Một số biện pháp quản lý xúc cảm tiêu cực
lượt xem 4
download
Bài viết "Một số biện pháp quản lý xúc cảm tiêu cực" khái quát và hệ thống lại những trải nghiệm/ kinh nghiệm về quản lý xúc cảm tiêu cực của chính bản thân chúng tôi trong quá trình sống, học tập và làm việc. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Một số biện pháp quản lý xúc cảm tiêu cực
- MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ XÚC CẢM TIÊU CỰC Phạm Nguyễn Lan Phương1 1. Chương trình Tâm lý học, Khoa Sư phạm. Email: phuongpnl@tdmu.edu.vn TÓM TẮT Xúc cảm có sự tác động mạnh mẽ đối với tư duy và hành động của con người, đặc biệt là những xúc cảm tiêu cực. Con người không thể loại bỏ những xúc cảm tiêu cực ra khỏi đời sống tâm lý. Thế nên, con người cần biết cách quản lý xúc cảm tiêu cực bằng cách thực hiện đồng bộ các biện pháp như cân bằng xúc cảm tiêu cực và tích cực ngay khi có tác động của đối tượng ngoại cảnh; chuyển hóa xúc cảm tiêu cực thành xúc cảm tích cực bằng cách nhìn nhận vấn đề theo hướng lạc quan, tích cực; luôn có ý thức vào các quá trình xúc cảm của bản thân; thường xuyên dành thời gian ở một mình để trải nghiệm và suy ngẫm về các xúc cảm của bản thân; rèn luyện khả năng thích ứng của bản thân với mọi hoàn cảnh; tham gia những hoạt động lành mạnh giúp giải tỏa xúc cảm và tăng cường lĩnh hội và trải nghiệm tri thức về các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan thông qua các hoạt động và giao tiếp. Từ khóa: biện pháp quản lý xúc cảm tiêu cực, quản lý xúc cảm tiêu cực, quản lý xúc cảm, xúc cảm tiêu cực, xúc cảm. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Xúc cảm, tình cảm là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lý con người (nhận thức – tình cảm – hành động). Xúc cảm có một sức mạnh nhất định đối với tư duy và hành động của con người. Khi có sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan tác động, não bộ con người sẽ biểu thị xúc cảm trước nhận thức, tức là xúc cảm sẽ xuất hiện trước tư duy. Xúc cảm không chỉ tác động mà còn thúc đẩy thực hiện các phản ứng hành vi ngay lập tức. Theo đó, hành vi và lời nói phụ thuộc rất lớn vào xúc cảm. Việc quản lý xúc cảm, nhất là các xúc cảm tiêu cực rất quan trọng. Bởi nếu con người không quản lý tốt các xúc cảm tiêu cực sẽ làm cho con người giảm sự tự tin, giảm lòng tự trọng và giảm cả nhiệt huyết đối với cuộc sống. Một khi xúc cảm tiêu cực không được quản lý, chúng sẽ khiến con người có những suy nghĩ và hành động không theo lý trí, sẽ rất dễ dẫn đến những hành vi sai trái. Ngoài ra, khi các xúc cảm tiêu cực kéo dài có thể gây hại được biểu hiện qua sự tức giận bằng bạo lực với người khác thậm chí với chính mình. Do vậy, con người cần biết cách quản lý xúc cảm tiêu cực của chính mình. Trên thực tế, việc quản lý các xúc cảm tiêu cực khó hơn quản lý xúc cảm tích cực. Con người dễ dàng để xúc cảm lấn át lý trí và quyết định hành động ngay lúc những xúc cảm tiêu cực còn đang hiện hữu. Phần lớn con người đều nhận thức được xúc cảm của bản thân ngay tại thời điểm đó nhưng lại không biết cách quản lý và thể hiện xúc cảm làm sao cho phù hợp. Chính vì vậy, việc quản lý xúc cảm tiêu cực trở thành một kỹ năng cực kỳ quan trọng giúp con người không những có quan hệ tốt với nhau mà còn có thể tránh khỏi những tình huống gây căng thẳng, xung đột. Để quản lý tốt các xúc cảm tiêu cực, con người cần có những hiểu biết nhất định về bản 634
- chất của xúc cảm con người nói chung và xúc cảm tiêu cực nói riêng, đồng thời thực hiện được những biện pháp quản lý chúng. 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ XÚC CẢM TIÊU CỰC Trong bài viết này, đối tượng mà chúng tôi hướng đến chính là những biện pháp quản lý xác cảm tiêu cực. Và chúng tôi chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu lí luận (sưu tầm, đọc, tra cứu, nghiên cứu tài liệu, sách báo có liên quan) để phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa những lý luận về xúc cảm tiêu cực. Song song đó, chúng tôi cũng khái quát và hệ thống lại những trải nghiệm/ kinh nghiệm về quản lý xúc cảm tiêu cực của chính bản thân chúng tôi trong quá trình sống, học tập và làm việc. 2.1. Một số khái niệm Có rất nhiều quan điểm khác nhau về xúc cảm. Theo tác giả Vũ Dũng, xúc cảm “là sự phản ánh tâm lý về mặt ý nghĩa sống động của các hiện tượng và hoàn cảnh, tức mối quan hệ giữa các thuộc tính khách quan của chúng với nhu cầu của cơ thể, dưới hình thức rung động trực tiếp” (Vũ Dũng, 2008). Hay theo tác giả Trần Trọng Thủy quan niệm xúc cảm “là một quá trình tâm lý, biểu hiện thái độ của con người hay con vật với sự vật, hiện tượng có liên quan đến nhu cầu của cá thể đó, gắn liền với phản xạ không điều kiện, với bản năng ”. (Trần Trọng Thủy, 2002). Có nhiều cách phân loại xúc cảm, trong bài viết này, chúng tôi sử dụng cách phân loại xúc cảm thành 2 loại chính: xúc cảm tích cực và xúc cảm tiêu cực. Xúc cảm tích cực (hứng thú, vui vẻ, hạnh phúc, hài lòng …) làm con người dễ chịu và cảm thấy tốt hơn, “có tác dụng thúc đẩy con người, đưa con người vào trạng thái căng thẳng hoặc làm cho con người cảm thấy một sự trào dâng đặc biệt”. (Đồng Văn Toàn, 2018). Xúc cảm tiêu cực (bực bội, cáu gắt, giận dữ, lo lắng, buồn bã, sợ hãi, buồn bã, tức giận, hoảng loạn, chán nản, âu sầu, phiền muộn…) “gây ra trạng thái dửng dung, thờ ơ, …. hạ thấp hoạt động sống, hạ thấp nghị lực của con người”. (Đồng Văn Toàn, 2018) làm con người khó chịu, nặng nề, đau đớn, ức chế và hầu như đã là con người không ai muốn trải nghiệm loại xúc cảm này và luôn muốn loại bỏ nó. Trong bài viết này, quản lý xúc cảm tiêu cực được hiểu đó là khả năng hiểu rõ xúc cảm tiêu cực đang hiện diện trong bản thân, thấu hiểu được xúc cảm tiêu cực của người khác, phân biệt được chúng và sử dụng những thông tin ấy để điều khiển, điều chỉnh tư duy và hành động của mình. Nói cách khác, quản lý xúc cảm tiêu cực là khả năng con người kiểm soát, điều chỉnh xúc cảm cho phù hợp trong những tình huống giao tiếp. 2.2. Tổng quan về bản chất xúc cảm trong đời sống tâm lý con người Để có thể quản lý tốt những xúc cảm tiêu cực, con người cần có những hiểu biết nhất định về bản chất của xúc cảm trong đời sống tâm lý con người. Xúc cảm là vấn đề được chú trọng nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực gồm tâm lý học, khoa học thần kinh,…. Dù xúc cảm được tìm hiểu ở góc nhìn nào thì bản chất của xúc cảm chính là sự rung động, là phản ứng của con người trước sự tác động của các yếu tố ngoại cảnh. Xúc cảm con người có đặc điểm là quá trình tâm lý (các xúc cảm diễn ra trong thời gian tương đối ngắn, có mở đầu, diễn biến và kết thúc tương đối rõ ràng), luôn ở trạng thái hiện thực (các xúc cảm được thể hiện ra nên ngoài thông qua ánh mắt, nét mặt, cử chỉ, giọng nói…), có tính nhất thời, 635
- biến đổi và phụ thuộc vào tình huống (xúc cảm của con người không ổn định, luôn thay đổi theo sự tác động của ngoại cảnh) (Nguyễn Quang Uẩn, 2007) Có nhiều quan điểm về nguồn gốc của xúc cảm. S.Freud cho rằng xúc cảm xuất phát từ năng lượng tính dục và bản năng. Thuyết Jemce -Langer về xúc cảm và cho rằng sự xuất hiện xúc cảm là kết quả của những tác động bên ngoài, của các thay đổi nội tại trong phạm vi vận động chú ý và không chú ý. Trong bài viết này, chúng tôi thống nhất với quan điểm nguồn gốc của xúc cảm tiêu cực trong mỗi con người liên quan tới nhu cầu và động cơ của con người. Có nghĩa là xúc cảm của con người gắn liền với sự thỏa mãn nhu cầu của con người. Trong một hoàn cảnh nhất định, một số nhu cầu được thỏa mãn, nhưng một số nhu cầu khác lại bị kìm hãm hoặc không được thỏa mãn, tương ứng với điều đó sẽ làm nảy sinh xúc cảm tiêu cực. Xúc cảm tiêu cực là sự thể nghiệm trực tiếp của một tình cảm. Nó có đặc điểm là xảy ra nhanh, mạnh, do những sự vật, hiện tượng trọn vẹn gây ra; có tính chất khái quát và được chủ thể ý thức rõ ràng. Xúc cảm tiêu cực có hai mặt phản ánh là xúc động và tâm trạng. Xúc động là một dạng của xúc cảm có cường độ rất mạnh xảy ra trong một thời gian ngắn, khi xảy ra con người thường không làm chủ được bản thân, không ý thức được hậu quả hành động của mình. Tâm trạng tiêu cực là một dạng của xúc cảm có cường độ vừa phải hoặc tương đối yếu, tồn tại trong khoảng thời gian tương đối lâu dài, bao trùm lên toàn bộ hoạt động của con người, gây ảnh hưởng rõ rệt đến toàn bộ hành vi của con người trong một khoảng thời gian khá dài. (Phạm Minh Hạc, 1994). Gần đây, các nhà tâm lí học chú ý đến một trạng thái xúc cảm đặc biệt, gọi là trạng thái căng thẳng (stress). Stress là trạng thái căng thẳng về xúc cảm và trí tuệ. Đó là những trạng thái xúc cảm nảy sinh trong những tình huống nguy hiểm, trong những tình huống phải chịu đựng những nặng nhọc về thể xác và tinh thần, hoặc trong điều kiện phải giải quyết những hành động nhanh chóng và trọng yếu. Từ những lý luận về bản chất của xúc cảm, chúng tôi cho rằng con người không thể loại bỏ xúc cảm tiêu cực ra khỏi đời sống tâm lý mà con người chỉ có thể hoặc làm ức chế hoặc làm chuyển hóa/ tiêu biến xúc cảm tiêu cực bằng nhận thức và ý chí trong mỗi con người. Để làm được điều này, đòi hỏi con người cần có những biện pháp quản lý xúc cảm tiêu cực. 2.3. Vai trò của quản lý xúc cảm tiêu cực trong đời sống con người Từ việc hiểu các xúc cảm của chính mình và người khác, con người tránh được những tình huống gây khó chịu, bối rối, những tình huống tranh chấp, xung đột, làm tổn thương đến nhau, kiểm soát những hành vi không chuẩn mực, nhờ vậy mà con người dễ dàng tạo dựng được những mối quan hệ tốt đẹp. Quản lý tốt các xúc cảm tiêu cực còn tạo ra hiệu quả trong việc giảm bớt và chế ngự sự căng thẳng, tăng khả năng chịu đựng áp lực cao trong học tập và công việc. Hơn thế nữa, quản lý tốt các xúc cảm tiêu cực còn giúp con người có được sức mạnh nội tâm cũng như bản lĩnh để đối mặt và vượt qua được những nghịch cảnh của cuộc đời. Qua đó, chúng ta nhận thấy, quản lý tốt các xúc cảm tiêu cực không chỉ giúp ích cho con người trong học tập và cuộc sống mà còn giúp con người tiến gần hơn đến việc hoàn thiện bản thân. 2.4. Những thuận lợi và khó khăn trong quản lý xúc cảm tiêu cực Xuất phát từ những lý luận về bản chất của xúc cảm, chúng tôi nhận thấy có những thuận lợi nhất định trong việc quản lý xúc cảm tiêu cực. Thứ nhất, vì xúc cảm tiêu cực là những hiện tượng tinh thần luôn ở trạng thái hiện thực nên con người dễ dàng nhận biết chúng đang tồn tại ở chính mình và ở người khác. Thứ hai, xúc cảm tiêu cực luôn mang tính chất tạm thời (dễ hình 636
- thành và dễ mất đi) nên con người có nhiều cơ hội để luyện tập và chuyển hóa những xúc cảm tiêu cực thành xúc cảm tích cực. Thứ ba, xúc cảm tiêu cực của con người luôn phụ thuộc vào tình huống thế nên con người có thể quản lý xúc cảm tiêu cực của chính mình bằng cách điểu khiển, điều chỉnh và kiểm soát được những tình huống/ hoàn cảnh làm nảy sinh xúc cảm tiêu cực. Thứ tư, xúc cảm là những hiện tượng tâm lý rất gần gũi, quen thuộc và gắn bó với mỗi con người, thế nên bất kỳ nơi đâu, vào thời bất kỳ thời điểm nào con người cũng có thể chú tâm quan sát, trải nghiệm và thực hành quản lý chúng. Tuy nhiên, cũng có không ít những khó khăn trong việc quản lý xúc cảm tiêu cực. Thứ nhất, xúc cảm tiêu cực là những hiện tượng tinh thần được nảy sinh trong não bộ con người và chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng và con người khác trong hiện thực khách quan. Mà các yếu tố trong hiện thực khách quan luôn vận động và biến đổi không ngừng nên các hiện tượng xúc cảm tiêu cực trong mỗi con người cũng hết sức đa dạng và phong phú nên rất khó để quản lý chúng. Thứ hai, nguồn gốc làm nảy sinh các xúc cảm tiêu cực là do nhu cầu, lòng ham muốn của con người. Khi nào con người còn có mong muốn được thỏa mãn nhu cầu từ những sự vật, hiện tượng và con người khác trong thế giới khách quan thì khi đó những xúc cảm tiêu cực trong mỗi con người sẽ vẫn tồn tại và hiện diện. Bởi vì không phải lúc nào những yếu tố trong ngoại cảnh cũng khiến cho nhu cầu của con người được thỏa mãn. Thế nên để quản lý tốt các xúc cảm tiêu cực đòi hỏi con người phải biết tiết chế những nhu cầu, lòng ham muốn của bản thân, thậm chí phải từ bỏ luôn một một số nhu cầu. Thực tế cho thấy, việc làm chủ nhu cầu và ham muốn trong mỗi con người là không dễ dàng. Nó đòi hỏi con người phải có sự thông hiểu về bản chất của cuộc đời, phải có nghị lực kiên cường, ý chí dũng mãnh cũng như niềm tin vững chắc và quyết tâm thực hiện với ý muốn thiết tha chuyển hóa xúc cảm tiêu cực. 2.5. Một số biện pháp quản lý xúc cảm tiêu cực Nhóm biện pháp 1: “Chữa trị” - Mục đích: Đối trị với xúc cảm tiêu cực khi chúng đang hiện hữu, đưa con người trở về với trạng thái tâm lý cân bằng. Biện pháp 1: Cân bằng xúc cảm tiêu cực và tích cực ngay khi có tác động của đối tượng ngoại cảnh. Khi nhận thấy sự thay đổi xúc cảm một cách thái quá thì phải giữ cho bản thân trong trạng thái im lặng tuyệt đối từ bên ngoài đến bên trong. Trạng thái im lặng bên ngoài có nghĩa là dừng lại việc nói ra bên ngoài bằng lời. Và trạng thái im lặng bên ngoài sẽ thực hiện được một cách dễ dàng nếu bản thân giữa được trạng thái im lặng bên trong. Trạng thái im lặng bên trong chính là việc dừng lại những suy nghĩ, tư duy về đối tượng đang tạo cho bản thân những xúc cảm hiện có và thay vào đó là sự tập trung chú ý, suy nghĩ và tư duy đến đối tượng khác chính là trạng thái xúc cảm hiện có của chính mình và ngay khi đó bản thân sẽ nhận diện và gọi tên được một cách rõ ràng trạng thái xúc cảm đang hiện hữu. Nhờ việc hướng sự tập trung chú ý vào chính nội tâm của mình mà bản thân giữ được sự bình ổn trong xúc cảm và tỉnh táo trong nhận thức để có thể hiểu được nguồn gốc và nguyên nhân nào gây ra xúc cảm hiện hữu của bản thân và từ đó bản thân có thể điều khiển, điều chỉnh lại xúc cảm theo như mong đợi. Biện pháp 2: Chuyển hóa xúc cảm tiêu cực thành xúc cảm tích cực bằng cách nhìn nhận vấn đề theo hướng lạc quan, tích cực 637
- Nguồn gốc của xúc cảm tình cảm trong mỗi con người luôn bắt nguồn từ nhu cầu. Khi đối tượng thỏa mãn nhu cầu thì bản thân thường sẽ có những trạng thái xúc cảm tích cực, dễ chịu. Ngược lại, khi đối tượng không thỏa mãn nhu cầu thì bản thân sẽ có những trạng thái xúc cảm tiêu cực, khó chịu. Thế nên, việc chuyển hóa xúc cảm tiêu cực thành xúc cảm tích cực sẽ được thực hiện dễ dàng nếu như bản thân biết làm chủ (điều khiển, điều chỉnh) nhu cầu của mình, thậm chí nếu cần thiết có thể từ bỏ nhu cầu đó. Ngoài ra, bản thân cũng có thể chuyển hóa xúc cảm tiêu cực thành xúc cảm tích cực bằng cách làm chủ (điều khiển, điều chỉnh) nhận thức của bản thân về đối tượng đang gây ra xúc cảm tiêu cực cho bản thân. Một trong những đặc trưng trong tâm lý tình cảm con người là mang tính nhận thức. Nói một cách khác, nhận thức và xúc cảm tình cảm có mối quan hệ qua lại với nhau. Chính nhận thức, nó là “cái lý” của tình cảm nên có thể nói những xúc cảm, tình cảm hiện hữu ở mỗi con người là do sự tác động, ảnh hưởng của nhận thức. Nhận thức tích cực sẽ dẫn đến xúc cảm tích cực và ngược lại nhận thức tiêu cực sẽ dẫn đến xúc cảm tiêu cực. Thế nên, ngay khi bản thân đang hiện hữu những xúc cảm tiêu cực, bản thân cần bình tĩnh xem xét lại cách nhận thức đối tượng. Bản thân cần thay đổi tư duy theo hướng lạc quan, tích cực về đối tượng trên tinh thần thiện ý, hiểu được những góc khuất, những trắc ẩn, những khó khăn của đối tượng để có thể cảm thông cho những gì đối tượng đã gây ra cho mình và khi đó bản thân sẽ dễ dàng cảm thông và tha thứ cho đối tượng. Và chính từ cách nhận thức đối tượng như vậy, bản thân sẽ chuyển hóa được những xúc cảm tiêu cực và thay vào đó là những xúc cảm tích cực trên nền tảng của sự thương yêu và tha thứ. Nhóm biệp pháp 2: “Phòng ngừa” Mục đích: Giúp con người hạn chế được sự nảy sinh những xúc cảm tiêu cực, tạo “sức đề kháng”, khả năng chống chọi với xúc cảm tiêu cực. Biện pháp 1: Luôn có ý thức vào các quá trình xúc cảm của bản thân Trong quá trình hoạt động và giao tiếp với các đối tượng bên ngoài, con người không những ý thức các đối tượng nào đang tác động đến bản thân, mà còn phải hướng ý thức đó vào chính trạng thái tâm lý của bản thân để biết được phản ứng xúc cảm của bản thân đến đối tượng là như thế nào, có phù hợp hay chưa. Con người phải chấp nhận những tác động của ngoại cảnh và thừa nhận xúc cảm hiện có của bản thân và cần xem nó là một phản ứng tâm lý bình thường, tránh sự tự phê phán lên các phản ứng đó để các phản ứng xúc cảm không bị chồng chéo lên nhau, rất khó để kiểm soát. Ngoài ra, trong những tình huống bình thường, con người có thể dùng những biện pháp ghi nhớ để nhắc nhở bản thân chú ý đến trạng thái xúc cảm của mình để hình thành thói quen chú ý đến trạng thái tâm lý của nội tâm. Và trong những tình huống nhất định sẽ có những tác động gây nên những xúc cảm mạnh, con người cần giữ được bình tĩnh, luôn luôn tự nhắc nhở bản thân phải chú ý đến xúc cảm của mình và phải có ý nghĩ và hành vi nhằm hướng tới sự kiểm soát xúc cảm theo ý muốn của bản thân. Cuối cùng, con người cần cần quan sát, để ý những xúc cảm của những người xung quanh cũng như cách hành xử của họ cũng là một cách nhắc nhở bản thân chú ý đến xúc cảm, hành vi của mình. Biện pháp 2: Thường xuyên dành thời gian ở một mình để trải nghiệm và suy ngẫm về các xúc cảm của bản thân. Lập kế hoạch dành một khoảng thời gian trong ngày, ngồi một mình đối mặt với chính mình để hồi tưởng, suy ngẫm lại các xúc cảm của bản thân và ghi nhận lại toàn bộ chân dung xúc cảm của bản thân trong một ngày, một tuần, một tháng... Thường xuyên độc thoại nội tâm 638
- để có thể lý giải nguồn gốc, nguyên nhân gây nên các xúc cảm và tìm cách duy trì xúc cảm mong đợi cũng như chuyển hóa những xúc cảm không mong đợi. Ghi chú, lập danh sách tác động của ngoại cảnh đã gây nên những xúc cảm và hệ thống lại phản ứng xúc cảm của bản thân với những tác động đó một cách trung thực và khách quan. Sau đó, tự tưởng tượng lại tình huống rồi giải quyết chúng bằng nhiều cách khác nhau, từ đó cho ra những phương án ứng phó tốt nhất cho từng tình huống. Đồng thời so sánh những biểu hiện trước đó và bây giờ để xem sự tiến bộ trong biểu hiện thái độ, hành vi. Cuối cùng, sắp xếp lại tâm trí để sẵn sàng tâm thế đối mặt với các tình huống sắp tới trong cuộc sống. Biện pháp 3: Rèn luyện khả năng thích ứng của bản thân với mọi hoàn cảnh Con người có thể rèn luyện khả năng thích ứng của bản thân với mọi hoàn cảnh bằng cách tận dụng những hoàn cảnh sống thực tế của bản thân (có thể là thuận cảnh và cũng có thể là nghịch cảnh) để trải nghiệm sự hiện diện của những xúc cảm cũng như sự trải nghiệm những cách duy trì hoặc vượt qua các xúc cảm. Ngoài ra, con người cũng có thể tự tạo, tự tìm kiếm cho mình những hoàn cảnh sống mới, môi trường học tập và làm việc mới có nhiều thử thách để bản thân có cơ hội được hòa nhập và thích ứng với môi trường. Biện pháp 4: Tham gia những hoạt động lành mạnh giúp giải tỏa xúc cảm Giải tỏa xúc cảm là một yếu tố vô cùng quan trọng trong việc quản lý xúc cảm tiêu cực. Con người chỉ có thể hoạt động và giao tiếp tốt trong trạng thái tinh thần bình ổn. Dù là xúc cảm tích cực hay tiêu cực nếu không được giải tỏa cũng sẽ gây ra sự mất cân bằng xúc cảm dễ dẫn đến những hành vi không phù hợp. Không phải cách thức giải tỏa nào cũng đem đến sự bình tâm cho con người. Và chỉ có những cách thức giải tỏa xúc cảm bằng những hoạt động lành mạnh mới giúp bản thân quản lý tốt các xúc cảm tiêu cực. Để giải tỏa xúc cảm, con người có thể tham gia các hoạt động giải trí lành mạnh như chơi những môn thể thao (đá bóng, bóng rổ,…), những hoạt động nghệ thuật (hội họa, âm nhạc,…), những hoạt động nhẹ (đọc sách, nghe nhạc,…) và thường xuyên tập thể dục. Con người cũng nên chọn những hoạt động tham gia cho phù hợp nhất với bản thân mà không gây ra căng thẳng, tác dụng ngược. Không nên tìm đến những hoạt động gây tác động xấu đến mặt xúc cảm như xem những bộ phim gây ra xúc cảm mạnh hoặc khi tham gia thể thao, chơi game quá để ý đến chuyện thắng thua vì như vậy không làm giải tỏa được xúc cảm mà còn gây căng thẳng. Đồng thời, tích cực tìm kiếm và tham gia những hoạt động xã hội để có cơ hội tiếp cận với đa dạng các con người trong các hoàn cảnh sống để hiểu thêm về cuộc đời, từ đó có thể có thêm niềm tin, nghị lực sống cho bản thân. Sắp xếp thời gian thư giãn tinh thần cuối mỗi ngày học tập và làm việc nhằm giải tỏa áp lực, căng thẳng và tiếp xúc thường xuyên với những nguồn xúc cảm tích cực. Biện pháp 5: Tăng cường lĩnh hội và trải nghiệm tri thức về các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan trong các hoạt động và giao tiếp Có thể nói tâm lý con người chỉ có thể được hình thành và bộc lộ trong hoạt động và thông qua hoạt động, trong đó có giao tiếp. Nhờ có hoạt động và giao tiếp mà con người sẽ tiếp thu, lĩnh hội được những tri thức, kinh nghiệm sống, những chuẩn mực đạo đức, pháp luật trong xã hội. Nhờ có hoạt động và giao tiếp mà con người sẽ nhận ra chính bản thân mình đang có những ưu điểm và hạn chế gì. Và cũng nhờ hoạt động và giao tiếp mà con người có cơ hội vận 639
- dụng kiến thức vào trong các tình huống ứng xử để rèn luyện kỹ năng cho bản thân trong đó có kỹ năng quản lý xúc cảm. Thế nên, con người cần có những hoạt động và giao tiếp một cách đa dạng và phong phú để có thêm tri thức về cuộc đời, để biết khả năng quản lý xúc cảm của mình đến đâu và để có môi trường thực hành quản lý xúc cảm. Các biện pháp vừa nêu có mối quan hệ tác động qua lại và thống nhất với nhau từ nhận thức đến hành vi. Để có thể quản lý tốt các xúc cảm tiêu cực, con người cần thực hiện đồng độ các biện pháp trên một cách thường xuyên và thiện xảo. Trong trường hợp dù đã nỗ lực rất nhiều nhưng con người vẫn không thể tự quản lý xúc cảm thông qua một số biện pháp trên, chúng ta nên nhờ đến sự trợ giúp từ các chuyên gia tâm lý hoặc bác sĩ tâm thần. 3. KẾT LUẬN Xúc cảm là thành phần không thể thiếu trong đời sống tâm lý của mỗi người. Xúc cảm là động lực thúc đẩy hành vi cá nhân hoạt động có hiệu quả, nhưng đồng thời xúc cảm tiêu cực nằm ngoài tầm kiểm soát sẽ khiến hành động trở nên lệch lạc. Quản lý xúc cảm tiêu cực là một kỹ năng cần thiết, hoàn toàn có thể học tập, rèn luyện được trên nền tảng nhận thức, nghị lực và ý chí. Để quản lý tốt xúc cảm tiêu cực, chúng ta cần thực hiện những những biện pháp “chữa trị” những xúc cảm tiêu cực đang hiện hữu bằng cách cần bằng và chuyển hóa xúc cảm tiêu cực thành tích cực và biện pháp “phòng ngừa” để hạn chế được sự nảy sinh những xúc cảm tiêu cực, tạo “sức đề kháng”, khả năng chống chọi với xúc cảm tiêu cực bằng ý thức, sự thích ứng, sự trải nghiệm và suy tư…. Cần có sự kết hợp đồng bộ các biện pháp một cách thường xuyên và thiện xảo sẽ giúp cho việc quản lý xúc cảm tiêu cực đạt kết quả cao. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Dũng (2008), Từ điển tâm lý học, NXB Từ điển Bách khoa. 2. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (1994). Tâm lý học, Nhà xuất bản Giáo dục. 3. Đồng Văn Toàn (chủ biên) (2018). Tâm lý học đại cương, Nhà xuất bản Đại học Huế. 4. Trần Trọng Thủy (2002), Những vấn đề lý luận về trí tuệ và chỉ số IQ, Đề cương báo cáo khoa học, Đề tài KX-05-06, Hà Nội. 5. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên) (2007). Tâm lý học. Nhà xuất bản Giáo dục. 640
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài giảng Kỹ năng lãnh đạo và quản lý: Tạo động lực làm việc cho nhân viên - PGS. TS. Trần Văn Bình
43 p | 861 | 240
-
20 biện pháp giúp nhóm làm việc hiệu quả
6 p | 319 | 122
-
Quy trình lưu trữ hồ sơ
3 p | 531 | 114
-
Kỹ năng lãnh đạo - Nghệ thuật giảm Stress
6 p | 162 | 51
-
Quản lý nội tại hiệu quả
63 p | 124 | 20
-
NHỮNG ĐIỀU ĐƠN GIẢN MÀ CÁC NHÀ QUẢN LÝ NÊN ÁP DỤNG TRONG THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ
5 p | 131 | 18
-
6 yếu tố thiết yếu của tính sáng tạo công ty
5 p | 108 | 15
-
Tại Sao phương pháp kỷ luật của tôi không có tác dụng?
3 p | 131 | 12
-
Làm sao để giữ chân nhân tài
5 p | 123 | 11
-
Tại sao có phương pháp kỷ luật hiệu quả với đứa trẻ này, nhưng với đứa trẻ khác thì không?
3 p | 103 | 8
-
Biện pháp quản lý văn hóa ứng xử của sinh viên trước tác động của mạng xã hội (Nghiên cứu trường hợp trường Đại học Kinh tế - Đai học Đà Nẵng)
6 p | 36 | 6
-
Quản lý nhân viên mùa... EURO
5 p | 81 | 5
-
Thực trạng giáo dục kỹ năng làm việc nhóm cho sinh viên năm 2, trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế
9 p | 52 | 5
-
Một số biểu hiện về lối sống của nữ sinh sư phạm khu vực miền núi phía Bắc thông qua hoạt động giao tiếp
4 p | 37 | 4
-
Điều trị sốt tại nhà
3 p | 115 | 3
-
6 phương pháp đánh giá nhân viên phổ biến nhất
5 p | 41 | 3
-
Quản lý phát triển kỹ năng mềm cho chuyên viên giám sát hành khách ở Tổng công ty Hàng không Việt Nam theo tiếp cận đào tạo dựa trên năng lực
7 p | 62 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn