JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br />
Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 10, pp. 119-126<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0093<br />
<br />
NGHIÊN CỨU NÔNG NGHIỆP CỦA CÁC THÀNH PHỐ<br />
TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG VÀ NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA<br />
ĐỂ PHÁT TRIỂN NGÀNH NÀY Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI<br />
Lê Mỹ Dung<br />
<br />
Khoa Địa lí, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br />
Tóm tắt. Hà Nội là thủ đô, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa hàng đầu của cả nước. Để<br />
phát triển nông nghiệp ở Thủ đô, cần phải tham khảo tình hình sản xuất của ngành này tại<br />
các thành phố trực thuộc Trung ương - đơn vị hành chính cấp tỉnh có nhiều nét tương đồng<br />
với Hà Nội. Thông qua việc nghiên cứu tình hình phát triển nông nghiệp của TP Hồ Chí<br />
Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ, bài báo rút ra được những bài học cụ thể về hướng<br />
phát triển; về lựa chọn các loại cây trồng, vật nuôi cũng như về tổ chức không gian nông<br />
nghiệp để vận dụng vào địa bàn TP Hà Nội.<br />
Từ khóa: Nông nghiệp, thành phố trực thuộc trung ương, Hà Nội.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mở đầu<br />
<br />
Từ sau ngày 01 tháng 08 năm 2008, nước ta có 63 đơn vị hành chính cấp tỉnh, trong đó có<br />
58 tỉnh và 5 thành phố (TP) trực thuộc Trung ương. Nông nghiệp được hiểu theo nghĩa rộng, bao<br />
gồm các ngành nông - lâm - thủy sản (N - L - TS) là một bộ phận hữu cơ trong nền kinh tế của<br />
Thủ đô. Mặc dù chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ trong cơ cấu GDP của Hà Nội (4,7% năm 2014) [4], nhưng<br />
ngành này lại có vai trò đặc biệt quan trọng đối với TP - Thủ đô, trung tâm kinh tế hàng đầu của<br />
nước ta với hơn 7 triệu dân. Sự phát triển nông nghiệp của Hà Nội chắc chắn không thể giống như<br />
ở các tỉnh trên phạm vi cả nước. Có chăng so với các TP trực thuộc Trung ương, Hà Nội có nhiều<br />
nét tương đồng mặc dù sự khác biệt cũng không phải là nhỏ. Vì thế thông qua việc nghiên cứu tình<br />
hình phát triển nông nghiệp theo nghĩa rộng của các TP trực thuộc Trung ương, có thể rút ra được<br />
những bài học hữu ích cho TP Hà Nội.<br />
<br />
2.<br />
2.1.<br />
<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
Hiện trạng phát triển nông nghiệp theo nghĩa rộng của các thành phố trực<br />
thuộc Trung ương<br />
<br />
2.1.1. Thành phố Hồ Chí Minh<br />
TP Hồ Chí Minh có diện tích 2.095,5 km2 với số dân 7.981,9 nghìn người (2014), chiếm<br />
0,63% diện tích và 8,8% dân số của cả nước. Đây là thành phố có nền kinh tế phát triển nhất nước<br />
Ngày nhận bài: 15/5/2016. Ngày nhận đăng: 20/7/2016<br />
Liên hệ: Lê Mỹ Dung, e-mail: dungle128@yahoo.com.vn<br />
<br />
119<br />
<br />
Lê Mỹ Dung<br />
<br />
ta với GDP đạt 852.524 tỉ đồng (năm 2014), chiếm 21,0% GDP của Việt Nam [8]. Cơ cấu kinh tế<br />
năm 2014 thiên về dịch vụ (58,5%), rồi đến công nghiệp - xây dựng (40,5%) và N - L - TS (1,0%).<br />
So với cả nước và 4 TP trực thuộc Trung ương còn lại, giá trị sản xuất (GTSX) N - L - TS của TP<br />
Hồ Chí Minh đứng thứ 2 (21.077 tỉ đồng, sau TP Hà Nội) và ưu thế thuộc về nông nghiệp (73,4%<br />
GTSX N - L - TS năm 2014), tiếp theo là thủy sản (25,7%) và lâm nghiệp (0,9%) [6].<br />
Một trong những điểm đặc biệt của TP là trong cơ cấu GTSX nông nghiệp, tỉ trọng ngành<br />
chăn nuôi tăng nhanh (đạt 53,3%), trong khi đó tỉ trọng của ngành trồng trọt giảm xuống (chỉ có<br />
38,0%), còn tỉ trọng của dịch vụ nông nghiệp tương đối cao so với các tỉnh, TP khác (8,7%) [6].<br />
Trước hết là nghiên cứu về ngành chăn nuôi. Ngành này có tốc độ tăng trưởng cao và ngày<br />
càng khẳng định vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp của TP. Trong số 5 TP trực thuộc<br />
Trung ương thì TP Hồ Chí Minh có tỉ trọng ngành chăn nuôi cao nhất, gấp 4,7 lần tỉ trọng ngành<br />
chăn nuôi của TP Cần Thơ.<br />
Chăn nuôi bò được ưu tiên phát triển, đặc biệt là bò sữa nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng<br />
tăng của nhân dân. Năm 2014 tổng đàn bò của TP đạt 121,6 nghìn con, chỉ xếp sau Hà Nội. Riêng<br />
đàn bò sữa có 92,4 nghìn con, chiếm 76,0% tổng đàn bò của TP và 38,6% đàn bò sữa của cả nước,<br />
đứng đầu 63 tỉnh, TP. Sản lượng sữa năm 2014 đạt 201,6 nghìn lít, chiếm 36,7% sản lượng sữa<br />
toàn quốc với bình quân theo đầu người ở mức 25,2 lít, gấp 4,1 lần mức trung bình cả nước và 5,7<br />
lần TP Hà Nội [1]. Đàn bò sữa phân bố chủ yếu ở các huyện ngoại thành như Củ Chi, Hóc Môn,<br />
Bình Chánh...<br />
Ngược lại với chăn nuôi bò sữa, chăn nuôi lợn nhìn chung chậm phát triển hơn nhiều. Tổng<br />
đàn lợn không thật sự ổn định (291,1 nghìn con năm 2014) với sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng<br />
bình quân đầu người chỉ đạt 5,4 kg, thua xa mức trung bình của cả nước (36,9 kg) và của Hà Nội<br />
(41,9 kg) [6]. Đàn lợn tập trung ở các huyện ngoại thành phía Tây Bắc TP, nơi có nguồn thức ăn từ<br />
ngành trồng trọt với phương thức chăn nuôi trong các hộ gia đình hoặc trang trại.<br />
Ngành trồng trọt của TP có xu hướng giảm mạnh về tỉ trọng. Diện tích cây hàng năm giảm<br />
liên tục do chuyển đổi mục đích sử dụng đất trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa. So với<br />
năm 2005, diện tích cây hàng năm năm 2014 giảm gần 1/4 (từ 57,3 nghìn ha xuống 43,8 nghìn<br />
ha), chủ yếu là lúa và cây công nghiệp hàng năm; trong khi đó diện tích trồng cây thức ăn cho gia<br />
súc tăng lên; còn diện tích cây thực phẩm (rau, đậu) ít biến động (khoảng trên dưới 10 nghìn ha).<br />
Trong cơ cấu diện tích gieo trồng của TP, cây lương thực có tỉ trọng cao nhất (56,7%), tiếp đến là<br />
cây thực phẩm (24,1%), cây thức ăn cho gia súc (9,9%) và các loại cây khác (9,3%) [6].<br />
Rau là một trong những loại cây trồng đặc thù của TP với diện tích hơn 10 nghìn ha, phân bố<br />
ở các huyện Củ Chi (36,0% diện tích trồng rau của TP), Bình Chánh (27,9%), Hóc Môn (10,0%)<br />
và quận 12 (12,7%) [6]. Trên địa bàn TP Hồ Chí Minh đã hình thành vành đai thực phẩm (rau,<br />
chăn nuôi); lương thực (lúa) ở các huyện ngoại thành xa trung tâm TP (Củ Chi, Bình Chánh, Hóc<br />
Môn, Cần Giờ); vành đai rau - hoa ở các quận mới thành lập (quận 12, quận 9, Thủ Đức).<br />
Thủy sản ở TP Hồ Chí Minh có nhiều thế mạnh để phát triển với vai trò ngày càng được<br />
khẳng định (25,7% GTSX N- L - TS), bao gồm cả đánh bắt và nuôi trồng. Trong cơ cấu GTSX<br />
cũng như sản lượng thủy sản, nuôi trồng có xu hướng tăng lên (trên 60%) [6]. Vùng thủy sản tập<br />
trung ở phía Đông Nam TP trên địa bàn các huyện Cần Giờ, Nhà Bè.<br />
<br />
2.1.2. Thành phố Hải Phòng<br />
Hải Phòng có diện tích 1.522,1 km2 và số dân 1.946,0 nghìn người, chiếm 0,46% diện tích<br />
và 2,1% dân số cả nước (năm 2014) [8]. TP có nhiều thế mạnh về tự nhiên để phát triển N - L - TS<br />
nhờ địa hình đồng bằng, đất phù sa màu mỡ và tiếp giáp 3 ngư trường thuộc vịnh Bắc Bộ...<br />
120<br />
<br />
Nghiên cứu nông nghiệp của các thành phố trực thuộc trung ương và những bài học rút ra...<br />
<br />
Trong cơ cấu GDP của TP, tỉ trọng N - L - TS tuy có giảm (từ 13,0% năm 2005 xuống 8,0%<br />
năm 2014), nhưng vẫn cao nhất trong số các TP trực thuộc Trung ương. Còn trong cơ cấu GTSX N<br />
- L - TS, có thể dễ dàng nhận thấy xu thế chuyển dịch theo hướng giảm tỉ trọng nông nghiệp, tăng<br />
tỉ trọng thủy sản, trong khi lâm nghiệp có tỉ trọng không đáng kể (tương ứng là 66,2% - 33,7% 0,1% năm 2014) [5].<br />
Trong nông nghiệp, trồng trọt vẫn giữ vai trò chủ đạo (48,9% GTSX nông nghiệp, năm<br />
2014). Về cơ cấu cây trồng, lúa là cây lương thực quan trọng nhất, nhưng diện tích lúa cả năm<br />
giảm mạnh (từ 88,3 nghìn ha năm 2005 xuống 78,4 nghìn ha năm 2014) [5] và hiện nay tập trung<br />
chủ yếu ở các huyện Vĩnh Bảo, Tiên Lãng, Thủy Nguyên. . .<br />
Rau, đậu được xác định là nông sản mũi nhọn của Hải Phòng. Trong giai đoạn 2005 - 2014,<br />
cả diện tích lẫn sản lượng rau đều tăng (tương ứng là từ 12.358 ha và 243,4 nghìn tấn lên 13.858<br />
ha và 293,9 nghìn tấn) [5]. Sản lượng rau bình quân theo đầu người năm 2014 đạt 150,9 kg, dẫn<br />
đầu các TP trực thuộc Trung ương. Hải Phòng đặc biệt chú ý đến việc phát triển rau sạch, tập trung<br />
vào các loại rau đặc sản dạng củ, quả, tuy năng suất thấp hơn rau lấy lá, nhưng giá trị hàng hóa lại<br />
cao hơn. Rau được trồng thành các vành đai ven TP thuộc các huyện Kiến Thụy, An Dương, Thuỷ<br />
Nguyên hay các vùng rau nguyên liệu và xuất khẩu ở Tiên Lãng, Vĩnh Bảo...<br />
Chăn nuôi đứng hàng thứ hai về tỉ trọng với xu hướng liên tục gia tăng (từ 34,9% năm 2005<br />
lên 46,0% GTSX nông nghiệp của TP năm 2014). Điều đó chứng tỏ TP đã từng bước đưa chăn<br />
nuôi trở thành ngành sản xuất chính. Trong chăn nuôi, đàn lợn chiếm tỉ trọng cao nhất về GTSX<br />
(48,5% năm 2014), tiếp đến là gia cầm (45,2%) và cuối cùng là trâu, bò [5].<br />
Lợn được xác định là vật nuôi chính của Hải Phòng và phát triển theo mô hình trang trại,<br />
gia trại với hình thức nuôi công nghiệp kết hợp với việc sử dụng các giống có năng suất cao, chất<br />
lượng tốt nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu thụ của nhân dân. Năm 2014, đàn lợn của TP có 487,3 nghìn<br />
con (chỉ đứng sau TP Hà Nội) với sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng tính theo đầu người đạt 38,5<br />
kg, cao hơn mức trung bình cả nước (36,9 kg) [5]. Lợn được nuôi tập trung ở các huyện Vĩnh Bảo,<br />
Tiên Lãng, Thủy Nguyên - vùng trọng điểm lúa của TP.<br />
Hiện nay Hải Phòng đã hình thành các vành đai sinh thái nông nghiệp, vừa đem lại lợi ích<br />
kinh tế cho nông dân và phục vụ cho nhu cầu của nhân dân đô thị, vừa tạo ra giá trị lớn về lĩnh vực<br />
phi vật chất (du lịch sinh thái, bảo vệ môi trường,...). Vành đai thực phẩm cung cấp rau đậu cho đô<br />
thị tập trung chủ yếu ở An Dương, Thủy Nguyên và Kiến Thụy. Hoa và cây cảnh được bố trí thành<br />
các vành đai ở ngay trong các quận mới và huyện ven đô như An Dương và Hải An. Vành đai chăn<br />
nuôi cung cấp thịt, trứng, sữa được phân bố thành những vùng sản xuất tập trung. Ở những nơi liền<br />
kề TP như An Dương, Kiến Thụy, An Lão phát triển chăn nuôi gia cầm theo phương pháp công<br />
nghiệp. Còn ở những nơi xa hơn như Vĩnh Bảo, Tiên Lãng thì bố trí vành đai lương thực (chủ yếu<br />
là lúa chất lượng cao) kết hợp với chăn nuôi lợn (lợn thịt, lợn sữa)... Để tận dụng tối đa những điều<br />
kiện thuận lợi về tự nhiên và kinh tế - xã hội nhằm tăng thêm khối lượng nông sản phục vụ nhu<br />
cầu của nhân dân, ở các huyện ven đô như An Dương, An Lão còn xuất hiện vành đai nông nghiệp<br />
tổng hợp, gồm rau, hoa, cây ăn quả và lúa chất lượng cao ở quy mô nhỏ.<br />
Thủy sản là một trong những thế mạnh của Hải Phòng. Tỉ trọng của nó ngày càng tăng, từ<br />
22,9% năm 2005 lên 33,7% GTSX N - L - TS năm 2014, đứng hàng thứ 2 chỉ sau TP Đà Nẵng.<br />
Đây là ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất, trung bình 7,0%/ năm trong giai đoạn 2005 - 2014<br />
với ưu thế nghiêng về nuôi trồng (60,8% GTSX năm 2014) [5]. TP đã tận dụng có hiệu quả các lợi<br />
thế, lựa chọn giống thuỷ sản phù hợp với điều kiện sinh thái cho năng suất và giá trị kinh tế cao,<br />
đáp ứng cả cho nhu cầu của nhân dân và cho xuất khẩu.<br />
Sản lượng thủy sản của TP tăng nhanh và đạt 106,9 nghìn tấn (2014), trong đó nuôi trồng<br />
51,7 nghìn tấn. Sản lượng thủy sản nuôi trồng bình quân theo đầu người là 26,6 kg, chỉ đứng sau TP<br />
121<br />
<br />
Lê Mỹ Dung<br />
<br />
Cần Thơ) [5]. Vùng nuôi trồng thủy sản tập trung ở các huyện Tiên Lãng, Cát Hải, Thủy Nguyên,<br />
Kiến Thụy, Vĩnh Bảo và quận Hải An. Còn về đánh bắt với sản lượng 55,2 nghìn tấn tập trung chủ<br />
yếu ở quận Đồ Sơn và huyện Cát Hải, TP Hải Phòng dẫn đầu các TP trực thuộc Trung ương, vượt<br />
xa Đà Nẵng là TP đứng hàng thứ hai (33,2 nghìn tấn).<br />
<br />
2.1.3. Thành phố Đà Nẵng<br />
TP Đà Nẵng có diện tích 1285,4 km2 và số dân 1.007,7 nghìn người (2014), chiếm 0,38%<br />
diện tích và 1,1% dân số toàn quốc [8]. Đây là một trong những hạt nhân kinh tế chủ yếu của vùng<br />
kinh tế trọng điểm miền Trung. Đà Nẵng có nhiều lợi thế về tự nhiên, trong đó nổi bật nhất là tài<br />
nguyên biển và ven biển với ngư trường rộng trên 15 nghìn km2 và nhiều diện tích mặt nước nuôi<br />
trồng thủy sản...<br />
Trong cơ cấu GDP của TP, tỉ trọng N- L - TS rất nhỏ (chỉ chiếm 3,8% năm 2014), trong khi<br />
đó nhu cầu của thị trường Đà Nẵng nói riêng và của Duyên hải miền Trung cũng như Tây Nguyên<br />
nói chung tương đối lớn. Vì thế, việc phát triển nông nghiệp sao cho phù hợp điều kiện cụ thể của<br />
một đô thị loại 1 nhằm đáp ứng được nhu cầu nêu trên có ý nghĩa quan trọng.<br />
GTSX N- L - TS của Đà Nẵng đứng hàng cuối cùng trong số các TP trực thuộc Trung ương<br />
với 2.523,1 tỉ đồng (năm 2014). Về cơ cấu, ưu thế thuộc về ngành thủy sản (58,0%, dẫn đầu các<br />
TP trực thuộc Trung ương), tiếp theo là nông nghiệp (32,5%) và lâm nghiệp (9,5%) [3].<br />
Thủy sản là ngành sản xuất truyền thống và phát triển mạnh cả đánh bắt lẫn nuôi trồng. Địa<br />
bàn phân bố của ngành tập trung ở các quận Thanh Khê, Sơn Trà rồi đến Hải Châu, Ngũ Hành<br />
Sơn. TP Đà Nẵng đã phát huy được lợi thế từ biển để đẩy mạnh hoạt động đánh bắt, đem lại nguồn<br />
thu cho ngân sách, tạo sinh kế và thu nhập cho người dân, đảm bảo nhu cầu thực phẩm không chỉ<br />
cho TP. Về sản lượng thủy sản đánh bắt, TP Đà Nẵng chỉ đứng sau TP Hải Phòng.<br />
Nông nghiệp mặc dù chỉ xếp thứ hai trong cơ cấu GTSX, song lại có vai trò to lớn trong việc<br />
cung cấp thực phẩm, một phần lương thực cho nội thành và tạo việc làm cho dân cư nông nghiệp<br />
của TP. Cơ cấu nông nghiệp đang có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần tỉ trọng trồng trọt, tăng<br />
tỉ trọng chăn nuôi kết hợp với việc thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Năm 2014, tỉ trọng của các<br />
ngành là trồng trọt 55,0%, chăn nuôi 41,0% và dịch vụ nông nghiệp 4,0% [3].<br />
Nông nghiệp của TP đang phát triển theo hướng nông nghiệp đô thị, phục vụ thị trường<br />
(trong TP, xuất khẩu) với nhiều sản phẩm mang tính hàng hóa cao. Cơ cấu ngành trồng trọt khá đa<br />
dạng với hàng loạt cây trồng, gồm cây lương thực có hạt (62,1% diện tích gieo trồng toàn TP năm<br />
2014), cây công nghiệp hàng năm (11,9%), câu thực phẩm, hoa (11,5%) và cây ăn quả (5,0%) [3].<br />
Xu hướng chuyển dịch của ngành này theo hướng giảm diện tích các loại cây có giá trị kinh tế thấp<br />
(lúa, cây công nghiệp hàng năm), tăng diện tích các loại cây có giá trị kinh tế cao (các loại rau,<br />
hoa, cây cảnh), hình thành các vùng chuyên canh chất lượng cao.<br />
Mở rộng diện tích cây thực phẩm (rau, đậu. . . ) là một trong những hướng được quan tâm<br />
hàng đầu do vừa khai thác được lợi thế về tự nhiên, kinh tế - xã hội sẵn có, vừa đáp ứng cho nhu<br />
cầu của nhân dân. Diện tích cây thực phẩm của TP hiện có gần 1.000 ha [1]. Vành đai rau, đậu và<br />
cả hoa, cây cảnh phân bố ở các quận Ngũ Hành Sơn, Cẩm Lệ, Liên Chiểu và các huyện ven đô như<br />
Hòa Vang...<br />
Chăn nuôi của Đà Nẵng đang từng bước trở thành ngành sản xuất chính trong nông nghiệp<br />
và tập trung vào nuôi bò, lợn và gia cầm. Đàn bò chủ yếu là bò thịt với số lượng tương đối ổn định.<br />
Trong những năm tới, ngành chăn nuôi sẽ phát triển theo hướng đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm<br />
không qua giết thịt ở khu vực ven TP (như trứng) và các khu vực đồi núi phía Tây (như sữa bò),<br />
phát triển chăn nuôi lợn và gia cầm ở khu vực ven đô thị nhằm phục vụ cho nhu cầu ngày càng<br />
tăng của nhân dân.<br />
122<br />
<br />
Nghiên cứu nông nghiệp của các thành phố trực thuộc trung ương và những bài học rút ra...<br />
<br />
Ngành lâm nghiệp tuy chỉ chiếm tỉ trọng khiêm tốn trong cơ cấu GTSX N - L - TS của<br />
TP (9,5%), nhưng vẫn dẫn đầu trong các TP trực thuộc Trung ương. Do vai trò đặc biệt của rừng<br />
nên chủ trương của TP Đà Nẵng là phát triển theo hướng khoanh nuôi, chăm sóc, tái sinh rừng tự<br />
nhiên, bảo vệ tài nguyên rừng, đẩy mạnh trồng rừng nhằm bảo vệ cảnh quan, môi trường phục vụ<br />
cho du lịch sinh thái. Tỉ lệ che phủ rừng đạt 40,8%, cao nhất trong số các TP trực thuộc Trung<br />
ương (TP Hồ Chí Minh 16,4%; Hải Phòng 11,3%; Hà Nội 6,8%, và Cần Thơ 0,6%) [1].<br />
<br />
2.1.4. Thành phố Cần Thơ<br />
Cần Thơ có diện tích 1.401,6 km2 với số dân 1.238,3 nghìn người (2014), chiếm 0,4% diện<br />
tích và 1,36% dân số cả nước [8]. Nằm ở trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Cần Thơ có<br />
vị trí địa lí thuận lợi để trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kĩ thuật của vùng<br />
và của vùng kinh tế trọng điểm vùng Đồng bằng sông Cửu Long.<br />
Trải dài bên bờ sông Hậu, thường xuyên được bồi đắp phù sa nên đất rất màu mỡ, thích hợp<br />
cho việc trồng lúa, cây thực phẩm, cây ăn quả. . . Trong tổng số 140,9 nghìn ha diện tích tự nhiên<br />
của TP, đất nông nghiệp chiếm 80,6%, riêng đất sản xuất nông nghiệp đạt 80,5% [2]. Mạng lưới<br />
sông ngòi, kênh rạch dày đặc có ý nghĩa to lớn về nông nghiệp, giao thông vận tải, du lịch sông<br />
nước...<br />
Trong cơ cấu GDP của TP, tỉ trọng của N - L - TS chiếm 6,5% (năm 2014), chỉ đứng trên<br />
TP Hải Phòng (8,0%). Về cơ cấu GTSX N - L - TS, Cần Thơ xếp thứ 4/5 TP trực thuộc Trung<br />
ương (chỉ trên Đà Nẵng) và đang có sự chuyển dịch theo hướng giảm tỉ trọng nông, lâm nghiệp và<br />
tăng tỉ trọng của thủy sản. Trong giai đoạn 2005 - 2014 tương ứng là giảm từ 78,6% xuống 71,1%<br />
(nông nghiệp), từ 0,7% xuống 0,3% (lâm nghiệp) và tăng từ 20,7% lên 28,6% (thủy sản) [2].<br />
Nông nghiệp có nhiều lợi thế để phát triển nhằm tạo ra nhiều nông phẩm không chỉ đáp ứng<br />
cho nhu cầu của TP mà còn cho thị trường trong nước và xuất khẩu, đặc biệt là lúa gạo. Khác với<br />
4 TP trực thuộc Trung ương còn lại, trong cơ cấu GTSX nông nghiệp ở Cần Thơ, trồng trọt chiếm<br />
ưu thế tuyệt đối (81,4% năm 2014), trong đó chủ yếu là cây lương thực có hạt (81,3%), rồi đến cây<br />
ăn quả (9,8%), cây rau - đậu, hoa - cây cảnh (6,1%) và các loại cây khác (2,7%) [2].<br />
Lúa là cây lương thực quan trọng nhất, chiếm 88,6% diện tích gieo trồng và 99,5% diện tích<br />
cây lương thực có hạt của TP. Nhờ áp dụng các biện pháp kĩ thuật, sử dụng giống mới chất lượng<br />
cao nên cả năng suất lẫn sản lượng đều tăng, mặc dù diện tích lúa giảm sút. Về diện tích và sản<br />
lượng lúa, Cần Thơ đứng đầu trong số các TP trực thuộc Trung ương và thứ 8/63 tỉnh, thành của<br />
cả nước [7]. Sản lượng lương thực bình quân đầu người (2014) đạt 1.107,3 kg, gấp 2 lần mức trung<br />
bình cả nước, gấp 95 lần TP Hồ Chí Minh và 6,2 lần TP Hà Nội. Lúa được trồng ở vành đai nông<br />
nghiệp ngoại thành thuộc 3 huyện phía Tây, Tây Bắc TP là Cờ Đỏ, Vĩnh Thạnh và Thới Lai. Năm<br />
2014, Cần Thơ xuất khẩu 503 nghìn tấn lúa, chiếm 36,8% sản lượng lúa toàn TP [2].<br />
Cây ăn quả và cây thực phẩm cũng phát triển mạnh trong giai đoạn 2005 - 2014. GTSX cây<br />
ăn quả tăng 2,7 lần. Trồng phổ biến là cam, chanh, quýt, xoài, nhãn, bưởi da xanh, chôm chôm<br />
theo phương thức vừa trồng phân tán trong các hộ gia đình, vừa trồng tập trung ở các huyện ven<br />
đô như huyện Phong Điền và các quận mới như Ô Môn, Cái Răng, Bình Thủy. . . Nhiều khu vực<br />
trồng cây ăn quả tập trung không chỉ cung cấp sản phẩm có chất lượng cho thị trường, mà còn tạo<br />
nên những cảnh quan độc đáo có giá trị sinh thái, du lịch.<br />
Cây thực phẩm có vị thế nhất định trong ngành trồng trọt. Cũng trong giai đoạn kể trên,<br />
diện tích tăng hơn 1,5 lần (đạt 8,3 nghìn ha năm 2014), GTSX gấp 5,2 lần (đạt 532 tỉ đồng) và<br />
đứng hàng thứ 3 sau lúa và cây ăn quả [2]. Loại cây này được trồng ở các vành đai xanh ven đô<br />
theo hướng sản xuất rau sạch, rau an toàn, tập trung ở 3 huyện Phong Điền, Cờ Đỏ, Thới Lai và 2<br />
quận Bình Thủy, Thốt Nốt.<br />
123<br />
<br />