.........................................................................................31 2.2.2. Mục tiêu trung gian của CSTT.........................................................................................34 2.2.3. Mục tiêu hoạt động của CSTT........................................................................................35 2.3. Các quy tắc CSTT................................................................................................................36 2.4. Các công cụ của CSTT........................................................................................................38 2.4.1. Kiểm soát hạn mức tín dụng...........................................................................................39 2.4.2. Chính sách lãi suất.............................................................................................................40 2.4.3. Dự trữ bắt buộc................................................................................................................41 2.4.4. Chính sách tái cấp vốn......................................................................................................43 2.4.5. Thị trường mở...................................................................................................................46 III. THỰC TRẠNG THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY........49 3.1. Quy tắc điều hành CSTT của NHNN Việt Nam...............................................................49 3.2. Thực trạng sử dụng công cụ trong điều hành CSTT ở Việt Nam...................................50 3.2.1. Kiểm soát hạn mức tín dụng...........................................................................................50 3.2.2. Chính sách lãi suất.............................................................................................................54 3.2.3. Dự trữ bắt buộc................................................................................................................61 3.2.4. Chính sách tái cấp vốn......................................................................................................64 3.2.5. Thị trường mở...................................................................................................................68 IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VÀ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.......................................73 4.1. Giải pháp cho hệ thống ngân hàng.....................................................................................73 4.1.1. Cải cách NHTW................................................................................................................73 4.1.2. Cải cách hệ thống NHTM................................................................................................73 4.2. Giải pháp chính sách tiền tệ................................................................................................74 4.2.1 Một số định hướng cơ bản...............................................................................................74 4.2.2. Giải pháp của NHNN để giúp thị trường ổn định và khởi sắc....................................75 4.2.3. Điều hành cung ứng tiền tệ.............................................................................................77 4.2.4. Phối hợp đồng bộ giữa chính sách tiền tệ với các chính sách vĩ mô khác..................78
  3. I. NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG NHTW là một định chế tài chính công cộng thực hiện nhiệm vụ phát hành tiền và điều tiết lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế, góp phần ổn định và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc dân., điều này thể hiện thông qua các chức năng của ngân hàng trung ương: độc quyền phát hành tiền, ngân hàng của các ngân hàng và ngân hàng trung ương là ngân hàng của chính phủ, trong đó chức năng phát hành tiền là chức năng cơ bản nhât mà không có một tổ chức nào thay thế được. Để Ngân hàng trung ương có thể thay mặt chính phủ thực hiện tốt chức năng điều tiết lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế, ngân hàng trung ương phải sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ như: lãi suất chiết khấu và tái chíết khấu, tỷ lệ dự trữ, hạn mức tín dụng, thị trường mở… 1.1. Lịch sử hình thành và phát triển: 1.1.1. Các giai đoạn phát triển của ngân hàng đến khi ra đời NHTW: Ngân hàng được hình thành và phát triển trong một quá trình lâu dài trãi qua nhiều hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử loại người. Mầm móng của ngân hàng xuất hiện ở thời kỳ trung cổ. Trong thời kỳ này, mỗi quốc gia, thậm chi mỗi địa phương có một loại tiền riêng và chỉ sử dụng trong phạm vi địa phương hay quốc gia mình. Tình trạng này đã gây trở ngại và khó khăn cho việc trao đổi, buôn bán hàng hóa. Để thoát khỏi vấn đề này, một tầng lớp trung gian đã xuất hiện-tầng lớp thương nhân chuyên làm nghề đổi chác tiền tệ. Những người này có trong tay các loại tiền của các địa phương trong một quốc gia, thậm chí của một số quốc gia. Do số lượng khách hàng đổi tiền ngày càng nhiều nên trong tay những người chuyên làm nghề đổi chác tiền tệ đã tập trung được một khối lượng vốn khá lớn, nhờ đó họ mở rộng hoạt động của mình: làm thêm nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay. Như vậy là trong sự phân công tự phát của xã hội, bên cạnh tầng lớp thương nhân thông thường đã xuất hiện một tầng lớp thương nhân đặc biệt chuyên lấy tiền tệ làm đối tượng hoạt động, đó là tiền thân của ngành ngân hàng. Sản xuất và trao đổi hàng hóa ngày càng phát triển đã dẫn đến những quan hệ giao dịch về tiền tệ ngày càng phát triển và đa dạng, do đó bên cạnh nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay lấy lãi, những thương nhân đổi tiền đã làm luôn cả việc thanh toán thay cho khách hàng, giúp họ tránh khỏi những rủi ro do mang tiền từ địa phương này sang địa phương khác. Như vậy, những thương nhân đã dần thóat ly khỏi vị trí ban đầu của họ (chủ yếu làm nghề đổi tiền) và bước sang lĩnh vực làm trung gian hoạt động về tiền tệ. Họ đã trở thàh những người thực sự làm nghề ngân hàng. -Giai đoạn từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18: trong giai đoạn này hoạt động của ngân hàng mang những nét đặc trưng cơ bản sau: • Các ngân hàng hoạt động độc lập, chưa tạo ra một hệ thống, chưa có sự rang buộc và phụthuộc lẫn nhau. • Chức năng hoạt động của các ngân hàng giống như nhau bao gồm: việc nhận kỳ thác, chíết khấu cho vay, phát hành giấy bạc ngân hàng và thực hiện các dịc vụ tiền tệ khác như: đổi tiền, chuyển ngân… -Giai đoạn từ thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 20: bước sang thế kỷ 18 hoạt động lưu thông hàng hóa được mở rộng và phát triển cả về quy mô lẫn phạm vị. Trong bối cảnh ấy các ngân hàng phát hành nhiều loại giấy bạc ngân hàng khác nhau làm cản trở quá trình phát triển của nền kinh tế. Chính vì thế đòi hỏi sự can thiệp của Nhà nước và hoạt động của Ngân hàng. Các nhà nước đã ban hành các đạo luật để hạn chế số lượng ngân hàng được phép phát hành giấy bạc. Lúc này hệ thống ngân hàng được chia làm hai nhóm:
  4. • Nhóm thứ nhất gồm các ngân hàng được phép phát hành gọi là ngân hàng phát hành. • Nhóm thứ hai gồm các ngân hàng không được phép phát hành tiền gọi là ngân hàng trung gian. -Giai đoạn từ giữa thế kỷ 20 đến nay: Sang đầu thế kỷ 20, hầu hết các nước đều thực hiện cơ chế một ngân hàng độc quyền phát hành. Song ngân hàng phát hành vẫn còn thuộc sở hữu tư nhân. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã bắt buộc nhà nước tăng cường hơn nữa việc can thiệp của mình vào lĩnh vực kinh tế. Xuất phát từ yêu cầu đó nhà nước nhanh chóng nắm lấy ngân hàng phát hành để điều tiết các hoạt động kinh tế vĩ mô bằng cách quốc hữu hóa ngân hàng phát hành hoặc thiết lập ngân hàng phát hành thuộc sở hữu nhà nước. Tuy nhiên trong giai đoạn này vẫn còn một số ngân hàng phát hành không hòn toàn phụ thuộc quyền sở hữu của nhà nước nhưng hoạt động của nó vẫn mang tính chất sở hữu nhà nước, bởi lẽ bộ phận diều hành cao nhất của ngân hàng phát hành do nhà nước bỏ nhiệm. Đến giữa thế kỷ 20 thì bắt đầu xuất hiện tiến trình cải biến ngân hàng phát hành thành ngân hàng trung ương, kể từ ấy hệ thống ngân hàng được cấu thành bởi hai bộ phận chính: ngân hàng trung ương và ngân hàng trung gian. 1.1.2. Lịch sử hình thành ngân hàng nhà nước Việt Nam: Quá trình hình thành ngân hàng nhà nước gắn liền với các giai đoạn của cách mạng và xây dựng nhà nước việt nam: Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Việt Nam là nước thuộc địa nửa phong kiến dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Hệ thống tiền tệ, tín dụng ngân hàng được thiết lập và bảo hộ bởi thực dân Pháp thông qua Ngân hàng Đông Dương. Ngân hàng Đông Dương vừa đóng vai trò là ngân hàng Trung ương trên toàn cõi Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia), vừa là ngân hàng thương mại. Ngân hàng này là công cụ phục vụ đắc lực chính sách thuộc địa của chính phủ Pháp và làm giàu cho tư bản Pháp. Vì thế, một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cuộc Cách mạng Tháng 8 lúc bấy giờ là phải từng bước xây dựng nền tiền tệ và hệ thống ngân hàng độc lập tựchủ. Nhiệm vụ đó đã trở thành hiện thực khi bước sang năm 1950, công cuộc kháng chiến chống Pháp ngày một tiến triển mạnh mẽ với những chiến thắng vang dội trên khắp các chiến trường và mở rộng vùng giải phóng. Sự chuyển biến của cục diện cách mạng cũng đòi hỏi công tác kinh tế, tài chính phải được củng cố và phát triển theo yêu cầu mới. Trên cơ sở chủ trương chính sách mới về tài chính - kinh tế mà Đại hội Đảng lần thứ II (tháng 2/1951) đã đề ra, ngày 6 tháng 5 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam - Ngân hàng của Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á để thực hiện 5 nhiệm vụ cấp bách: Phát hành giấy bạc, quản lý Kho bạc, thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu dịch để quản lý tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với địch. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ra đời là kết quả nối tiếp của quá trình đấu tranh xây dựng hệthống tiền tệ, tín dụng độc lập, tự chủ, đánh dấu bước phát triển mới, thay đổi về chất trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ở nước ta. Tại Thông tư số 20/VP - TH ngày 21/1/1960 của Tổng giám đốc Ngân hàng Quốc gia ký thừa uỷ quyền Thủ Tướng chính phủ, Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để phù hợp với hiến pháp 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Những năm sau khi Miền Nam giải phóng 1975, việc tiếp quản Ngân hàng Quốc gia Việt Nam cộng hoà và các Ngân hàng tư bản tư nhân dưới chế độ Nguỵ quyền Sài Gòn đã mở đầu cho quá trình nhất thể hoá hoạt động ngân hàng toàn quốc theo cơ chếhoạt động ngân hàng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Tháng 7 năm 1976, đất nước được thống nhất về phương diện Nhà nước, nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra đời. Theo đó, Ngân
  5. hàng Quốc gia ở miền Nam được hợp nhất vào NHNN Việt Nam, tạo thành hệ thống Ngân hàng Nhà nước duy nhất của cả nước. Hệ thống tổ chức thống nhất của NHNN bao gồm: Ngân hàng Trung ương đặt trụ sở chính tại thủ đô Hà Nội, các Chi nhánh Ngân hàng tại các tỉnh, thành phố và các chi điếm ngân hàng cơ sở tại các huyện, quận trên phạm vi cả nước. Căn cứ vào những biến đổi quan trọng về tình hình và nhiệm vụ cách mạng cũng như về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, quá trình phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam có thể được chia làm 4 thời kỳ như sau: Thời kỳ 1951 - 1954: Trong thời kỳ này, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập và hoạt động độc lập tương đối trong hệ thống tài chính, thực hiện trọng trách đầu tiên theo chủ trương của Đảng và nhà nước là: Phát hành giấy bạc ngân hàng, thu hồi giấy bạc tài chính; Thực hiện quản lý Kho bạc Nhà nước góp phần tăng thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý thu chi ngân sách;Phát triển tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hoá, tăng cường lực lượng kinh tế quốc doanh và đấu tranh tiền tệ với địch. Thời kỳ 1955 - 1975: Đây là thời kỳ cả nước kháng chiến chống Mỹ, miền Bắc xây dựng và chiến đấu, vừa ra sức chi viện cho cách mạng giải phóng miền Nam; mọi hoạt động kinh tế xã hội phải chuyển hướng theo yêu cầu mới. Trong thời kỳ này, Ngân hàng Quốc gia đã thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau; - Củng cố thị trường tiền tệ, giữ cho tiền tệ ổn định, góp phần bình ổn vật giá, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc khôi phục kinh tế. - Phát triển công tác tín dụng nhằm phát triển sản xuất lương thực, đẩy mạnh khôi phục và phát triển nông, công, thương nghiệp, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Miền Bắc và giải phóng Miền Nam. Thời kỳ 1975 - 1985: Là giai đoạn 10 năm khôi phục kinh tế sau chiến tranh giải phóng và thống nhất nước nhà, là thời kỳ xây dựng hệ thống ngân hàng mới của chính quyền cách mạng; tiến hành thiết lập hệ thống ngân hàng thống nhất trong cả nước và thanh lý hệ thống ngân hàng của chế độ cũ ở miền Nam. Theo đó, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam của chính quyền Việt Nam cộng hoà (ở miền Nam) đã được quốc hữu hoá và sáp nhập vào hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cùng thực hiện nhiệm vụ thống nhất tiền tệ trong cả nước, phát hành các loại tiền mới của nước CHXHCN Việt Nam, thu hồi các loại tiền cũ ở cả hai miền Nam - Bắc vào năm 1978. Đến cuối những năm 80, hệ thống Ngân hàng Nhà nước về cơ bản vẫn hoạt động như là một công cụngân sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ theo nguyên tắc thị trường. Sự thay đổi về chất trong hoạt động của hệ thống ngân hàng - chuyển dần sang hoạt động theo cơ chế thịtrường chỉ được bắt đầu khởi xướng từ cuối những năm 80, và kéo dài cho tới ngày nay. Thời kỳ 1986 đến nay: Từ năm 1986 đến nay đã diễn ra nhiều sự kiện quan trọng, đánh dấu sự chuyển biến căn bản của hệ thống Ngân hàng Việt Nam thể hiện qua một số "cột môc" có tính đột phá sau đây: + Từ năm 1986 đến năm 1990: Thực hiện tách dần chức năng quản lý Nhà nước ra khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, chuyển hoạt động ngân hàng sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Cơ chế mới về hoạt động ngân hàng đã được hình thành và hoàn thiện dần - Tháng 5/1990, hai pháp lệnh Ngân hàng ra đời (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ) đã chính thức chuyển cơ chếhoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ 1 cấp sang 2 cấp - Trong
  6. đó lần đầu tiên đối tượng nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động của mỗi cấp được luật pháp phân biệt rạch ròi + Từ năm 1991 đến nay: Thực hiện chủ trương đường lối chính sách của Đảng trong thời kỳcông nghiệp hoá, hiện đại hoá hệ thống ngân hàng Việt Nam không ngừng đổi mới và lớn mạnh, đảm bảo thực hiện được trọng trách của mình trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế đất nước trong thiên niên kỷ mới. Những dấu ấn dưới đây liên quan trực tiếp và thúc đẩy quá trình đổi mới mạnh mẽ hoạt động Ngân hàng: Năm 1993: Bình thường hoá các mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế (IMF, WB, ADB) Năm 1995: Quốc hội thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu đối với hoạt động ngân hàng; thành lập ngân hàng phục vụ người nghèo. Năm 1997: Quốc hội khoá X thông qua Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng (ngày 2/12/1997) và có hiệu lực thi hành từ 1/10/1998; Thành lập Ngân hàng phát triển Nhà Đồng bằng Sông cửu long (Quyết định số 769/TTg, ngày 18/9/1997). Năm 1999: Thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (ngày 9/11/1999). Năm 2000: Cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTMNN và cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTMCP. Năm 2002: Tự do hoá lãi suất cho vay VND của các tổ chức tín dụng - Bước cuối cùng tự do hoá hoàn toàn lãi suất thị trường tín dụng ở cả đầu vào và đầu ra. Năm 2003: Tiến hành cơ cấu lại theo chiều sâu hoạt động phù hợp với chuẩn quốc tế. Đến ngày hôm nay thì hệ thống ngân hàng nhà nước việt nam đã được tương đối hoàn chỉnh. 1.2. Chức năng của Ngân hàng trung ương 1.2.1. Chức năng của NHTW Ngân hàng trung ương liên quan đến ba chức năng cơ bản, đó là phát hành tiền tệ, ngân hàng của các tổ chức tín dụng, ngân hàng của chính phủ,quản lí nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, không phải ngân hàng trung ương nào cũng mang đầy đủ ba chức năng này. • Phát hành tiền tệ Ở phần lớn các nước, ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất có quyền phát hành tiền tệ. Ở một số nước khác, ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất phát hành tiền giấy, còn tiền kim loại với tư cách là tiền bổ trợ thì do chính phủ phát hành. Cục Dự trữ Liên bang- ngân hàng trung ương của Mỹ- không có chức năng phát hành tiền, thay vào đó là Bộ Tài chính đảm nhiệm chức năng này. Cũng có thông tin cho rằng Chính phủ Mỹ không có quyền phát hành đồng Đô-la, mà là do Cục Dự Trữ Liên Bang phát hành.Nhưng hiện nay đã có rất nhiều cuộc nghiên cứu, và họ đã phát hiện ra thực chất Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ mới có quyền phát hành tiền tệ, Chính phủ Mỹ không có quyền này. Điều đó đồng nghĩa với việc họ nắm toàn quyền trong việc xây dựng và thực hiện cách chính sách tiền tệ, từ đó thao túng nền tài chính toàn cầu. Tệ hại hơn đó lại là ngân hàng của tư nhân vì cổ phần của họ chiếm đại đa số, thành viên Hội Đồng Quản Trị được Quốc Hội và Chính phủ bổ nhiệm cũng dưới quyền của Ban cố vấn. • Ngân hàng của các tổ chức tín dụng Ngân hàng trung ương thực hiện công việc tái chiết khấu các hối phiếu đối với các tổ chức tín dụng, cấp vốn thông qua cho vay đối với các tổ chức này (đồng thời qua đây kiểm soát lãi suấtNgân hàng trung ương còn mua và bán các giấy tờ có giá, qua đó điều tiết lượng vốn trên thị trường. Ngân hàng trung ương có quyền yêu cầu các ngân hàng thương
  7. mại mở tài khoản tại chỗ mình và các ngân hàng phải gửi vào tài khoản của họ một lượng tiền nhất định. Thông thường lượng tiền này được quy định tương đương với một tỷ lệ nào đó tiền gửi vào ngân hàng thương mại, gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Trong trường hợp có tổ chức tín dụng gặp nguy cơ đổ vỡ làm ảnh hưởng đến cả hệ thống tài chính của quốc gia, ngân hàng trung ương sẽ tái cấp vốn cho tổ chức tín dụng đó để cứu nó. Vì thế, ngân hàng trung ương được gọi là người cho vay cuối cùng • Ngân hàng của Chính phủ Ở nhiều nước, ngân hàng trung ương là người quản lý tiền nong cho chính phủ. Chính phủ sẽ mở tài khoản giao dịch không lãi suất tại ngân hàng trung ương. Tuy nhiên, ở một số nước, chẳng hạn như ở Việt Nam, chức năng này do kho bạc đảm nhiệm. Ngân hàng trung ương còn làm đại diện cho chính phủ khi can thiệp vào thị trường ngoại hối 1.2.2. Chức năng NHNN Việt Nam: • Phát hành tiền và lưu thông tiền tệ: Đó là chức năng cơ bản và quan trọng hàng đầu của Ngân hàng trung ương. Thực hiện chức năng này sẽ ảnh hưởng đến tình hình lưu thông tiền tệ của quốc gia, vì vậy nó ảnh hưởng đến mọi mặt hoạt động của đời sống kinh tế-xã hội, thậm chí có thể ảnh hưởng đến tình hình tài chính tiền tệthế giới nữa. Việc phát hành tiền được tập trung tuyệt đối vào Ngân hàng trung ương theo chế độ Nhà nước nắm độc quyền phát hành tiền. Giấy bạc ngân hàng và tiền kim loại do Ngân hàng trung ương phát hành là phương tiện thanh toán hợp pháp duy nhất trong một quốc gia, nó có thể thực hiện chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán không hạn chế. Việc phát hành tiền có thể được tực hiện theo cách có đảm bảo như: -Đảm bảo bằng vàng (Đảm bảo bằng trữ kim): các nước tư bản phát triển như Anh, Mỹ, Pháp, Đức… trước đây thực hiện cơ chế đảm bảo bằng vàng cho tiền giấy phát hành theo luật ngân hàng mỗi nước. -Đảm bảo bằng tín dụng hàng hóa: cơ chế đảm bảo bằng trữ kim đã bị đổ vỡ cùng với chế độ bản vị bản vị vàng hoặc bản vị hối đoái vàng. Hiện nay ở các nước đều áp dụng cơ chế đảm bảo bằng tín dụng hàng hóa cho lượng tiền phát hành. Theo cơ chế này, tiền tệ được phát hành và lưu thông thông qua hệ thống tín dụng ngắn hạn bảo đảm tiền đi vào lưu thông gắn liền với sự vận động của sản phẩm hangf hóa theo nguyên tắc có thời hạn và được hoàn trả. Ngoài ra ngân hàng trung ương có thể phát hành tiền tệ để cho ngân sách vay, để tham gia bình ổn thị trường hối đoái. Do việc phát hành tiền có ảnh hưởng rộng lớn đến lưu thông tiền tệ của đất nước nên đòi hỏi công việc đó phải được tiến hành trong những nguyên tắc nhất định. Mặt khác, việc phát hành tiền đi đôi với việc điều tiết lưu thông tiền tệ nhằm bảo đảm cung ứng một khối lượng tiền phù hợp vói nhu cầu của kinh tế. Nói cách khác, ngân hàng trung ương cần phải kiểm soát toàn bộ khối lượng tiền cung ứng để vừa đảm bảo đủ phương tiện lưu thông vừa không gây lạm phát để giữ vững và ổn định sức mua của đồng tiền. Việc điều tiết lưu thông tiền tệ để kiểm soát lượng tiền cung ứng bằng hai cách: *Những truờng hợp phát hành tiền của ngân hàng trung ương: • Phát hành tiền qua ngõ chính phủ: đối với cộng đồng, chính phủ là một định chế quản lý hành chính và bảo vệ sự vẹn toàn của cộng đồng. Trong nền kinh tế chính phủ là một chủthể kinh tế, như mọi chủ thể kinh tế khác là các hộ gia đình, các xí nghiệp, công ty, vừa có số thu, vừa có số chi. Tình trạng thu chi của chính phủ được thể hiện cụ thể qua công cụ ngân sách quốc gia.
  8. • Phát hành tiền qua ngõ ngân hàng trung gian: Hoạt động của ngân hàng trung gian, đặc biệt là đối với ngân hàng ký thác chủ yếu nhận tiền gửi của công chúng và cho vay. Phần lớn số tiền cho vay của ngân hàng này lấy từ nguồn tiền gửi của dân chúng. Bản thân ngân hàng phải cho vay tới mức mà ngân hàng trung ương cho phép để tối đa hóa doanh lợi, ngoài việc trang trãi các chi phí, tiểntả lãi… Tuy nhiên, không phải lúc nào hoạt động của ngân hàng trung gian đều diễn ra một cách trôi chảy, thuận lợi. Có những lúc, người gửi tiền đến đòi rút tền ra quá nhiều làm cho ngân hàng trung gian lâm vào tình trạng kẹt vốn. Trong tình huống này ngân hàng trung ương có khả năng vô biên, lúc nào ở hầm dự trữ của ngân hàng trung ương cũng có một khối tiên in sẵn dự trữ. Do vậy việc cứu sống một hai ngân hàng trung gian thoát khỏi tình hình mất khả năng chi trả là điều dễ dàng. Nếu không cứu chữa kịp thời, ngọn lửa này sẽ lan rộng ra cả hệ thống ngân hàng. Như vậy nhờ có ngân hàng trung ương, khi bị kẹt vốn ngân hàng trung gian có thể đến vay ở ngân hàng trung ương, ở đây được xem là chỗ dựa vững chắc của ngân hàng trung gian. • Phát hành tiền qua ngõ thị trường mở: Lúc đầu việc phát hành tiền qua ngõ tái chiết khấu có một tầm quan trọng đặc biệt. Song lần theo thời gian, người ta thấy rõ dần mặt hạn chế của nó, đó là ngân hàng trung ương muốn phát hành thêm tiền thì phải đợi chờ ngân hàng trung gian có nhu cầu vay lại ở mình, bằng cách đem thương phiếu đến xin tái chiết khấu. Mặt khác, về sau này ngân hàng trung gian một là không muốn đến vay ở ngân hàng trung ương do những thủ tục của nó, hai là do ngân hàng trung gian không cảm thấy có nhu cầu đi vay. Với thị trường mở, ngan hàng trung gian có thể tìm cho mình nguồn tài trợ cần thiết vì những thủ tục nhanh chóng. Chính vì thế, hoạt động của thị trường mở ngày một quan trọng hơn, thu hẹp phạm vi haọt động tái chiết khấu. Từ đấy cơ hợi phát hành tiền ở thị trường mở gia tăng nhanh chóng. Thông qua việc mua bán các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường mở, ngân hàng trung ương điều chỉnh lưu lượng tiền mặt trong lưu thông. Với nghiệp vụ bán ngân hàng trung ương thu hẹp lượng cung tiền mặt trong lưu thông, lãi suất lại tăng lên. Bằng nghiệp vụ mua, tức là bơm tiền vào lưu thông. Lúc này lượng tiền lưu hành trên thị trường xã hội tăng lên tạo ra các động lực gây giảm lãi suất • Phát hành tiền qua ngõ thị trường vàng và ngoại tệ: Mỗi quốc gia trên thế giới đều có khả năng tạo lập cho mình một dự trữ vàng và ngoại tệ nhất định. Dự trữ chính thức nằm trong kho bạc của chính phủ dưới dạng dự trữ quốc gia. Dự trữ này không phải để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi của công chúng, mà chúng nhằm thực hiện 3 công dụng chính: -Nó là một công cụ để chính phủ (cụ thể là ngân hàng trung ương) can thiệp vào thị trường vàng, ngoại tệ Nó là một công cụ để chống lại lạm phát Nó là công cụ đo lường sức khỏe của nền kinh tế. Nếu khối lượng dự trữ vàng và ngoại tệ của một nước tăng từ năm này sang năm khác, biểu hiện nền kinh tế đó phát triển vững mạnh. Ngược lại, khi dự trữ vàng, ngoại tệ giảm thiểu từ năm này sang năm khác, nó báo hiệu những khó khăn trong nền kinh tế. Ngoài ra, khối lượng dự trữ vàng và ngoại tệ của một nước còn là tiêu chuẩn để đánh giá khả năng hoàn trả của một nước đối với nước ngoài. Một nước không tích lũy được khối dự trữ vàng và ngoại tệ hoặc khối dự trữ đó giảm xuống số âm sẽ gặp rất nhiều khó khăn vềmặt kinh tế. Trên trường quốc tế bị cô lập, vì không nước nào dám quan hệ khăng khít với nước này, các nguồn trợ giúp quốc tế dần dần bị mất đi nếu không có chương trình tái cấu trúc nền kinh tế hữu hiệu. Mặt khác,
  9. về mặt quốc nội, hoạt động kinh tế bất ổn triền miên. Do vậy, mặt dù dự trữ vàng và ngoại tệ của một nước, tuy không phải là nguyên nhân gây nên giá trị tiền tệ quốc nội, nhưng nó là cơ sở để tạo niềm tin nơi giá trị đồng tiền quốc nội và đảm bảo giá trị tiền tệquốc ngoại. Bên cạnh dự trữ chính thức là dự trữ không chính thức nằm rài rác ở các ngân hàng trung gian, ởcác tổ chức kinh tế và trong dân chúng. Vàng hoặc ngoại tệ đến tay các chủ thể này bằng nhiều con đường khác nhau. Dự trữ không chính thức hình thành một thị trường mua bán diễn biến rất sôi động, giá cả trên thị trường này hết sức nhạy bén và ảnh hưởng sâu sắc đến thị trường hàng hóa cũng như hoạt động chung của toàn bộ nền kinh tế. Chính vì thế ngân hàng trung ương với tư cách là cơ quan quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước phải can thiệp vào thị trường vàng, ngoai tệ khi cần thiết. Cách làm phổ biến nhất là thực hiện các nghiệp vụ mua bán trên thị trường này. Bằng việc tung ra một lượng tiền mặt nhất định vào thị trường để mua một số ngoại tệ nào đó và vàng, ngân hàng trung ương một mặt làm tăng dự trữ quốc gia, mặt khác nó làm tăng lưu lượng tiền mặt trong nền kinh tế, và đây chính là phương thức phát hành tiền qua ngõ thị trường vàng và ngoại tệ. • Ngân hàng Trung ương là Ngân hàng của Chính phủ Ngân hàng Trung ương là chủ ngân hàng, đại lý và cố vấn cho chính phủ. Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng của chính phủ: Tùy theo đặc điểm tổ chức của từng nước, chính phủ có thể ủy quyền cho bộ tài chính hay kho bạc đứng tên và làm chủ tài khoản ở ngân hàng trung ương. Hàng quý, hàng năm, tiền thuế thu được và những khoản thu khác của ngân sách được gửi vào ngân hàng trung ương để ngân hàng trung ương sử dụng và trả lãi. Khi chính phủ cần, bộ tài chính hay kho bạc cũng phải làm thủ tục để rút tiền gửi từ ngân hàng trung ương như một khách hàng bình thường. Khi chính phủ thâm hụt ngân sách, chính phủ có nhiều cách bù vào như: vay của dân bằng cách phát hành công trái, vay của nước ngoài, vay ứng trước thuế, …, và vay của ngân hàng trung ương. Nếu vay của ngân hàng trung ương thì về nguyên tắc có thể thế chấp bằng các loại tài sản mà chính phủ có như: chứng thư chủ quyền tài sản, chứng khoán, vàng… Trong trường hợp chính phủ vay mà không thế chấp thì ngân hàng có quyền từ chối. Nếu ngân hàng trung ương không từ chối được thì nó đành phát hành tiền mặt ngoài dự kiến cho chính phủ làm cho tổng cung về tiền tăng lên và nền kinh tế cũng sẽ biến động theo. Thông qua vai trò là chủ ngân hàng của chính phủ với nghiệp vụ là cho vay, ngân hàng trung ương làm thay đổi lượng tiền tệ trong nền kinh tế, nghĩa là can thiệp vào những biến động của kinh tế vĩ mô. Ngân hàng trung ương là đại lý của chính phủ: Với tư cách là đại lý cho chính phủ, ngân hàng trung ương thay mặt chính phủ tổ chức thu thuế qua hệ thống ngân hàng của nó. Đồng thời nó thay mặt chính phủ trong các thỏa thuận tài chính, viện trợ, vay mượn, chuyển nhượng và thanh toán với nước ngoài. Ngoài ra với tư cách này nó có thể phát hành trái phiếu, cổ phiếu…cho chính phủ kể cả trong và ngoài nước. Bằng việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu…ngân hàng trung ương đã làm trực tiếp tăng (giảm) lượng cung ứng tiền cho nền kinh tế. Và thông qua đó đã làm tác động đến kinh tế vĩ mô. Ngân hàng trung ương là cố vấn tài chính cho chính phủ:
  10. Ngân sách có tác động khá quan trọng đến nền kinh tế vĩ mô vì nếu hoạt động của ngân sách không hài hòa với chính sách tiền tệ nó sẽ làm cản trở hiệu quả của chính sách tiền tệ trong điều tiết vĩ mô. Với lý do trên ngân hàng trung ương phải tham gia cố vấn cho chính phủ trong chính sách tài chính và kinh tế. Với vai trò này ngân hàng trung ương gián tiếp ảnh hưởng đến việc cung ứng trái phiếu của chính phủ và các hoạt động chi tiêu khác cho hợp lý với ngân sách. Đây là một cách để điều tiết kinh tế vĩ mô. Ngân hàng trung ương là ngân hàng trực tiếp quản lý dự trữ quốc gia. Dự trữ quốc gia bao gồm những dự trữ chiến lược cho những trường hợp khẩn cấp như can thiệp vào điều tiết kinh tế, nhập khẩu hàng khẩn cấp để chống khan hiếm và chống lạm phát, khi có thiên tai, chiến tranh… Dự trữ bao gồm: vàng, tiền tệ,…. Với tư cách là ngân hàng của chính phủ, ngân hàng trung ương được giao phó nhiệm vụ quản lý dự trữ quốc gia. Khi nắm trong tay công cụ này ngân hàng trung ương (NHTW) có thể can thiệt bất kì lúc nào vào thị trường ngoại tệ để giữ giá đồng tiền trong nước, hay tăng hoặc giảm giá. NHTW với nghiệp vụ mua bán trên thị trường vàng và ngoại tệ, nó tạo ra hai tác động quan trọng là thay đổi cung ứng tiền và thay đổi tỉ giá hối đoái của đồng tiền trong nước. Hai điều này tác động đến tổng cầu, sản xuất, thu nhập và giá cả và đương nhiên điều này có tác động đến kinh tế vĩ mô. Làm thủ quỹ cho kho bạc nhà nước. Tuỳ theo đặc điểm tổ chức của từng nước,chính phủ có thể uỷ quyền cho bộ tài chính hoặc kho bạc đứng tên chủ tài khoản tại ngân hàng trung ương.hàng ngày,các khoản thu dưới dạng thuế,lợi nhuận,hoặc khoản thu khác được gửi vào tài khoản này. NHTW có trách nhiệm theo dõi,chi trả,thực hiện thanh toán và cấp vốn theo yêu cầu của kho bạc và sử dụng số dư đó khi nhàn rỗi tương tự như tài khoản của khách hàng tại một ngân hàng trung gian. Các khoản tiền gửi của chính phủ có thể dưới dạng vàng,ngoại tệ,các chứng khoán của các tổ chức phát hành khác cả trong nước và nước ngoài.nó chiếm tỉ trọng đáng kể trong tổng tài sản nợ của NHTW và thông thường là các khoản nợ không kì hạn.vì thế khoản kí gửi của chính phủ trở thành một nguồn vốn cho các hoạt động cho vay và đầu tư của NHTW. Tuy nhiên NHTW không phải là nơi duy nhất thực hiện vai trò thủ quỹ cho chính phủ.ở một số nước,đặc biệt là các nước áp dụng mô hình NHTW độc lập với chính phủ thì một bộ phận lớn vốn của kho bạc được gửi ở các ngân hàng tư nhân bởi sự hấp dẫn của lãi suất tiền gửi.mặc dù vậy,ở phần lớn các nước NHTW tỏ ra thích hợp với vai trò này hơn cả bởi bên cạnh việc giữ và quản lý tài khoản của chính phủ,NHTW còn thực hiện chức năng đại lý và cấp tín dụng cho chính phủ khi cần thiết.hơn nữa để đảm bảo nguyên tắc quản lý nguồn dự trữ quốc gia,kho bạc buộc phải gửi vàng,ngoại tệ và chứng chỉ có giá bằng ngoại tệ tại NHTW. Cho chính phủ vay. NHTW có thể cấp cho chính phủ các khoản tín dụng nhằm bù đắp tiếu hụt tạm thời trong năm tài chính hoặc bội chi ngân sách vào cuối năm tài chính.tuy nhiên do việc cho ngân sách vay trực tiếp sẽ lam tăng lượng tiền cung ứng,có thể dẫn đến nguy cơ lạm phát nên ngày nay các NHTW rất hạn chế các khoản tín dụng trực tiếp cho chính phủ.phần lớn các khoản tín dụng được cấp gián tiếp thông qua việc tái chiết khấu các trái phiếu kho bạc do các ngân hàng trung gian nắm giữ. • Chức năng quan lý cua NHTW. ̉ ̉
  11. Đây là chức năng quyết định bản chất NHTW là một ngân hàng phát hành.việc thực hiện chức năng này không thể tách rời khỏi các nghiệp vụ ngân hàng của NHTW.nói cách khác,NHTW quản lý vĩ mô các hoạt động tiền tệ và tín dụng thông qua khả năng kinh doanh của mình. Xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Chính sách tiền tệ là chính sách kinh tế vĩ mô,trong đó NHTW sử dụng các công cụ của mình để điều tiết và kiểm soát khối lượng tiền trong lưu thông nhằm đảm bảo sự ổn định giá tiền tệ đồng thời thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và đâm bảo công ăn việc làm. NHTW với chức năng phát hành tiền và khả năng tác động mạnh tới hoạt động của hệ thống ngân hàng được xem là có khả năng lớn trong việc kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền cung ứng vào lưu thông nên đã được giao trọng trách xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ của quốc gia. có thể nói,chính sách tiền tệ là trọng tâm hoạt động của NHTW.điều này có nghĩa là mọi hoạt động của NHTW(kể cả phát hành tiền)đều nhằm thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ và bị chi phối bởi các mục tiêu đó . Chính sách tiền tệ được hoạch định theo một trong hai hướng sau: - Chính sách tiền tệ mở rộng: nhằm tăng lượng tiền cung ứng để khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo việc làm. Mục đích của chính sách này là chống suy thoái kinh tế và thất nghiệp. - Chính sách tiền tệ thắt chặt: nhằm giảm lượng tiền cung ứng để hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá đà của nền kinh tế. Mục đích của chính sách lúc này là chống lạm phát. Thanh tra, giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng. Với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng, ngân hàng trung ương không chỉ cung ứng các dịch vụ ngân hàng thuần tuý cho các ngân hàng trung gian, mà thông qua các hoạt động đó, ngân hàng trung ương còn thực hiện vai trò điều tiết, giám sát thường xuyên hoạt động của các ngân hàng trung gian nhằm đảm bảo sự ổn định trong hoạt động ngân hàng và bảo vệ lợi ích của các chủ thể trong nền kinh tế, đặc biệt là của những người gửi tiền trong quan hệ với ngân hàng. Đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng: Khác với các tổ chức kinh doanh khác, kinh doanh trong lĩnh vực tài chính tiền tệ cần thiêt phải được kiểm soát và điều tiết chặt chẽ bởi vì: - Các ngân hàng đảm nhiệm vai trò đặc biệt trên thị trường tài chính nói riêng và trong toàn bộ nền kinh tém nói chung: nó là kênh chuyển giao vốn từ tiết kiệm đầu tư, là công cụ của chính phủ trong việc tài trợ vốn cho các mục tiêu chiến lược, hoạt động của các trung gian tài chính, đặc biệt là các tổ chức nhận tiền gửi, có ảnh hưởng đến việc điều hành chính sách tiền tệ. - Hoạt động của các ngân hàng liên quan đến hầu hết các chủ thể kinh tế trong xã hội nên sự sụp đổ của một ngân hàng sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người gửi tiền đồng thời đến toàn bộ hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng có mối liên hệ và phụ thuộc với nhau chặt chẽ thông qua các luồng vốn tín dụng luân chuyển và thông qua hoạt động của hệ thống thanh toán. Chỉ một trục trặc nhỏ trong quá trình thanh toán của một ngân hàng cũng sẽ gây nên vấn đề về thanh khoản của cả hệ thống. Mặt khác, sự sụp đỏ của ngân hàng sẽ gây khó khăn về vốncho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời ảnh hưởng tới quyền lợi của người gửi tiền. - Bản chất hoạt động của các ngân hàng là chứa đựng rủi ro. Mức độ rủi ro sẽ tăng lên khi các ngân hàng có xu hướng chạy theo lợi nhuận làm phương hại đến quyền lợi của người
  12. gửi tiền. Nguyên tắc hoạt động của các ngân hàng là đi vay ngắn và cho vay dài. Bảng tổng kết tài sản của nó luôn chứa đựng mức rủi ro tiềm năng do chênh lệch về thời hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, giữa yêu cầu thanh khoản và mong muốn sinh lời tối đa. Vì thế sự điều tiết chặt chẽ và giám sát thường xuyên của ngân hàng TW sẽ ngăn cản xu hướng chạy theo lợi nhuận qua mức, đẩy ngân hàng vào tình trạng rủi ro và phá sản. - Sự tồn tại và phát triển của các trung gian tài chính nói chung và ngân hàng nói riêng phụ thuộc vào lòng tin của công chúng với tư cách là người gửi tiền. Một sai sót nhỏ trong quá trình kinh doanh và cung ứng dịch vụ ngân hàng cũng có thể gây nên sự nghi ngờ có tính chất lan truyền. điều này thật sự đe doạ sự tồn tại của các ngân hàng. Bảo vệ khách hàng: Chức năng thanh tra, giám sát của ngân hàng trung ương còn nhằm đảm bảo sự công bằng và bình đẳng trong quan hệ giữa ngân hàng và các khách hàng. Điều này được thể hiện ở hai khía cạnh: Thứ nhất, nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của khách hàng với tư cách là người đi vay. Chẳng hạn, quy định chuẩn mực về vi phạm và mức độ chi tiết của các thông tin cần báo cáo cho ngân hàng khi vay vốn, chuẩn mục hoá thủ tục vay vốn và tiếp nhận các dịch vụ ngân hàng, quy dinh cụ thể về ử lý và giải quyết các tranh chấp giữa nhân hàng với khách hàng Thứ hai, nhằm thúc đẩy cạnh tranh và hiệu quả thông qua qui định về chất lượng và sự cập nhập thông tin mà ngân hàng có nghĩa vụ cung cấp cho những người tham gia thị trường. Cụ thể, cần qui định rõ cơ chế cung cấp thông tin, loại thông tin và phạm vi cung cấp. Điều này giúp cho công chúng với tư cách người đầu tư và người sử dụng các dịch vụ ài chính có chất lượng. các ngân hàng vì thế quan tâm hơn tới tính minh bạch và chất lượng chất lượng của bản tổng kết tài sản trong chiến lược cạnh tranh khách hàng. Để đạt được mụch đích nay, NHTW và các thể chế điều tiết có liên quan thường đưa ra các chuẩn mực, các hướng dẫn hoặc qui định về tính đầy đủ và chính xác của thông tin được công bố. 1.3. Các mô hình tổ chức của ngân hàng trung ương: Sự ra đời của ngân hàng trung ương là do yêu cầu khách quan của việc quản lý phát hành tiền và điều tiết lưu thông tiền tệ … Ngân hàng trung ương là cơ quan độc quyền phát hành tiền và thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, ngân hàng với nhiệm vụ cơ bản là ổn định giá trị tiền tệ. Để thực hiện chức năng nhiệm vụ đó, ngân hàng trung ương phải chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ. Do đó ngân hàng trung ương có vị trí đặc biệt trong bộ máy quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô. Đến nay, trên thế giới đã biết đến 3 mô hình NHTW: NHTW độc lập với chính phủ; NHTW là một cơ quan thuộc chính phủ; và NHTW thuộc Bộ Tài chính. Trong đó, hai mô hình đầu tiên là phổ biến hơn cả. 1.3.1. Ngân hàng trung ương độc lập với chính phủ: Chính phủ không có quyền can thiệp vào hoạt động của Ngân hàng trung ương, đặc biệt là trong việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ. -Cơ sở hình thành: Dựa trên quan điểm: Chính phủ là người thực thi chính sách tài chính quốc gia, quản lý, điều hành ngân sách nhà nước. Để ngân hàng trung ương trực thuộc Chính phủ sẽ bị Chính phủ lạm dụng công cụ phát hành tiền để trang trải sự thiếu hụt của ngân sách nhà nước,
  13. từ đó dễ gây ra lạm phát. Mặt khác ngân hàng trung ương mất hẳn tính độc lập và chủ động trong việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ. -Cách thức hoạt động: Theo mô hình này, ngân hàng trung ương không chịu sự kiểm soát của chính phủ. Tuy nhiên ngân hàng trung ương có thể tham vấn với chính phủ về các chính sách của mình, chính phủ cũng có thể tham gia vào các cuộc họp chính sách của ngân hàng nhưng việc thưc hiện hay không phụ thuộc vào quyết định của ngân hàng trung ương. Sơ đồ 1.1. Mô hình NHTW độc lập với Chính phủ 1.3.2. Ngân hàng trung ương trực thuộc chính phủ: Chính phủ có ảnh hưởng rất lớn đối với ngân hàng trung ương thông qua việc bổ nhiệm các thành viên của bộ máy quản trị và điều hành ngân hàng trung ương, thậm chí Chính phủ còn can thiệp trực tiếp vào việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ. -Cơ sở hình thành: Dựa trên quan điểm: Chính phủ là người thực hiện chức năng quản lý nhà nước, thực hiện vai trò quản lý kinh tế vĩ mô, do đó chính phủ phải nắm và sử dụng các công cụ kinh tế vĩ mô. Việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ là một trong những công cụ chủ yếu trong tổng thể các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô. Chính phủ phải nắm lấy ngân hàng trung ương để sử dụng ngân hàng này trong việc thực hiện các chức năng của Chính phủ. -Cách thức hoạt động Theo mô hình này, ngân hàng trung ương là một bộ máy của chính phủ, là một cơ quan chức năng của chính phủ, chịu sự kiểm soát toàn diện và thực hiện mọi chính sách, thể chế của chính phủ. Ngân hàng trung ương không có quyền thực hiện các hoạt động của mình một cách độc lập mà chưa có sự tán thành của chính phủ Sơ đồ 1.2. Mô hình NHTW trực thuộc Chính phủ 1.3.3. Ưu nhược điểm của từng mô hình: Ngân hàng trung ương độc lập với chính phủ: -Ưu điểm: Việc ngân hàng trung ương hoạt động độc lập với chính phủ khiến việc xây dựng và thực thi các chính sách tiền tệ nhanh chóng, hiệu quả hơn. Ngoài ra việc độc lập của ngân hàng trung ương còn giúp các chính sách này không bị ảnh hưởng do tác động từ các mục tiêu riêng của chính phủ như phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước... từ đó hạn
  14. chế được nguy cơ lạm phát, khủng hoảng. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra ngân hàng trung ương càng độc lập thì mục tiêu duy trì tỷ lệ lạm phát thấp càng dễ thực hiện. -Nhược điểm: Đòi hỏi ngân hàng trung ương phải có uy tín cao và năng lực thực thi rất tốt thì mới có thể biến mục tiêu hành hiện thực, nhất là trong giai đoạn thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt. Bên cạnh đó ngân hàng trung ương phải có khả năng dự báo chuẩn xác trên cơ sở các thống kê kinh tế- tài chính, vì chỉ có như vậy thì ngân hàng trung ương mới có thể thực hiện được mục tiêu đã đề ra. Khó có sự kết hợp hài hoà giữa chính sách tiền tệ - do NHTW thực hiện và chính sách tài khoá - do chính phủ chi phối để quản lý vĩ mô một cách hiệu quả. Ngân hàng trung ương trực thuộc chính phủ: -Ưu điểm: Ngân hàng trung ương trục thuộc chính phủ giúp nhà nước có thêm công cụ quản lí nhà nước. Việc chính phủ nắm trong tay các công cụ kinh tế còn giúp thực thi các chính sách vĩ mô dễ dàng hơn nhờ vào việc phối hợp đồng bộ nhiều công cụ khác nhau cùng một lúc như kết hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Ngoài ra còn giúp nền kinh tế đi theo đúng định hướng của chính phủ đã đề ra, tăng quyền lực & khả năng quản lí của nhà nước. -Nhược điểm: Mức độ phụ thuộc của ngân hàng nhà nước với chính phủ càng chặt chẽ thì nguy cơ lạm phát sẽ càng cao và giải quyết cũng khó khăn hơn. Ngân hàng nhà nước mất khả năng tự chủ trong việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ sẽ hạn chế hiệu quả, tiến độ thực hiện... của các chính sách đó. Mà đại diện đặc trưng cho 2 trường phái này là 2 NHTW với tên gọi cũng khác nhau. Đó là: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNNVN) và Cục dự trữ liên bang Hoa Kỳ (FED). Ngân hàng Nhà nước VN: Sự chuyển đổi hệ thống ngân hàng đã làm thay đổi hoạt động của Ngân hàng Nhà nước trước đây thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng sang thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước và thực hiện chức năng của Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng đã được chuyển cho các ngân hàng thương mại thực hiện. Như vậy, Ngân hàng Nhà nước đã tách bạch chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng và chức năng của Ngân hàng Trung ương với chức năng kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng.
  15. Cục dự trữ liên bang Mỹ, gọi tắt là FED, là Ngân hàng trung ương của nước Mỹ. Trong vai trò của một Ngân hàng trung ương, FED là ngân hàng của các ngân hàng và là ngân hàng của Chính phủ liên bang. FED được xây dựng để đảm bảo duy trì cho nước Mỹ một chính sách tiền tệ linh hoạt hơn, an toàn hơn, và ổn định hơn. Trong quá trình tồn tại và phát triển cùng với lịch sử nước Mỹ, FED ngày càng chứng mình được vai trò vô cùng quan trọng của nó trong hệ thống ngân hàng cũng như trong nền kinh tế Mỹ. -Các điểm giống nhau: Cả hai đối tượng được đề cập trên đều được xem như cùng một hình thức là “Ngân hàng Trung Ương”, có đặc điểm như sau: - Nhiệm vụ của NHTW là vừa thực hiện chức năng độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng vào lưu thông, vừa thực hiện quản lí nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ - tín dụng – ngân hàng. - Không giao dịch với công chúng mà chỉ giao dịch với kho bạc và các ngân hàng trung gian. - Mục đích hoạt động: cung ứng tiền cho nền kinh tế, điều hòa lưu thông tiền tệ và quản lí hệ thống ngân hàng nhằm đảm bảo lưu thông tiền tệ ổn định, tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế, tăng việc làm và kiểm soát lạm phát. - Có vị trí đặc thù trong bộ máy quản lí và điều hành nền kinh tế vĩ mô. - Định chế có sự kết hợp của hai tính chất: Doanh nghiệp và quản lí hành chính. So sánh về địa vị: Địa vị pháp lý của Ngân hàng Trung ương của mỗi nước khác nhau được quy định trong luật cũng khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện chính trị - xã hội của mỗi nước.Vì thế nên địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Cục dự trữ liên bang Hoa Kì (FED) cũng có nhiều điểm khác nhau. Sau đây là một số điểm khác nhau đặc trưng của chúng Bảng 1.1. So sánh NHNN Việt Nam và Fed về địa vị pháp lý Ngân hàng nhà nước Việt Nam FED Ngân hàng TW trực thuộc chính phủ. Ngân hàng TW độc lập với chính phủ. Chính phủ có ảnh hưởng rất lớn đối với Chính phủ không có quyền can thiệp vào NHTW thông qua việc bổ nhiệm các thành hoạt động của NHTW, đặc biệt trong việc viên, can thiệp trực tiếp vào việc xây dựng xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ. và thực thi chính sách tiền tệ. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan FED là ngân hàng của các ngân hàng và là ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng ngân hàng của Chính phủ liên bang. trung ương của nước Cộng hòa Xã hội FED vừa là tư nhân, vừa là nhà nước. Chủ nghĩa Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước là pháp nhân, có vốn Hội đồng không nhận tài trợ của Quốc hội pháp định thuộc sở hữu nhà nước, có trụ và bảy thành viên của Hội đồng theo cơ sở chính tại Thủ đô Hà Nội. chế dân chủ. Thành viên của Hội đồng là độc lập và không phải chấp hành yêu cầu của hệ thống lập pháp cũng như hành pháp. Tuy nhiên, Hội đồng phải gửi báo cáo tới Quốc hội theo định kỳ. Cơ cấu tổ chức và bộ máy làm việc:
  16. Bảng 1.2. So sánh NHNN Việt Nam và Fed về cơ cấu tổ chức và bộ máy làm việc Ngân hàng nhà nước Việt Nam Cục dữ trữ liên bang FED 1. Hội đồng ngân hàng: Thống đốc ngân 1. Hội đồng thống đốc: Cơ quan quản lí hàng nhà nước Việt Nam là người đứng cao nhất của Fed gồm 7 thành đầu của NHNNVN là một thành viên của viên.Nhiệm kì mỗi thành viên là 14 chính phủ,được thủ tướng chính phủ năm,trong nhiệm kì tổng thống được chỉ trình Quốc hội bổ nhiệm.Thống đốc định 2 thành viên để thượng viện(các ngân hàng nhà nước là thủ trưởng cơ thành viên còn lại do các Tổng thống tiền quan ngang Bộ(Tức là Bộ trưởng)trong nhiệm chỉ định) chính phủ,Giúp việc có các Phó thống đốc phụ trách từng lĩnh vực cụ thể(hiện tại là 5 người).Các Phó thống đốc được thủ tướng quyết định bổ nhiệm 2. Ngân hàng nhà nước có 24 đơn vị trực 2. Các ngân hàng dự trữ:Fed bao gồm 12 thuộc,trong đó có 19 đơn vị giúp thống ngân hàng và 25 chi nhánh ở khắp nước đốc ngân hàng nhà nước thực hiện chức Mỹ.Mỗi ngân hàng dự trữ liên bang đại năng quản lí nhà nước và chức năng ngân diện cho một quận.Ngân hàng dự trữ hàng TƯ,5 đơn vị là tổ chức sự nghiệp Newyork có vai trò “nổi bật hơn một chút so với các ngân hàng còn lại Bộ máy tổ chức + Ngân hàng nhà nước VN: thống đốc, các cục trưởng, vụ trưởng và Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ Quốc Gia Sơ đồ 1.3. Bộ máy tổ chức NHNN Việt Nam
  17. Sơ đồ 1.4. Bộ máy tổ chức Fed
  18. + FED: Hội đồng thống đốc, ủy ban thị trường, các ngân hàng của FED và các ngân hàng địa phương Lãnh đạo: + NHNNVN: Thống đốc Ngân hàng Nhà nước là thành viên của Chính phủ, là người đứng đầu và lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước; chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội về quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng. Thống đốc ngân hàng nhà nước do thủ tướng chính phủ đề nghị quốc hội phê chuẩn bổ nhiệm. Thống đốc của ngân hàng nhà nước Việt Nam hiện nay là tiến sỹ Nguyễn Văn Giàu. Từ khi thành lập đến nay thì Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã trải qua 13 đời thống đốc: Nguyễn Lương Bằng (1951 – 1952), Lê Viết Lượng (1952 – 1963), Tạ Hoàng Cơ (1963 – 1974), Đặng Việt Châu (1974 – 1976), Hoàng Anh (1976 – 1977), Trần Dương (1977 – 1981), Nguyễn Duy Gia (1981 – 1986), Lữ Minh Châu (1986 – 1989), Cao Sỹ Liêm (1989 – 1997), Đỗ Quế Lượng (1997 – 1998), Nguyễn Tấn Dũng (1998 – 1999), Lê Đức Thúy(1999 – 2007), Nguyễn Văn Giàu (2007 – 2011), Nguyễn Văn Bình (2011- nay). + FED: Điều hành FED là Ủy ban Thống đốc gồm bảy thành viên do Tổng thống Mỹ bổ nhiệm và Thượng viện Mỹ phê chuẩn, nhiệm kỳ kéo dài đến 14 năm để khỏi chịu tác động chính trị. Riêng chủ tịch và phó chủ tịch có nhiệm kỳ bốn năm. Chủ tịch FED do Tổng thống bổ nhiệm, 2 thành viên khác của FED đại diện cho Chính phủ là Bộ Tài chính
  19. và Kho bạc Mỹ, còn lại là các ông chủ ngân hàng tư nhân. Trong đó, Tổng thống chỉ được quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm 1 thành viên trong vòng 2 năm. Như vậy, 1 nhiệm kỳ Tổng thống 4 năm thì Tổng thống chỉ được quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm 2 thành viên trong Hội đồng Thống đốc FED. Nếu nhiệm kỳ Tổng thống kéo dài 8 năm (2 nhiệm kỳ) thì quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm chỉ được tối đa 4 người, và 4 người này phải được Thượng viện thông qua. Chủ tịch Hội đồng thống đốc của FED hiện nay là Giáo Sư Ben Bernanke. Từ khi thành lập đến nay FED đã có 14 đời chủ tịch: Charles S. Hamlin (1914 - 1916), William P. G. Harding (1916 – 1922), Daniel R. Crissinger (1923 – 1927), Roy A. Young ( 1927 – 1930), Eugene Meyer ( 1930 – 1933), Eugene R. Black ( 1933 – 1934), Marriner S. Eccles ( 1934 – 1948), Thomas B. McCabe ( 1948 - 1951), William McChesney Martin, Jr ( 1951 – 1970), Arthur F. Burns ( 1970 – 1978), G. William Miller ( 1978 – 1979), Paul A. Volcker ( 1979 – 1987), Alan Greenspan ( 1987 – 2006), Ben BernanKe ( 2006 – nay). Các ngân hàng thành viên: + NHNNVN: Ngân hàng nhà nước VN và các chi nhánh ở tỉnh, thành phố. + FED: FED gồm 12 ngân hàng địa phương và 25 chi nhánh ở khắp nước Mỹ nên chính thức mà nói. 12 ngân hàng của FED gồm: Boston, New York, philadelphia, Cleveland, Richmon, Atlanta, Chicago, St. Luois, Minneapolis, Kansas City, Dallas, San Francisco. Các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực hoạt động không vì lợi nhuận và việc sở hữu cổ phần của nó là điều kiện để trở thành ngân hàng thành viên. Cổ phần không thể mua bán hay thế chấp. Cổ tức ấn định là 6% một năm.. Bảng 1.2. Bảng tổng kết so sánh FED và NHNN Tiêu chí SBV FED (The State Bank of Vietnam) (Federal Reserve System) ̀ ̣ Thanh lâp Ngay 6/5/1951 theo săc lênh 15/SL do chủ Năm 1913 theo Federal Reserve ̀ ́ ̣ tich Hồ Chí Minh ky. ̣ ́ Act được Quôc hôi Mỹ thông qua. ́ ̣ Vị trí Là cơ quan cua Chinh phủ và là Ngân ̉ ́ Là cơ quan đôc lâp với Chinh phủ ̣ ̣ ́ hang trung ương cua nước Công hoa xã ̀ ̉ ̣ ̀ và quôc hôi My. ́ ̣ ̃ hôi chủ nghia Viêt Nam. ̣ ̃ ̣ Nhiêm vụ ̣ Phat hanh tiên tê, quan lý tiên tê, tham ́ ̀ ̀ ̣ ̉ ́ Thực thi chinh sach tiên tê, giam ́ ́ ̀ ̣ ́ mưu cac chinh sach liên quan ́ ́ ́ sat và quan lý cac tổ chức tin ́ ̉ ́ ́ đên tiên tệ cho Chinh phủ Viêt Nam, quan dung, duy trì sự ôn đinh cua hệ ́ ̀ ́ ̣ ̉ ̣ ̉ ̣ ̉ lý hoat đông cac ngân hang ̣ ̣ ́ ̀ ́ ̀ thông tai chinh My. ́ ̃ thương mai. ̣ ́ Cac ngân Gôm Ngân hang Nhà nước Viêt Nam và ̀ ̀ ̣ Gôm 12 ngân hang dự trữ liên ̀ ̀ ̀ ̀ hang thanh cac chi nhanh ở cac tinh, thanh phố ́ ́ ́ ̉ ̀ bang và cac ngân hang thanh viên. ́ ̀ ̀ viên Ngân sach́ Được sử dung cac khoan thu để trang trai ̣ ́ ̉ ̉ Đôc lâp về tai chinh, doanh thu ̣ ̣ ̀ ́ ̣ ̣ hoat đông chi phí hoat đông cua minh, chênh lêch ̣ ̣ ̉ ̀ ̣ đên từ tiên lai cua cac tai san năm ́ ̀ ̃ ̉ ́ ̀ ̉ ́ thu chi sau khi trich quỹ được nôp Ngân ́ ̣ giữ sach nhà nước. ́
  20. ̃ ̣ Lanh đao Thông đôc Ngân hang nhà nước Viêt ́ ́ ̀ ̣ Chủ tich hôi đông thông đôc do ̣ ̣ ̀ ́ ́ Nam do quôc hôi bâu, là thanh viên Chinh ́ ̣ ̀ ̀ ́ Tông thông chỉ đinh ̉ ́ ̣ phủ ngang bộ trưởng. Bộ may tổ ́ Hôi đông tư vân chinh sach tiên tệ quôc ̣ ̀ ́ ́ ́ ̀ ́ ̣ ̀ Hôi đông thông đôc, Giam đôc ́ ́ ́ ́ chức gia, Thông đôc và cac Vụ trưởng ́ ́ ́ cac ngân hang dự trữ, Hôi đông ́ ̀ ̣ ̀ thị trường mở. ̀ Đông tiên ̀ ̣ ̀ Viêt Nam Đông Federal Reserve Note phat hanh ́ ̀ (con goi là đô la My) ̀ ̣ ̃ ́ Tinh đôc ̣ Thâp do trực thuôc và phai nhân chỉ thị từ ́ ̣ ̉ ̣ Cao do hoat đông đôc lâp với ̣ ̣ ̣ ̣ lâp (về lựa ̣ Chinh phủ (cac chinh sach cung phai có ́ ́ ́ ́ ̃ ̉ chinh phủ (để thanh đôi quy chế ́ ̉ ̣ chon công Chinh phủ quyêt), ngân sach hoat đông ́ ́ ́ ̣ ̣ cua FED quôc hôi thâm chí phai ̉ ́ ̣ ̣ ̉ cụ và muc ̣ cung do Chinh phủ xet duyêt ̃ ́ ́ ̣ sửa đôi hiên phap), cac lanh đao ̉ ́ ́ ́ ̃ ̣ tiêu) có nhiêm kì dai và không được tai ̣ ̀ ́ cử, ngân sach hoat đông đôc lâp. ́ ̣ ̣ ̣ ̣ Mô hình phù hợp cho ngân hàng trung ương Việt Nam: Không có mô hình ngân hàng trung ương nào là lý tưởng cho mọi quốc gia. Sự lựa chọn này không hoàn toàn nằm trong ý muốn chủ quan mà còn phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế- xã hội và thể chế chính trị của từng nước. Điều đó có nghĩa rằng mỗi một quốc gia có thể vận dụng một mô hình Ngân hàng trung ương khác nhau phù hợp với điều kiện thực tiễn của mình. Một số ý kiến cho rằng chúng ta nên lựa chọn mô hình Ngân hàng trung ương độc lập với lý do cơ bản được đưa ra là Ngân hàng trung ương càng độc lập thì càng dễ duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức thấp. Về mặt lý thuyết, ý kiến này là đúng tuy nhiên ở Việt Nam, mô hình Ngân hàng nhà nước là một cơ quan của Chính phủ như hiện nay vẫn phù hợp với thể chế chính trị, đặc thù kinh tế- xã hội và hệ thống luật pháp của nước ta. Bởi vì nó giúp nhà nước thực hiện mục tiêu quản lí, ổn định xã hội được tốt hơn. Đảm bảo các chính sách điều tiết nền kinh tế nhà nước đi đúng hướng, có hiệu quả. Đưa nền kinh tế đất nước đi đúng theo định hướng đã đề ra. Mặt khác việc chuyển đổi sang một mô hình mới là một vấn đề khá khó khăn vì các lí do sau: -Phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, tính đặc thù về thể chế chính trị, tổ chức nhà nước và hệ thống pháp luật của Việt Nam. -Mô hình độc lập tự chủ rất khó vận dụng nhất, vì nó đòi hỏi Ngân hàng trung ương phải có uy tín cao và năng lực thực thi rất tốt, điều này ngân hàng Việt Nam vẫn chưa thể làm tốt được. -Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống tài chính nói riêng đang trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ, việc dự báo dựa trên các biến số kinh tế- tài chính là rất khó khăn. Bên cạnh đó, năng lực thống kê và dự báo của chúng ta hiện vẫn còn rất hạn chế. Vì vậy, việc tự chủ hoàn toàn là không phù hợp với Ngân hàng nhà nước Việt Nam ít nhất là trong thời gian ngắn và trung hạn. Tuy nhiên, để tăng cường hiệu quả hoạt động của Ngân hàng nhà nước với tư cách là một Ngân hàng trung ương trong nền kinh tế thị trường, việc nâng cao tính độc lập của Ngân hàng nhà nước là hết sức cần thiết. Nâng cao tính độc lập không có nghĩa là phải tách Ngân hàng nhà nước ra khỏi bộ máy Chính phủ mà cần phải trao thêm quyền cho Ngân hàng nhà nước trong việc chủ động lựa chọn và điều hành các công cụ chính sách tiền tệ.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2