Đề bài: Nghị luận “Vợ nhặt” của Kim Lân để thấy được giá trị nhân đạo sâu sắc<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Cái vị đời này người ta luôn có một sự khao khát về tình yêu và hạnh phúc. Trong cái xã <br />
hội này, cái tình người luôn là một ngọn lửa đem lại sự ấm áp đem lại một niềm tin mới <br />
một sức sống mới cho những người khốn khổ. Khi con người ta rơi vào một bước đường <br />
cùng, cái khao khát về một cuộc sống thực sự mạnh mẽ. Và khi đọc tác phẩm “Vợ nhặt” <br />
của Kim Lân chúng ta sẽ thấy được cái sự khao khát đó.<br />
<br />
Câu chuyện kể về anh cu Tràng. Một anh chàng nhà nghèo đã nhặt được vợ trong cái hoàn <br />
cảnh xóm ngụ cư người chết đói đầy đường. Tác phẩm đã phản ánh được số phận của <br />
những con người trong cái xã hội đó trước khi cách mạng bùng nổ. Họ có một sự khao <br />
khát về một cuộc sống, về một tình yêu hạnh phúc. Những khao khát thực sự bình dị của <br />
những con người nghèo khó.<br />
<br />
Tác phẩm “Vợ nhặt” là một tác phẩm được đánh giá là có giá trị nhất trong nền văn <br />
chương Việt Nam khi nói về nạn đói năm 1945. Khi mà chưa có tác phẩm nào thể hiện <br />
được hay và xúc động như thế. Cảm hứng về sự nhân đạo trải dài khắp câu chuyện.<br />
<br />
Khi đọc tác phẩm “Vợ nhặt” chúng ta thấy được nỗi đau khổ tột cùng của người dân. <br />
Nạn đói Ất Dậu 1945 đã cướp đi sinh mạng của bao con người. Những xác chết ngổn <br />
ngang khắp các lều chợ, đoàn người đói ăn dắt díu nhau “xam xám như những bóng ma”. <br />
Quạ đen bay từ những ngọn cây bay vù lên “Như những đám mây đen” chờ ăn xác chết. <br />
Mùi xác người khắp các xóm chợ, chết như ngả rạ. Cái cảnh đó lúc nào cũng hiện hữu <br />
vào những buổi sáng, có ít nhất bốn năm cái thây chết còng queo bên đường. Thực sự là <br />
một sự đớn đau đến tột cùng.<br />
<br />
Trong cái cảnh đó, đói chết đâu có tha cho bất cứ ai. Mẹ con Tràng cũng “rúm ró” trong <br />
cái nhà vắng teo trong cái mảnh đất mọc phủ đầy cỏ dại. Tấm phên cửa rách nát, mọi thứ <br />
bừa bộn khắp mọi nơi trên đường dưới đất. Nhìn thấy cái sự thực đó nàng dâu mới của <br />
Tràng cũng phải thấy thực sự thất vọng “nén một tiếng thở dài”.<br />
Bà cụ Tứ “mặt bủng beo u ám”. Anh cu Tràng “bước mệt mỏi”. Cái đầu “trọng nhẵn chúi <br />
về đằng trước’’ với bao lo lắng, chật vật. Đám trẻ con xóm chợ, trước đây tinh nghịch <br />
thế, giờ đây chúng “ngồi ủ rũ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích”. Trước nhà <br />
kho trên tỉnh có mấy chị con gái “ngồi vêu ra”. Đặc biệt nhân vật “thị”, cái đói đã đi tất <br />
cả. Không họ tên, tuổi tác, không gia đình, anh em. Không quê hương bản quán. Hình hài <br />
tiều tụy, xơ xác đáng thương. Áo quần “tả tơi như tổ đỉa “gầy sọp hẳn đi”, khuôn mặt <br />
lưỡi cày “xám xịt”, chỉ còn thấy hai con mắt.<br />
<br />
Phía trước con đường đó chính là vực thẳm, cái đói đã cướp đi tất cả những gì “thị” có. <br />
Chỉ nghe thấy Tràng nói “muốn ăn gì thì ăn”. Con mắt của thị cũng bừng sáng lên “trũng <br />
hoáy”. Và trong cái cơn đói đó, một người người cũng trở nên thô lỗ, “thị” đã ăn một chặp <br />
bốn bát bánh đúc. Nhưng trong cái hoàn cảnh đó người ta chỉ thấy được một sự đáng <br />
thương, không hề đáng chê. Đói đến sắp chết đến nơi, mà nhặt được miếng ăn, thì người <br />
ta sẽ phải ăn để có thể sống. Không chỉ riêng “thị” mà bất cứ ai trong cái nạn đói Ất Dậu <br />
năm đó đều cũng có thể như vậy mà thôi. Đó là cuộc sống đói khát của những người <br />
nghèo thời bấy giờ.<br />
<br />
Cái xóm ngư cụ càng về chiều “càng xơ xác, heo hút”. Nhà cửa “úp súp,tối om”, những <br />
khuôn mặt “hốc hác u tối”. Bữa cơm đón nàng dâu mới của bà cụ Tứ là một nồi cháo <br />
cám. Người con gái giữa trận đói như một thứ vứt đi, có thể “nhặt” được. Thị lấy chồng <br />
không một quả cau, không một lá trầu, chẳng có quan tám tiền cheo, quan năm tiền cưới, <br />
lại đèo buồng cau”. Về nhà chồng, đứng trước mẹ chồng, nàng dâu mới “khép nép”. “Cúi <br />
mặt xuống tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Tối tân hôn “tiếng khóc tỉ tê” của những gia đình <br />
có người mới chết đó vọng đến thê thiết não nùng.<br />
<br />
Sáng tinh mơ tiếng trống thúc thuế dội lên từng hồi “dồn dập, vội vã”. Bằng những chi <br />
tiết rất hiện thực, rất điển hình. Kim Lân đã thể hiện tình cảm xót thương, lo âu cho số <br />
phận của người nghèo khổ trước hoạn nạn, trước nạn đói đang hoành hành. Đáng quý <br />
hơn nữa, ông đã đứng về phía nhân dân. Về phía người nghèo vạch trần và tố cáo tội ác <br />
của Nhật – Pháp, bắt trồng đay, bắt đóng thuế. Bóc lột dân ta đến tận xương tủy, gây ra <br />
trận đói năm Ất Dậu làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.<br />
Tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân đã nói lên sự trân trọng với hạnh phúc của con người. <br />
Câu chuyện với lối kể hóm hỉnh về việc anh cu Tràng nhặt được vợ. Chỉ vài câu “tầm <br />
phơ tầm phào” rồi cho thị bốn bát bánh đúc thế là nhặt được thị làm vợ.<br />
<br />
Nhưng nhặt được thị Tràng vẫn nghĩ phải liều “Chặc, kệ”. Nghĩ đến gạo không đủ để <br />
nuôi thân còn “đèo bòng”. Trên đường dẫn vợ mới nhặt được về nhà xin phép mẹ già, anh <br />
cu Tràng vui như mở cờ trong bụng. Kim Lân tả đôi mắt và nụ cười của anh con trai cục <br />
mịch này để làm nổi bật niềm hạnh phúc mới nhặt được vợ. Các hình ảnh Tràng “phởn <br />
phơ khác thường”, “tủm tỉm cười nụ”, hai mắt “sáng lên lấp lánh”, mặt “vênh vênh tự <br />
đắc”. Tác giả đã lột tả được sự khao khát về một cuộc sống hạnh phúc của một con <br />
người nghèo khó lớn đến dường nào.<br />
<br />
Hình ảnh Tràng và thị đi bên nhau trông “hay đáo để”. Tràng khoe hai hào dầu, rồi cười hì <br />
hì, bị thị “phát đánh đét” vào lưng với câu mắng yêu: “Khỉ gió”, nghểnh cổ thổi tắt phụt <br />
ngọn đèn con. Bị thị mắng: “Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!”. Những tình tiết ấy rất hay <br />
nói lên tình yêu mạnh hơn cái chết.<br />
<br />
Cảnh mẹ chồng gặp nàng dâu mới thật vô cùng cảm động. Vượt qua phong tục tập quán <br />
ăn hỏi cưới xin, chẳng có dăm ba mâm. Bà cụ Tứ thương người đàn bà xa lạ, thương con <br />
và thương mình. Bà nhận nàng dâu mới: “Ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với <br />
nhau, u cũng mừng lòng”. Tình thương của bà mênh mông, bà nghĩ “Người ta có gặp <br />
bước khó khăn, đói khổ này. Mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ được…”.<br />
<br />
Bà dịu dàng yêu thương gọi nàng dâu mới là “con”. Lòng đầy thương xót, bà nói với hai <br />
con: năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá. Qua đó ta càng <br />
hiểu sâu hơn cái lẽ đời. Nhân dân lao động nghèo khổ đứng trước tai họa, họ đã dựa vào <br />
nhau. San sẻ tình thương, san sẻ vật chất cho nhau để vượt qua mọi thử thách. Hướng tới <br />
ngày mai với niềm tin và hy vọng: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời…”. Người đọc cảm thấy <br />
ngọn đèn “vàng đục” chiếu sáng trong mái lều đêm tân hôn của vợ chồng Tràng, là ngọn <br />
đèn hy vọng và hạnh phúc ấm no.<br />
<br />
Bữa cháo cám đón nàng dâu mới là một chi tiết mang giá trị nhân đạo tiêu biểu nhất trong <br />
truyện Vợ nhặt. Bà cụ Tứ gọi là “chè khoán… ngon đáo để”. Bà tự hào nói với hai con là <br />
“xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Trong bữa cháo cám, bà nói toàn chuyện <br />
vui, chuyện sung sướng về sau này. Cái gia đinh mẹ con vô cùng “đầm ấm hòa hợp” hạnh <br />
phúc. Sau này, vợ chồng cái Tràng có thể có những bữa cơm nhiều thịt cá ngon lành hơn. <br />
Nhưng không bao giờ có thể quên được bữa cháo cám buổi sáng hôm ấy. Vị cháo “đắng <br />
chát” mà lại ngọt ngào chứa đựng bao tình thương của mẹ. Kim Lân sống gần gũi người <br />
nhà quê, ông hiểu sâu sắc tâm lý, tình cảm của họ.<br />
<br />
Ông đã làm cho những thế hệ mai hậu biết cái đắng chát trong cuộc đời của ông cảm <br />
nhận được cái hương đời. Cái tình thương của lòng mẹ, mà không một cao lương mĩ vị <br />
nào có thể sánh được?.<br />
<br />
Kim Lân đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất, nồng hậu nhất về sự đời của người dân <br />
cày Việt Nam. Mừng cho anh cu Tràng có vợ, bọn trẻ tinh nghịch reo lên: “chông vợ hài”. <br />
Việc Tràng có vợ, dân ngụ cư xóm cảm thấy “có một cái gì lạ lùng và tươi mát. Thổi vào <br />
cuộc sống đói khát, tăm tối của họ”. Bà cụ Tứ vui sướng vì con trai đã có vợ, bà như trẻ <br />
lại, nhẹ nhõm tươi tỉnh “rạng rỡ hẳn lên”.<br />
<br />
Vợ Tràng trở thành người đàn bà “hiền hậu đúng mực”. Tràng như từ một giấc mộng <br />
bước ra. Anh ngủ dậy cảm thấy lửng lơ”. Hạnh phúc đến quá bất ngờ. Việc hắn có vợ <br />
sau một ngày một đêm mà hắn “vẫn ngỡ ngàng như không phải”.<br />
<br />
Sự đổi đời còn được thể hiện ở cảnh vật. Mẹ và vợ Tràng đã dậy sớm, quét tước thu dọn <br />
lại nhà cửa, sân ngõ. Tiếng chổi quét sàn sạt. Hai cái ang được kín nước đầy ăm ắp. <br />
Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được sạch. Mẹ chồng, nàng dâu mới, con trai, ai <br />
cũng muốn góp phần sửa sang tổ ấm gia đình hạnh phúc.<br />
<br />
Họ không nghĩ đến cái chết mà hướng về sự sống về hạnh phúc và sự đổi đời. Tràng <br />
cảm thấy hắn đã “nên người”, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau <br />
này!<br />
<br />
Trong tác phẩm một chi tiết nói về việc Cách mạng sắp đến. Nạn đói bị đẩy lùi đó là khi <br />
vợ Tràng nghe tiếng trống thúc thuế báo tin ở Thái Nguyên, Bắc Giang. Người ta đã phá <br />
kho thóc của Nhật chia cho người đói, người ta không phải nộp thuế nữa. Hình ảnh lá cờ <br />
đỏ cách mạng trong truyện “Vợ nhặt” thể hiện một dự cảm về một tương lai tương đẹp, <br />
ấm no, hạnh phúc và nó làm đậm lên giá trị nhân đạo của tác phẩm. Hạnh phúc của <br />
Tràng, niềm vui của người mẹ già mặc dù có đôi chút muộn màng nhưng thực sự đáng <br />
quý và đáng trân trọng.<br />
<br />
Có lẽ đời này chắc chẳng có ai nhặt được vợ như thế. Cái cuộc sống đói khác, đường <br />
cùng đó do bè lũ xâm lược Nhật – Pháp đã gây ra thực sự đáng hận. Nhưng cũng chính <br />
trong cái sự khốn cùng đó lại toát lên được cái khát khao sống, cái khát khao hạnh phúc. <br />
Vị đời thực sự có nhiều thứ quá ngọt ngào, tình người ấm áp đã làm tỏa sáng cái giá trị <br />
nhân đạo trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.<br />