MÔ HÌNH KINH TẾ MỚI CỦA MALAYSIA (NEM)<br />
VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM<br />
TRONG QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI MÔ HÌNH<br />
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ<br />
Nguyễn Chín1<br />
Tóm tắt: Bài viết giới thiệu những nội dung chủ yếu của Mô hình kinh tế mới của<br />
Malaysia trong giai đoạn 2011-2020 (NEM). Mục tiêu của mô hình này là đưa<br />
Malaysia trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2020. Nâng tỷ lệ tăng trưởng<br />
thực tế trung bình lên 6,5%/năm trong giai đoạn 2011-2020. GNP trên đầu người đạt<br />
17.700USD vào năm 2020. Mặc dù nền kinh tế Malaysia đang ở giai đoạn phát triển<br />
cao hơn Việt Nam. Nhưng, những bài học kinh nghiệm về hạn chế, yếu kém của nền<br />
kinh tế cũng như phương pháp tiếp cận tăng trưởng mới cùng những sáng kiến chiến<br />
lược của NEM có nhiều điểm tương đồng và là những bài học quý báu cho Việt Nam<br />
trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng.<br />
1. Giới thiệu<br />
Malaysia là một quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á, có diện tích là 329.847<br />
km , dân số năm 2013 là 29.628.392 người. Sau hơn năm mươi năm kể từ ngày tuyên<br />
bố độc lập và ba thập kỷ áp dụng chính sách kinh tế mới - NEP, nền kinh tế Malaysia đã<br />
có tăng trưởng đáng kể. Malaysia đã thoát khỏi thu nhập thấp từ năm 1978 với tổng sản<br />
phẩm bình quân đầu người (GDP/người) là 1263USD. Đến năm 1980, tổng sản phẩm<br />
bình quân đầu người đạt 1802 USD/người – gần tương đương với Việt Nam hiện nay.<br />
Sau ba mươi năm, tổng sản phẩm bình quân đầu người của Malaysia đã tăng lên hơn 5<br />
lần, năm 2013 đạt 10.513 USD/người.<br />
2<br />
<br />
Tuy nhiên, Malaysia vẫn còn là một nước thu nhập trung bình, nhóm nghèo vẫn<br />
tồn tại, bất bình đẳng thu nhập vẫn còn cao so với các nước phát triển. Tăng trưởng kinh<br />
tế có xu hướng giảm mạnh và có nguy cơ mắc trong bẫy thu nhập trung bình. Với mục<br />
tiêu gia nhập vào nhóm các quốc gia phát triển, có thu nhập cao vẫn là một thách thức<br />
lớn đối với Malaysia. Chính phủ Malaysia đã xây dựng và công bố mô hình kinh tế mới<br />
(NEM) cho giai đoạn 2010-2020, rút ngắn khoảng cách và kỳ vọng gia nhập vào nhóm<br />
các quốc gia phát triển.<br />
<br />
1<br />
<br />
ThS, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Nam<br />
<br />
NGUYỄN CHÍN<br />
2. Tổng quan kinh tế của Malaysia<br />
Số liệu của Ngân hàng Thế giới cho thấy, quy mô nền kinh tế Malaysia năm 1960 là<br />
2,4 tỷ USD, tổng sản phẩm bình quân đầu người chỉ xấp xỉ 300USD/người. Đến năm<br />
2013 quy mô nền kinh tế là hơn 312 tỷ USD, là một nền kinh tế rất mở - xuất khẩu hàng,<br />
hóa dịch vụ bình quân 100% GDP. Các mặt hàng xuất khẩu chính là xuất khẩu thiết bị<br />
điện, điện tử và linh kiện, dầu mỏ và khí hóa lỏng tự nhiên, hóa chất, dầu cọ, gỗ và sản<br />
phẩm gỗ, cao su, dệt may. Tổng giá trị tài nguyên thiên nhiên chiếm hơn 10% GDP.[6]<br />
15<br />
10<br />
5<br />
<br />
2013<br />
<br />
2012<br />
<br />
2011<br />
<br />
2010<br />
<br />
2009<br />
<br />
2008<br />
<br />
2007<br />
<br />
2006<br />
<br />
2005<br />
<br />
2004<br />
<br />
2003<br />
<br />
2002<br />
<br />
2001<br />
<br />
2000<br />
<br />
1999<br />
<br />
1998<br />
<br />
1997<br />
<br />
1996<br />
<br />
1995<br />
<br />
1994<br />
<br />
1993<br />
<br />
1992<br />
<br />
1991<br />
<br />
1990<br />
<br />
1989<br />
<br />
1988<br />
<br />
1987<br />
<br />
1986<br />
<br />
1985<br />
<br />
1984<br />
<br />
1983<br />
<br />
1982<br />
<br />
1981<br />
<br />
1980<br />
<br />
0<br />
-5<br />
-10<br />
-15<br />
GDP growth (annual %) of Mal aysi a<br />
<br />
GDP per capi ta growth (annual %) of Mal aysi a<br />
<br />
Hình 1. Tốc độ tăng trưởng GDP và GDP bình quân đầu người của Malaysia<br />
trong giai đoạn 1980-2013<br />
Nguồn : Http://data.worldbank.org/country/malaysia<br />
Malaysia đã thoát khỏi thu nhập thấp từ năm 1978 với thu nhập bình quân đầu<br />
người là 1263USD. Từ năm 1980 đến năm 1995, kinh tế Malaysia đã tăng trung bình<br />
7,2% ; trong đó năm 1985 bị tăng trưởng âm 1.1%, sau đó phục hồi và tăng trưởng cao<br />
hàng chục năm với tốc độ gần 10%. Trong giai đoạn từ 1996-2010, tăng trưởng trung<br />
bình 4.75%, trong đó 2 năm tăng trưởng âm (1998 âm 7.3%, 2009 âm 1.5%) do khủng<br />
hoảng. Sau 3 thập kỷ, quy mô GDP tăng gần 12 lần. Tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu<br />
kinh tế hiện nay của Malaysia là 10 %, Công nghiệp chiếm 41 % và dịch vụ thừa chiếm<br />
49%.[5] GDP bình quân đầu người giá thực tế năm 1980 của Malaysia là 1802 USD –<br />
gần tương đương với Việt Nam hiện nay - đến năm 2013 là 10.513 USD.<br />
<br />
GDP,PPP per capita (current US$) of Malaysia<br />
<br />
2013<br />
<br />
2012<br />
<br />
2011<br />
<br />
2010<br />
<br />
2009<br />
<br />
2008<br />
<br />
2007<br />
<br />
2006<br />
<br />
2005<br />
<br />
2004<br />
<br />
2003<br />
<br />
2002<br />
<br />
2001<br />
<br />
2000<br />
<br />
1999<br />
<br />
1998<br />
<br />
1997<br />
<br />
1996<br />
<br />
1995<br />
<br />
1994<br />
<br />
1993<br />
<br />
1992<br />
<br />
1991<br />
<br />
1990<br />
<br />
1989<br />
<br />
1988<br />
<br />
1987<br />
<br />
1986<br />
<br />
1985<br />
<br />
1984<br />
<br />
1983<br />
<br />
1982<br />
<br />
1981<br />
<br />
1980<br />
<br />
20000<br />
18000<br />
16000<br />
14000<br />
12000<br />
10000<br />
8000<br />
6000<br />
4000<br />
2000<br />
0<br />
<br />
GDP per capita (current US$) of Malaysia<br />
<br />
Hình 2. GDP bình quân đầu người của Malaysia trong giai đoạn 1980-2013<br />
Nguồn : http://data.worldbank.org/country/malaysia<br />
6<br />
<br />
MÔ HÌNH KINH TẾ MỚI CỦA MALAYSIA (NEM) VÀ NHỮNG BÀI HỌC...<br />
Kinh tế Malaysia đã có tăng trưởng đáng kể, tuy nhiên, Malaysia vẫn còn là một<br />
nước thu nhập trung bình, nhóm nghèo vẫn tồn tại, bất bình đẳng thu nhập vẫn còn cao<br />
so với các nước phát triển. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới, Malaysia economic<br />
monitor: Repositioning for growth (2009) đã nhận định:<br />
“Thách thức về trung hạn quan trọng nhất đối với kinh tế Malaysia là gia nhập vào<br />
nhóm các nước có thu nhập cao. Malaysia đã tăng trưởng vững chắc trong vài thập kỷ<br />
qua nhưng vẫn còn phụ thuộc vào mô hình kinh tế dựa vào tích lũy vốn là chủ yếu…<br />
Mặc dù đã đạt được nhiều thành công trong quá khứ nhưng khả năng tăng trưởng<br />
của Malaysia vẫn tụt hậu so với sự tăng trưởng của các nền kinh tế khác trong khu vực.<br />
Nền kinh tế dường như bị mắc vào bẫy thu nhập trung bình – không thể duy trì được<br />
tính cạnh tranh của một nhà sản xuất khối lượng lớn với chi phí thấp cũng như không<br />
thể nâng cấp chuỗi giá trị và tăng trưởng nhanh bằng cách thâm nhập vào các thị<br />
trường hàng hóa và dịch vụ mang tính tri thức và sáng tạo đang tăng trưởng mạnh.” [4<br />
tr. 52-53]<br />
Theo đánh giá của Hội đồng cố vấn quốc gia Malaysia (NEAC): sự bất bình đẳng<br />
vẫn còn cao, thậm chí với việc giảm hệ số Gini còn 50% từ năm 1970. Hiện nay có<br />
khoảng gần 4% người dân Malaysia nói chung và hơn 7% người Malaysia ở nông thôn<br />
nói riêng đang sống dưới mức nghèo khổ. Khoảng cách giàu nghèo tăng lên: 40% hộ gia<br />
đình nghèo nhất ở Malaysia, có thu nhập trung bình chỉ bằng một phần bảy của những<br />
người giàu nhất, chiếm 20% dân số.[2][1]<br />
Những điểm yếu của nền kinh tế Malaysia đã được NEAC nhận định : kinh tế<br />
phát triển chậm; môi trường kinh doanh vẫn còn khó khăn; đầu tư tư nhân chưa được<br />
khuyến khích ; xuất khẩu cao nhưng lại không tạo ra đủ giá trị gia tăng; lương trả cho<br />
lao động trình độ cao còn quá thấp; năng suất đang tăng lên nhưng vẫn còn quá chậm;<br />
nỗ lực đổi mới và sáng tạo không hiệu quả; không phát triển được tài năng ; khoảng<br />
cách giàu – nghèo đang rộng ra và Malaysia đang mắc trong bẫy thu nhập thu nhập<br />
trung bình…<br />
Đầu tư của Malaysia đã giảm mạnh từ 40% GDP vào giữa những năm 1990 chỉ<br />
còn 20% GDP ngay trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Trong cơ cấu<br />
đầu tư, vốn nhà nước chiếm cao hơn khu vực tư nhân. Chi phí hoạt động công tương đối<br />
lớn, vốn đầu tư cơ sở hạ tầng chủ yếu dựa vào nguồn thu từ tài nguyên thiên nhiên. Tỷ<br />
lệ đầu tư tư nhân chỉ ở mức 10% GDP, thấp nhất trong khu vực.<br />
35<br />
30<br />
<br />
Private investment<br />
<br />
25<br />
20<br />
15<br />
10<br />
<br />
Private saving<br />
<br />
Public saving<br />
Public investment<br />
<br />
5<br />
0<br />
1994-96<br />
<br />
1997-99<br />
Public saving<br />
<br />
2000-02<br />
Public investment<br />
<br />
2003-05<br />
Private saving<br />
<br />
2006-08<br />
Private investment<br />
<br />
Hình 3. Khoảng cách tiết kiệm và đầu tư của khu vực tư nhân<br />
Nguồn : Trích từ WB (2009) , trang 55<br />
7<br />
<br />
NGUYỄN CHÍN<br />
Khoảng cách giữa tiết kiệm và đầu tư của khu vực tư nhân tăng đáng kể. Tổng<br />
chênh lệch tiết kiệm và đầu tư trong nước lên tới gần 18% GDP; khoảng chênh lệch<br />
đáng kể này được đầu tư ra nước ngoài.<br />
Ngân hàng Thế giới (2009) đã nêu ra một số nguyên nhân của hiện tượng này là<br />
do biến dạng môi trường đầu tư; thiếu hụt lao động có kỹ năng ; gánh nặng của thuế và<br />
các quy định ; thiếu các dịch vụ hỗ trợ; đầu tư của khu vực nhà nước lấn át đầu tư tư<br />
nhân; hạn chế khả năng đổi mới công nghệ, chi phí an ninh cao...[4 trang 54].<br />
3. Những nội dung chủ yếu của mô hình kinh tế mới (NEM)<br />
Chính phủ Malaysia đã quyết tâm cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng bền vững từ<br />
kế hoạch phát triển 5 năm lần thứ X (2011-2015). Trong Báo cáo Ngân sách năm 2010,<br />
Thủ tướng Najib Tun Abdul Razak đã nhận xét:<br />
“Bây giờ chúng ta đang ở một thời điểm quan trọng, hoặc là ở lại bị mắc kẹt trong<br />
một nhóm thu nhập trung bình hoặc tiến tới một nền kinh tế có thu nhập cao. …Chúng<br />
ta đã thành công trong quá khứ trong việc chuyển đổi nền kinh tế từ nông nghiệp sang<br />
công nghiệp. Bây giờ chúng ta phải chuyển sang một mô hình kinh tế mới dựa trên sự<br />
đổi mới, sáng tạo và các hoạt động có giá trị gia tăng cao”. [4 trang 59]<br />
Hội đồng cố vấn quốc gia Malaysia (NEAC) đã công bố mô hình kinh tế mới<br />
(NEM – New Economic Model). Mục tiêu của NEM là xây dựng Malaysia trở thành<br />
một nền kinh tế phát triển và cạnh tranh, tăng trưởng toàn diện và bền vững vào năm<br />
2020; người dân sẽ được hưởng một cuộc sống có chất lượng, đạt mức độ thu nhập cao<br />
– trên 15.000USD/người. [2]<br />
NEM đã nêu 5 đặc trưng của nền kinh tế Malaysia vào năm 2020 là: (1) Nền kinh<br />
tế có vai trò dẫn dắt của thị trường (2) Có một chính phủ tốt (3) Năng động trong khu<br />
vực (4) Kinh doanh (5) Đổi mới.<br />
NEM đưa ra cách tiếp cận mới cho tăng trưởng:<br />
Phương pháp tiếp cận cũ<br />
<br />
Phương pháp tiếp cận mới<br />
<br />
Tăng trưởng nhờ năng suất. Tập trung<br />
vào quá trình sáng tạo và công nghệ tiên<br />
tiến; hỗ trợ đầu tư tư nhân và tài năng; hỗ<br />
trợ hàng hóa và dịch vụ có giá trị gia<br />
tăng cao<br />
Sự tham gia của nhà nước chiếm ưu thế Thúc đẩy cạnh tranh, khôi phục đầu tư tư<br />
trong nền kinh tế. Đầu tư công trực tiếp nhân và sự năng động thị trường<br />
quá lớn.<br />
Lập kế hoạch chiến lược tập trung.<br />
Trao quyền cho chính quyền bang và địa<br />
Tăng trưởng chủ yếu thông qua tích lũy<br />
vốn. Tập trung vào đầu tư sản xuất và cơ<br />
sở hạ tầng kết hợp với lao động có tay<br />
nghề thấp, giá trị gia tăng thấp xuất khẩu.<br />
<br />
8<br />
<br />
MÔ HÌNH KINH TẾ MỚI CỦA MALAYSIA (NEM) VÀ NHỮNG BÀI HỌC...<br />
<br />
Quan tâm tốc độ tăng trưởng cân bằng<br />
các khu vực.<br />
Phân tán hoạt động kinh tế trên toàn quốc<br />
Ưu tiên cho ngành công nghiệp và các<br />
công ty một cách cụ thể.<br />
Xuất khẩu phụ thuộc vào thị trường G3<br />
(Mỹ, châu Âu và Nhật Bản).<br />
<br />
Hạn chế công nhân lành nghề nước<br />
ngoài . Sợ rằng tài năng nước ngoài sẽ<br />
ảnh hưởng lao động địa phương<br />
<br />
phương để phát triển và hỗ trợ các sáng<br />
kiến tăng trưởng; khuyến khích cạnh<br />
tranh giữa các địa phương<br />
Xác định lợi ích từ các cụm kinh tế và<br />
hành lang phát triển .<br />
Tập trung đối với quy mô cả nền kinh tế<br />
và cung cấp tốt hơn các dịch vụ hỗ trợ.<br />
Lựa chọn ưu tiên cho các ngành công nghiệp<br />
và các công ty có khả năng công nghệ .<br />
Xác định một phần chuỗi giá trị, sản<br />
xuất để cung cấp hàng hóa tiêu dùng;<br />
định hướng thị trường truyền thống<br />
Đông Nam Á và Trung Đông.<br />
Duy trì và thu hút các chuyên gia có tay<br />
nghề cao. Khuyến khích tài năng cả<br />
trong và ngoài nước để thúc đẩy sáng<br />
tạo, nâng giá trị gia tăng của nền kinh tế<br />
<br />
NEM cũng đưa ra 8 sáng kiến cải tổ chiến lược (SRI) bao trùm tất cả các vấn đề của nền<br />
kinh tế:<br />
SRI 1: Tái kích thích cho khu vực tư nhân để thúc đẩy tăng trưởng - đột phá trong<br />
đầu tư cho sản phẩm và dịch vụ có giá trị gia tăng cao, tạo ra tăng trưởng và thu nhập<br />
cao. Để thực thi sáng kiến này cần thực hiện các biện pháp:<br />
• Khuyến khích để thúc đẩy đầu tư với các hoạt động tạo giá trị gia tăng cao để<br />
tạo ra hiệu ứng lan tỏa;<br />
• Điều chỉnh ưu đãi riêng để đáp ứng nhu cầu của mỗi loại doanh nghiệp, tạo<br />
điều kiện ưu đãi cho cho ngành, lĩnh vực mới cho cả đầu tư nước ngoài (FDI) và trong<br />
nước (DDI);<br />
• Xây dựng một nền kinh tế mở và đa dạng, giảm sự tham gia trực tiếp của nhà<br />
nước trong nền kinh tế; xóa bỏ các doanh nghiệp nhà nước (GLCs) trong những ngành<br />
mà khu vực tư nhân hoạt động có hiệu quả;<br />
• Hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) trong các lĩnh vực sáng tạo và<br />
công nghệ tiên tiến; tạo điều kiện tiếp cận vốn kịp thời để tài trợ cho các hoạt động kinh<br />
doanh;<br />
• Chú trọng thị trường kinh doanh trong khu vực ASEAN, Trung Quốc , Ấn Độ,<br />
Trung Đông; khai thác các đòn bẩy từ các hiệp định thương mại tự do - FTAs.<br />
SRI 2: Phát triển một lực lượng lao động có chất lượng và giảm sự phụ thuộc vào<br />
lao động nước ngoài. Tái đào tạo kỹ năng của lực lượng lao động hiện có; duy trì và tiếp<br />
9<br />
<br />