Nghệ thuật cải lương Phần 3
Âm điệu
Bài ca Ci lương đặt theo bản đờn, nên kịch sphải tùy âm nhạc, không
được tự do phô diễn hết tài năng của mình như trong điệu hát Bội. Ca dư i
thì trđờn, còn thiếu i dứt trước đờn. Kịch sbị buộc trong khuôn kh
nhịp đờn, dầu i m nhiều cũng không thể vượt ra ngoài nhịp vì sca
lỗi nhịp.Lúc sau y, trong điệu Ci lương bản Vọng cổ thêm nhiu nhịp.
Bài ca vọng cđặt không ăn sát câu đờn, miễn đầu và dứt u đờn, ca
cho trúng hơi, trúng nhịp. Nhvậy, nhiều kịch sỹ được tdo pbày hết
khả năng của mình. (Nghệ sỹ Thanh Thanhm)
Một khuyết điểm thứ hai là đương nói chuyn kế bắt qua ca. Trmột ít danh
ca biết cách "mở hơi" cho câu ca của mình có hứng thú, còn phần đông vô ca
nghe kkhan chã lm, không mùi vchút nào. Lỗi ấy một phần do
ban âm nhạc thờ ơ, không thuộc chỗ nào sắp ca đặng giao đờn trước hầu gợi
ý cho khán giả có cảm giác vui buồn trước khi nghe ca, như n âm nhạc hát
Bội.
Cải lương được chỗ ưu điểm là nhờ âm nhạc biết tùy hơi cao thấp của kch sĩ
để lên y Hò, nên kịch sca đúng i "thiên phú" của mình không rán hơi
quá như n hát Bội.
Thế nào là một giọng ca cải lương hay?
Cải lương những làn điệu bài bn cố định, tđó nhạc sthiết kế để phù
hợp vi m trạng từng nhân vật. Trong ngần y mu gốc, làn điệu bản,
hát thế nào cho hay, cho đẹp, hơi ấm tình cm và bn sắc riêng hoàn toàn
phthuộc vào i nghđiều khiển, thao túng nhịp điệu của từng diễn viên
hát ci lương.
Yếu tố hàng đầu cho một giọng ca cải lương hay chính là sức mạnh truyền
cm. Một giọng ca hời hợt, chỉ thấy lời mà không thấy lòng người, không
phải là giọng ca hay. Ngay cả một giọng ca điêu luyện về kỹ thuật mà không
có linh cm, có cái "hồn" thì cũng chỉ là một giọng ca chết, không sinh khí.
Một giọng ca hay là giọng ca lột tả đến cùng tình cm của u hát, của m
trạng nhân vật bằng tất cả rung động của trái tim người hát và bng cquá
Thanh Thanh Hientrình khluyện, tìm ra được cách biểu hiện tốt nhất. Khi
nội dung i hát đã thấm vào ng din viên, đã biến thành u thịt, thì các
kthuật gieo u, nhả chữ, ngừng lặng, luyến láy, đều là kết quả sự xúc
động tình cm u sắc của người hát. Một người rất ít nghe cải lương, thậm
chí chưa nghe bao giờ, cũng thể xúc động khi nghe một ging ca truyền
đạt chính xác sắc độ tình cm của lời bài hát, của nhân vật như: yêu thương,
nhớ nhung, buồn bã hoặc căm uất, giận hờn...
Tùy cách chế ngự điều khiển của từng diễn viên vi bài bn cải ơng, s
quyết định từng màu sắc riêng biệt của mỗi giọng ca.
Mỗi người sẽ tạo ra một chất giọng riêng, không ln vào đâu được. người
ta d dàng nhận ra một L Thủy, Bạch Tuyết, M Châu... hay út Trà ôn,
Minh Vương, Minh Phụng, Minh Cảnh... trên sân khấu phía Nam.
Một giọng ca hay trên n khấu chỉ thể được coi là hoàn hảo nếu kng
tách ri nghệ thuật n khấu biểu diễn. Thanh Thanh TamVì vy, tiêu chuẩn
thhai của giọng ca hay là biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa ca và din. Nếu
diễn viên chỉ cý đến lời hát không quan tâm đến nhân vật thì khán gi
ch thể nhớ đến con người thật của anh ta chứ hoàn toàn kng gn với
một hình tượng nhân vật nào cả. Ðiu đó giống như nghe hát những bài
vọng cổ n một vai diễn ca hay. Ngược li, nếu din viên diễn xuất thật
hay mà ca dthì mọi người lại kng nghĩ mình đang xem cải lương! Cần
thiết phải có sự kết hợp hài hòa, nếu không xem như thất bại.
Trong ci lương, giọng ca là cùng quan trng nhưng không phải là tt cả.
thế, được một giọng ca "trời phú" thì cn phải rèn luyện, trau dồi đ
ngày càng tiến bộ hơn với những vai diễn thật sự có "hồn".
Vọng cổ hoài lang
Người yêu, yêu đến si tình, nhưng người ghét thì ghét cay, ghét đắng. Ch
nghe n đã mun đào đất đđi, có khi vì sghen ghét y mà sân khấu cải
lương cũng bị vạ lây. lẽ vì thế sau khi ra đời bài Vọng cổ đã phi bao
ln thay tên, đổi họ "hóa thân", mi sống được tới ngày hôm nay.
Cao Van LauDcổ hoài lang (Vọng choài lang) ra đời được hơn nửa thế
kỷ. đã làm cho nn móng cho nhiều bài vọng cổ không ngừng phát triển.
Ðó là một hiện tượng có liên quan đế cuộc đời tác giả-nhạc sĩ Cao Văn Lầu.
Xuất thân từ một gia đình bn nông thuộc tỉnh Long An (trước là n An),
lúc lên u tui, nhạc sĩ đã phải cam chịu cảnh báp bức bóc lột như muôn
ngàn gia đình nông dân nghèo khổ khác.
Tuy còn nhnhưng cu Cao Văn Lầu đã chứng kiến nhiều sự ngang trái
trong cuộc sống tha phương cầu thực, y đây mai đó, hết làm ngh này lại
chuyển sang nghkhác và trong con tim nhđã chớm nở dần những xúc
cm về cuộc đời. Từ khi gia đình định cư một vùng đất biển Bạc Liêu thì
tính nghsĩ của chàng trai ngày ng được thể hiện rõ rệt. Ðược sdạy bảo
cẩn thận về âm nhạc của lão ngh Hai Khị, Cao n Lầu bắt đầu cống
hiến cuộc đời mình cho snghiệp âm nhạc. Nhạc sĩ rất thành thạo về môn
nhạc lễ và nhạc tài tkhi nhạc sĩ đang đ 20 tuổi và cũng đồng thời với
phong trào "ca ra bộ" bắt đầu phát triển ra khắp lục tỉnh Nam Kỳ lúc bấy
giờ.
Chi Linh -Thanh HangBản Vng cổ trước hết tên Dcổ được nhạc s
Cao Văn Lầu sáng chế hồi năm 1920 (sau ba năm khi cải ơng ra đời). Sanh
1890, ông u Lu được 30 tuổi khi ông chế bản Vng cổ. Lúc y ông cưới
vđược 10 m, nhưng không con. Cha mẹ ông buộc phi cưới vợ khác
s tuyệt tự. Ông buồn rầu không còn muốn m ăn gì nữa. Ban ngày ra
ngoài đng, ông nghiền ngẫm những li vợ ông nói trước khi chia tay. Ông
biết đờn cnhạc nên trong m trng người chồng đau khổ trước cảnh gia
đình tan rã, ông cm hứng tạo ra bản nhạc 20 câu gọi "Dạ cổ hoài lang"
(Ðêm khuya nghe tiếng trng nhớ chồng), ý để kniệm mối m tình của