intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nguồn gốc, vai trò và giá trị của lễ hội Cúng Trăng của người Khmer tỉnh Trà Vinh

Chia sẻ: Liễu Yêu Yêu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

36
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Nguồn gốc, vai trò và giá trị của lễ hội Cúng Trăng của người Khmer tỉnh Trà Vinh" được nghiên cứu thông qua phương pháp điền dã và so sánh – phân tích dựa trên các tài liệu, các công trình nghiên cứu về lễ hội Cúng Trăng đã được công bố. Từ việc tìm hiểu nguồn gốc, giá trị mà chúng ta có được hướng bảo tồn và phát triển phù hợp. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nguồn gốc, vai trò và giá trị của lễ hội Cúng Trăng của người Khmer tỉnh Trà Vinh

  1. NGUỒN GỐC, VAI TRÒ VÀ GIÁ TRỊ CỦA LỄ HỘI CÚNG TRĂNG CỦA NGƯỜI KHMER TỈNH TRÀ VINH Vũ Quốc Đảng1 Lớp CH21LS01. Email: vuquocdang27@gmail.com TÓM TẮT Việt Nam là một quốc gia có 54 dân tộc, mỗi dân tộc đều một nét văn hóa riêng của mình, chính những sắc màu văn hóa ấy đã tạo nên một bức tranh đa màu sắc và lễ hội là một trong những mảng màu ấy. Lễ hội Cúng Trăng của người Khmer tỉnh Trà Vinh đã cùng với các dân tộc khác góp phần hoàn chỉnh bức tranh về văn hóa Việt Nam vừa đa dạng, phong phú vừa hòa chung thành một bảng màu. Việc tìm hiểu về nguồn gốc, vai trò và giá trị của lễ hội Cúng Trăng của người Khmer tỉnh Trà Vinh góp phần làm rõ hơn về nguồn gốc cũng như bước đầu đầu nhận diện được những giá trị của lễ hội đối với cộng đồng, xã hội. Việc nghiên cứu thông qua phương pháp điền dã và so sánh – phân tích dựa trên các tài liệu, các công trình nghiên cứu về lễ hội Cúng Trăng đã được công bố. Từ việc tìm hiểu nguồn gốc, giá trị mà chúng ta có được hướng bảo tồn và phát triển phù hợp. Từ khóa: Cúng Trăng, lễ hội, lễ hội Ok Om Bok, người Khmer Trà Vinh. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Việt Nam là quốc gia nông nghiệp gắn với hình ảnh cây lúa nước điển hình của khu vực Đông Nam Á. Bên cạnh đó còn là một quốc gia đa tộc người, đa tôn giáo với lối sống xen kẽ, gắn kết với nhau thành từng cụm xóm làng, phum sóc… Các yếu tố này chính là nền tảng tạo nên các giá trị văn hóa truyền thống cho chúng ta, trong đó nổi bật hơn cả là lễ hội. Người Khmer Trà Vinh nói riêng và người Khmer Nam Bộ nói chung là một trong 54 dân tộc anh em của chúng ta. Họ quanh năm mưa nắng trên ruộng đồng, cày sâu quốc bẫm. Bên cạnh công việc họ cũng cùng xây dựng cho mình một giá trị văn hóa riêng hòa chung vào bản sắc của văn hóa Việt Nam. Khi nhắc đến người Khmer thì chúng ta sẽ nhắc đến một số lễ hội lớn của họ như: lễ mừng năm mới (Chôl Chnam Thmây), lễ Cúng Trăng (pithi Sâm Peak Preach Khe), Lễ ông bà (pithi Sen Dolta)…và hầu như lễ hội của người Khmer diễn ra quanh năm. Ở đây, chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu và tìm hiểu về lễ hội Cúng Trăng. Ngày nay trong quá trình phát triển của đô thị, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cùng với quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ thì chúng có ảnh hưởng to lớn đến các giá trị văn hóa. Bên cạnh đó, đời sống xã hội của người Khmer Trà Vinh cũng có từng bước phát triển, cùng với đó là sự thay đổi về mặt nhận thức… thì lễ hội, giá trị văn hóa của họ cũng có những sự biến đổi. Vì vậy, việc tìm hiểu về nguồn gốc, vai trò và giá trị của lễ hội rất quan trọng trong việc bảo tồn và và phát các lễ hội, văn hóa của dân tộc. Văn hóa truyền thống nói chung và lễ hội nói riêng đang dần dần có sự thay đổi, biến đổi theo sự phát triển của xã hội. 13
  2. Cũng có những thay đổi là sự tiếp biến văn hóa, cũng có sự thay đổi làm mất đi, thay đổi bản chất của lễ hội. Vì vậy, công tác nghiên cứu về nguồn gốc và giá trị của lễ hội để đưa ra những hướng bảo tồn và phát triển là hết sức cần thiết. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp điền dã dân tộc học với các hình thức như: quan sát tham dự và phỏng vấn sâu. Phương pháp này giúp cho những người nghiên cứu có được một cách đầy đủ và chính xác các tư liệu thực tế. Quá trình tham gia khảo sát, tham dự lễ hội sẽ giúp cho chúng tôi có cái nhìn sâu sắc và nhận diện được hệ thống giá trị của lễ hội. Phương pháp phân tích –tổng hợp: dựa vào nhật ký điền dã và các nguồn tài liệu về lễ hội, lễ hội Cúng Trăng để tác giả đi vào tìm hiểu về nguồn gốc, giá trị của lễ hội. Phương pháp so sánh: đươc dùng xuyên suốt quá trình tìm hiểu về lễ hội Cúng Trăng. Tác giả đã so sánh lễ hội Cúng Trắng với các lễ hội khác của các dân tộc sống trên địa bàn và khu vực khác (Sóc Trăng, An Giang…) để tìm ra điểm tương đồng và khác biệt của lễ hội Cúng Trăng của người Khmer ở Trà Vinh. 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Nguồn gốc lễ hội cúng trăng Trước tiên, lễ hội Cúng Trăng (pithi Sâm Peak Preach Khe) của người Khmer Trà Vinh là lễ hội thể hiện lòng biết ơn của con người với các đấng thần linh đã bảo vệ mùa màng của họ được tươi tốt. Đó là thần Mặt Trăng ( Sampate Pres) người được cho là vị thần bảo hộ mùa màng, mưa thuận gió hòa, không có sâu bệnh… Mẹ Đất (Neang Hinh Pres Anây Thor) và Mẹ Nước ( Neang Hinh Pres Tưk)…Chúng ta cần hiểu rõ lễ hội Cúng Trăng là lễ hội lớn bao gồm nhiều nghi thức, nghi lễ và các hoạt động vui chơi, giải trí. Trong đó có các nghi thức, nghi lễ như: đua ghe Ngo (Um Tuk Ngua), Đút cốm dẹp (Ok Ang Bok), thả đèn gió, đèn nước… Bên cạnh đó, lễ hội Cúng Trăng cũng còn là dịp để mọi người trong phum sóc tụ họp, vui chơi cùng với nhau sau những ngày chăm sóc cây trồng vất vả. Có rất nhiều sự tích nói nguồn gốc của lễ hội Cúng Trăng, nhưng tựu chung lại thì nguồn gốc lễ hội đều liên quan đến 2 vấn đề chính đó là giải thích việc cúng trăng là tưởng nhớ công ơn Thỏ trắng ( Sôm Banh Đết – tiền kiếp của Đức Phật), việc thứ hai chính là cúng các vị thần bảo trợ cho nông nghiệp, mà vị thần chính đó là nữ thần mặt Trăng. Theo tác giả đây chính là hai sự tích giải thích về nguồn gốc của lễ hội được đông đảo người dân và các nhà nghiên cứu đồng tình. Bởi lẽ, hầu hết người dân Khmer theo đạo Phật, nên việc tin vào đức Phật là một niềm tin đã thấm sâu trong tâm thức của họ. Cùng với đó, việc thờ cúng, tin vào các vị thần bảo trợ cho nông nghiệp là một niềm tin, lòng biết ơn với người đã bảo vệ mùa màng của mình. Lễ hội Cúng Trăng được kể lại như sau: “tương truyền có một tiền kiếp của Đức Phật là Thỏ Trắng, Thỏ Trắng sống bên bờ sông Hằng kết bạn với Khỉ, Rái Cá và Chó Rừng. Chúng sống tương thân, tương ái với nhau. Trong đám thú đó, Thỏ hiểu biết hơn cả, Thỏ còn biết tham thiền. Chính Thỏ đã nghĩ ra và đề xuất với các bạn cuộc ước hẹn sẽ cùng ngồi tu thân. Một lần, trước ngày trăng tròn, Thỏ nhắc các bạn lo việc ngồi thiền. Các bạn phải kiếm thức ăn dự trữ 14
  3. khi ngồi thiền, giành thức ăn đó cho kẻ thiếu thốn đói khát. Các con vật kia hăng hái đi săn bắt lo phần ăn những ngày ngồi thiền và để bố thí. Trên trời cao, thần Sakhah vị chúa của các thần Têvađa thấu được việc hẹn hò của các thú vật, động lòng cảm mến. Thần bèn giả người ăn xin xuống trần gian coi các con vật thực hiện lời hứa? Rái Cá, Khỉ và Chó Rừng đều thảo lòng mời người ăn xin dùng bữa của mình. Người ăn xin gặp Thỏ, Thỏ ngồi thiền từ mấy ngày nên không có thức ăn, nhưng thỏ nhanh nhẹn nhóm bếp tính nướng thân mình cho người ăn xin. Thỏ vừa nhảy vào lửa, thần Sakhah biến lửa không nóng cháy Thỏ và thần hiện nguyên hình. Thần ngợi ca nghĩa cử thương người cao cả của Thỏ. Thần vẽ hình Thỏ lên mặt trăng. Tiền kiếp Thỏ của Phật Thích Ca tỏa sáng vĩnh hằng trong càn khôn!” (Phạm Thị Phương Hạnh, 2012) Với ý nghĩa như vậy, thì vầng trăng luôn mang ý nghĩa cao quý và thiêng liêng đối với cộng đồng người Khmer Nam Bộ nói chung và người Khmer Trà Vinh nói riêng. Bên cạnh đó, đây cũng là thời gian kết thúc vụ mùa, khép lại một năm làm ăn, mọi người cùng nhau vui chơi, giải trí để chuẩn bị cho một vụ mùa mới. 3.2. Vai trò của lễ hội Cúng Trăng truyền thống trong đời sống tinh thần của người Khmer tỉnh Trà Vinh 3.2.1. Vai trò của lễ hội đối với cộng đồng Qua tìm hiểu và nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy lễ hội Cúng Trăng của người Khmer tỉnh Trà Vinh có vai trò rất quan trọng trong cộng đồng, không chỉ cộng đồng người Khmer mà còn quan trọng với tất cả cộng đồng cộng cư sống tại Trà Vinh. Cũng như các lễ hội của các cộng đồng khác, lễ Cúng Trăng có vai trò cố kết cộng đồng lại. Vào ngày lễ, mọi người cùng nhau chung sức chung lòng chuẩn bị cho lễ hội. Mọi người giúp nhau, nhà nhà trong phum sóc nô nức cùng nhau chuẩn bị cho lễ cúng, cùng làm trang trí và chuẩn bị cho bàn lễ vật làm cho tình cảm hàng xóm láng giềng càng khăng khít hơn. Trong cuộc sống, ai ai cũng lo mưu sinh, ngày ngày tất bật trên ruộng đồng, ít có thời gian chia sẻ trong cuộc sống. Nhưng trong ngày lễ, mọi người cùng nghỉ ngơi, thăm hỏi nhau chia sẻ về công việc. Cùng nhau cúng các vị thần và cầu mong các vị thần cùng ban phước cho gia đình, phum sóc và cả cộng đồng. Không chỉ là hàng xóm hỏi thăm nhau, mà ngay cả chính quyền địa phương cũng nhân dịp này tới thăm hỏi tặng quà cho các chùa, các gia đình chính sách cùng chung với lễ với bà con, làm cho tình cảm của nhân dân và chính quyền càng thêm khăng khít hơn. Trong các phần hội như thả đèn gió, đèn nước, đua Ghe Ngo, trò chơi dân gian… đông đảo nhiều người dân tham gia, cổ vũ cho phum sóc, cho huyện của mình. Ai ai cũng vui vẻ và háo hức. Bên cạnh đó, ngày nay không chỉ có người Khmer tham gia trong các hoạt động này mà còn có cộng đồng người Việt, Hoa cùng Tham gia. Ví dụ như trò chơi dân gian, thành phần tham gia có nhiều tầng lớp, độ tuổi, sắc tộc khác nhau. Rồi hội đua ghe Ngo, không cần biết đó là đội đua của khu vực nào, chỉ cần thấy ra thi là mọi người cùng nhau reo hò cổ vũ, cùng nhau bình luận và đánh giá. Lễ hội là một hoạt động có ý nghĩa rất to lớn trong việc gắn kết mọi người lại gần nhau hơn, giúp mọi người giải tỏa sự mệt mỏi sau bao ngày vất vả bên ruộng đồng và cùng nhau cầu nguyện vui chơi với bao nhiêu niềm tin cho năm mới. Ngay nay, xã hội có quá nhiều vấn đề phải suy ngẫm đặc biệt về các giá trị đạo đức, tình người thì lễ hội này lại làm cho con người gần con người hơn, trái tim gần đến với trái tim hơn. 15
  4. Bên cạnh vai trò cố kết cộng đồng, lễ hội còn là cái nôi để lưu giữ những giá trị văn hóa tốt đẹp của cộng đồng, đóng góp chung vào khó tàng văn hóa của Việt Nam. Chính vì lẽ đó, năm 2013 lễ hội Cúng Trăng (lễ hội Ok Om Bok) được công nhận là di sản phi vật thể của Việt Nam và nhân dịp lễ cúng trăng năm 2014 tổ chức tại khu di tích ao Bà Om đã chính thức công bố vinh dự này. Có thể nói, lễ hội là nơi nuôi dưỡng tâm hồn, nơi nuôi giữ những giá trị của dân tộc cho các thế hệ sau học tập. Nơi đây giống như một ngày học, cho các thế hệ trẻ hiểu về cội nguồn hiểu về bản sắc của dân tộc mình, giúp cho mọi người hiểu về cội nguồn của mình, văn hóa của dân tộc. Lễ hội còn là cầu nối giữa con người trần tục với thế giới thần linh linh thiêng, là nơi trao gửi những ước mơ, khát vọng của mình đến với đấng siêu nhiên. Đây cũng là lúc, con người lấy lại niềm tin, “nạp năng lượng” để tiếp tục cho cuộc sống bề bộn đầy lo toan hàng ngày. Lễ hội là bài học sâu sắc về việc biết ơn và xin thứ lỗi của người Khmer. Cúng Trăng là cúng các vị thần như thần mặt trăng, thần nước, thần gió, thần đất… vì đã mang mưa thuận gió hòa, một mùa màng bội thu, gia đình no ấm, mọi người bình an. Bên cạnh đó, đây cũng là dịp để mọi người xám hối đến các vị thần, vì năm qua đã xâm phạm, làm ô uế đến các vị và mong được thứ lỗi. Việc thả đèn gió, đèn nước là một trong những biểu hiện của các hành động ấy. Hay đua ghe Ngo cũng là một hoạt động thể hiện ước mơ, niềm tin vào vụ mùa tới (dẫn nước về phum sóc, về đồng). Đây là một trong những lễ hội quan trọng trong năm của người Khmer, đến đây, họ được bày tỏ lòng tôn kính đối với các vị thần, được cầu nguyện và cảm giác như rất gần gũi với các vị thần linh, mọi lo toan cuộc sống đều được loại bỏ, họ chỉ có sự vui vẻ, có niềm tin để rồi về nhà họ tiếp tục nuôi giữ niềm tin ấy cho những ngày tháng lao động tiếp theo. Khi tham gia các hoạt động, dường như họ thấy rằng mình đã chung tay cùng cộng động tỏ lòng thành đến các vị thần, cảm giác như mình đã làm được một việc có ích cho cả cộng đồng. Đây còn là cơ hội để mọi người giao lưu với nhau, không chỉ là trong cộng đồng người Khmer, mà còn có các cộng đồng người Việt, Hoa cùng tham gia lễ hội. Nhân dịp để này quảng bá văn hóa của người Khmer đến với các dân tộc khác, để cùng làm phong phú thêm văn hóa của dân tộc mình. 3.2.2. Vai trò đối với gia đình Lễ hội là nơi để mọi người trong gia đình ngồi lại bên nhau, cùng nhau chuẩn bị vật phẩm cho lễ cúng. Tuy không giống với lễ mừng năm mới (mọi người phải về nhà, dù đi làm ở đâu), nhưng với lễ hội Cúng Trăng mọi người sẽ cố gắng sắp xếp về bên gia đình, cùng gia đình tham gia lễ hội. Lễ hội còn là cầu nối giúp cho mọi người trong gia đình ngồi bên nhau, những bạn trẻ được chứng kiến giây phút linh thiêng của lễ hội, một nét văn hóa của cộng đồng mình. Đây cũng là nơi để ông bà cha mẹ hiểu con mình hơn (hỏi về những ước mơ, nguyện vọng của con cái khi đút cốm dẹp), là nơi ông bà, truyền tải những nét văn hóa truyền thống của dân tộc mình cho con cái, cháu chắt, để sau này mất đi, thế hệ sau biết được cách tổ chức, cầu nguyện, nguồn gốc của lễ hội. Tất cả giống như một buổi học mà ông bà cha mẹ là giáo viên, con cái là những học sinh. Đối với một gia đình nông nghiệp, ban ngày ra ruộng đồng từ sáng sớm, tối mới về. Như vậy, sau một ngày vất vả mọi người thường nghỉ ngơi rất sớm. Chính vì thế, lễ hội là những ngày nghỉ ngơi để mọi người quan tâm đến nhau hơn, là dịp để bồi đắp thêm tình cảm gia đình. 16
  5. 3.2.3. Vai trò đối với cá nhân Đối với mỗi cá nhân, lễ hội là dịp để mọi người được trải nghiệm, được sống trong không khí linh thiêng của người và thần, được hòa mình vào không gian của lễ hội, được vui chơi và xóa đi mọi căng thẳng của cuộc sống thường ngày. Thường ngày ai cũng vất vả học tập, lao động, ít có cơ hội vun đắp tình cảm với nhau. Là dịp con cháu, ông, bà, cha, mẹ…ngồi lại bên nhau, là dịp để bạn bè vui vẻ cùng nhau vui chơi, là dịp để đôi lứa tìm hiểu, vun vén tình cảm. Đây cũng là một môi trường giáo dục tốt cho mỗi cá nhân. Mỗi người được hiểu thêm về văn hóa của dân tộc cũng mình cũng như thấy được tầm quan trọng của lễ hội trong việc giữ gìn, phát huy văn hóa của mình. Từ đó, mỗi các nhân có trách nhiệm hơn đối với bản thân, gia đình, xã hội để xây dựng và phát triển đất nước. Qua việc phân tích ở trên chúng tôi nhận thấy lễ hội có vai trò rất quan trọng trong cộng đồng người Khmer Trà Vinh nói riêng và người Khmer nói chung. Lễ hội đã gắn kết cộng đồng lại với nhau, là nơi lưu giữ dấu ấn bản sắc văn hóa dân tộc, là một môi trường giáo dục về cội nguồn cho mọi người và cũng là nơi để mọi người lấy lại niềm tin và hi vọng. Bên cạnh vai trò của lễ hội đối với cộng đồng, thì lễ hội cũng có những ảnh hưởng, chi phối đến đời sống của người Khmer như: Giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc: Đối với mỗi quốc gia, dân tộc thì nền văn hóa chính là một trong những thước đo đánh giá trình độ và là đặc điểm quan trọng để nhận biết về quốc gia, dân tộc đó. Khi một quốc gia, một dân tộc bị đồng hóa văn hóa nghĩa là họ đang dần mất đi bản thân mình và đến một lúc nào đó, quốc gia dân, dân tộc đó sẽ không còn nữa. Thay vào đó, họ sẽ được nhập vào một quốc gia, dân tộc khác. Đảng ta đã xác định văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển của xã hội. Chính vì lẽ đó, để duy trì một quốc gia, dân tộc, để làm cho đất nước phát triển thì phải duy trì và phát huy tốt nền văn hóa dân tộc. Trong quá trình lao động sản xuất, trong đời sống thì mỗi dân tộc sẽ tự xây dựng cho mình một bản sắc riêng, hay nói cách khác đó chính là “thương hiệu”. Tuy nhiên, trong quá trình cộng cư, giao lưu thì văn hóa có sự biến đổi, vay mượn mà thường được gọi là “giao lưu và tiếp biến văn hóa. Cộng đồng người Khmer cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Đối với người Khmer, thì giao lưu tiếp biến không những không mất đi bản sắc văn hóa của mình mà còn làm phong phú thêm, bên cạnh đó còn có sự vay mượn, sáng tạo làm cho phù hợp với thời đại mà không làm mất đi giá trị cốt lõi của nền văn hóa của mình. Lễ hội Cúng Trăng cũng đã góp phần vào việc giữ gìn nền văn hóa bản sắc ấy, nó còn góp phần giới thiệu, quảng bá văn hóa của người Khmer đến các dân tộc anh em và tiếp thu thêm để làm phong phú văn hóa dân tộc mình. Gắn kết cộng đồng: Lễ hội Cúng Trăng là lễ của cả một cộng đồng, không phải là của một cá nhân hay một gia đình nào. Chính vì lẽ đó, mọi người cùng có chung một mục đích đến với lễ hội. lễ hội hội làm cho mọi người thêm gần gũi nhau hơn, thêm gắn kết và chia sẻ với nhau nhiều hơn. Tại đây, tình đoàn kết dân tộc được siết chặt và mở rộng ra với các cộng đồng dân tộc khác như Việt, Hoa. Trong lễ hội, rất nhiều hoạt động cần sự tham gia của một tập thể, người trực tiếp tham gia, người cỗ vũ bên cạnh. Tất cả dường như không còn rào cản về cấp bậc, vị trí trong xã hội, 17
  6. giàu nghèo hay sắc tộc. Đến với lễ hội, mọi người đều bình đẳng như nhau trước thần linh. Bên cạnh đó, trong thời gian lễ hội mọi người có nhiều thời gian rãnh rỗi để thăm viếng nhau - cái mà hàng ngày rất khó để thực hiện, từ đó làm cho mọi người thêm hiểu nhau, tình làng nghĩa xóm được nhân rộng ra và thắt chặt lại. Tóm lại, lễ hội là môi trường giáo dục cho con người tính đoàn kết và yêu thương nhau. Nó làm cho mọi người xích lại gần nhau hơn, không chỉ là trong cộng cồng người Khmer mà còn mở rộng ra tình đoàn kết với các dân tộc khác. Như vậy, lễ hội có tác động rất mạnh mẽ đến cộng đồng người Khmer Trà Vinh nói riêng và cộng đồng các dân tộc Trà Vinh nói chung. Vừa là nơi gìn giữ phát huy bản sắc của dân tộc vừa là nơi giáo dục, tiếp nối truyền thống của ông cha vừa là nơi để thắt chặt tình đoàn kết của mọi người. 3.3. Giá trị của lễ hội Cúng Trăng của người Khmer tỉnh Trà Vinh Từ những vai trò và ý nghĩa như vậy, chúng tôi xin được đưa ra 5 giá trị mà lễ hội Cúng Trăng đem lại: giá trị văn hóa, giá trị giáo dục, giá trị tâm linh, giá trị kinh tế và giá trị ứng xử với tự nhiên. 3.3.1. Giá trị văn hóa Lễ hội Cúng Trăng là một lễ hội truyền thống, độc đáo và diễn ra trên quy mô rộng của người Khmer tỉnh Trà Vinh. Lễ hội ra đời và gắn liền với quá trình hình thành nền nông nghiệp lúa nước và tín ngưỡng thờ thần của của người Khmer. Đối với cư dân nông nghiệp lúa nước nói chung và người Khmer nói riêng, cuộc sống nông nghiệp, sinh hoạt hàng ngày phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố tự nhiên, đặc biệt là nước. Khi mà hệ thống thủy lợi còn hạn chế, thì con người luôn dựa vào tự nhiên để có nước gieo trồng, từ đó sùng bái thờ các vị thần tư nhiên. Theo quan niệm, thì mặt trăng có ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề thủy triều, nước ròng, nước lớn. Chính vì đó, người Khmer có tín ngưỡng thờ thần mặt trăng. Họ hi vọng mặt trăng sẽ điều tiết khí hậu, cho một mùa màng bội thu, ấm no. Vì vậy, tín ngưỡng thờ mặt trăng là một tín ngưỡng nguyên thủy có liên quan đến cộng đồng cư dân nông nghiệp Khmer. Bên cạnh đó, hầu hết người Khmer theo tôn giáo là phật giáo, họ tôn thờ mặt trăng qua sự tích “con thỏ và mặt trăng”. Mặt trăng đại diện cho sự trong sáng, dịu dàng. Bản thân tín ngưỡng dân gian thờ mặt trăng cùng với phật giáo được du nhập vào đều đề cao mặt trăng, đức phật, điều đó dễ dàng làm cho tín ngưỡng dân gian và tôn giáo hòa hợp. xét về mặt tín ngưỡng thì lễ cúng trăng là lễ tạ ơn thần mặt trăng cùng các vị thần khác, còn xét về mặt tôn giáo thì lễ Cúng Trăng là sự đề cao, kính trọng đức phật với lòng từ vi, hỉ xả của mình. Trong hầu hết các lễ hội ngoài các nghi thức, nghi lễ, vật phẩm… có một thứ không thể thiếu đó là âm nhạc và lễ hội Cúng Trăng cũng không phải là ngoại lệ. Âm nhạc làm cho không khí trang nghiêm hơn cũng như sôi nổi hơn, thú hút được sự chú ý của mọi người. Mỗi hoạt động, mỗi nghi thức đều có một bài nhạc khác nhau để tạo không khí sôi nổi, vui tươi, tưng bừng cho lễ hội. Ở đây, trong mọi hoạt động của lễ hội đều không thể thiếu âm nhạc. và nhắc đến âm nhạc, chúng ta nhớ ngay đến dàn nhạc ngũ âm của người Khmer – đó là sức sống, linh hồn và là văn hóa của người Khmer. Dàn nhạc còn là một biểu tượng văn hóa trong đời sống văn hóa của người Khmer. Chính vì lẽ đó, trong lễ hội Cúng Trăng không thể nào thiếu được âm nhạc của dàn nhạc ngũ âm. 18
  7. Bên cạnh âm nhạc, trong lễ hội còn có múa với một điều múa truyền thống sủa người Khmer đó là múa Sadăm. Múa Sadăm là thể hiện sự tinh nghịch của các chàng trai Khmer qua hình ảnh các chú khỉ Hanuman với các động tác lạy, giã, nhảy…rất vui nhộn và hòa quyện chung với âm nhạc rất sinh động. Với các điệu múa này, làm cho lễ hội thêm tưng bừng vui vẻ, tạo cảm giác sảng khoái cho tất cả mọi người tham gia lễ hội. Lễ hội là dịp để mọi người nghỉ ngơi, là nơi để mọi người gặp gỡ, hỏi thăm nhau và cũng là nơi để mọi người thể hiện niềm tin với tín ngưỡng, tôn giáo của mình. Ngày nay, lễ hội cúng trăng thu hút rất đông mọi người tham gia, đủ các thành phần, sắc tộc trong và ngoài tỉnh. Mọi người vui chơi, ăn uống, nói chuyện. Mọi hoạt động chủ yếu diễn ra tại khu di tích ao Bà Om và ao Sen. Lễ hội là dịp để mọi người thắt chặt tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc, các địa phương cũng như một dịp để cải thiện đời sống tinh thần cho mọi người. Đối với cộng đồng người Khmer tỉnh Trà Vinh, lễ hội Cúng Trăng hết sức hấp dẫn, lôi cuốn mọi người. Khi đến đây, mọi người được đắm mình trong không gian lễ hội, trong không gian truyền thống văn hóa dân tộc và được sống trong không khí linh thiêng, gần gũi với các vị thần, phật. Mọi người được hòa mình vào cộng đồng, cảm thấy như mình không còn lẽ loi giữa cuộc sống vất vả, khó khăn này. Như vậy, lê hội Cúng Trăng với những nghi thức, nghi lễ, lễ vật…đã hàm chứa một giá trị văn hóa ở trong đó. 3.3.2. Giá trị nhân văn – giáo dục Lễ hội Cúng Trăng là một hình thức sân khấu hóa các sự việc, sự kiện trong cuộc sống thông qua các nghi thức, nghi lễ, sân khấu diễn xướng và các trò chơi dân gian. Các hoạt động này đều hướng về các vị thần linh, về ông bà tổ tiên, vì vậy, có thể nói lễ hội này hướng mọi người bày tỏ lòng thành kính đối với các vị thần – người phù hộ cho họ có cuộc sống ấm lo, hạnh phúc. Thông qua đó, nhắc nhở cộng đồng “uống nước nhớ nguồn”, nhắc nhở những bài học về truyền thống, đạo lý đối với mọi người trong phum sóc, đặc biệt là các thế hệ trẻ. Khi mọi người đến với lễ hội thành tâm, thành kính dâng lòng thành của mình đến với thần linh, với ông bà, tổ tiên của mình. Bên cạnh đó, đây cũng là bài học nhắc nhở mọi người sống có bổn phận và trách nhiệm hơn. Trách nhiệm đối với gian đình, xã hội và trách nhiệm với cả bạn thân mình. Do đó, lễ hội có giá trị giáo dục đạo đức, giáo dục truyền thống lịch sử của phum sóc, của dân tộc. Giáo dục về tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết trong lao động sản xuất và đoàn kết trong chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Lễ hội là lớp học lớn, giáo dục và hướng các bạn trẻ đến với giá trị “chân, thiện, mỹ”. tất cả mọi thứ trong lễ hội phải được chuẩn bị bằng cả cái tâm và sự công phu, chung sức chung lòng của nhiều người, nhiều thế hệ. Chính vì đó, lễ hội là nơi để dạy cho các thế hệ trẻ về nguồn gốc của mình, là nơi để chuyển giao các giá trị văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác. Các chương trình ca nhạc, diễn xướng được đầu tư công phu cả về nội dung, hình thức để đáp ứng nhu cầu thưởng thức của mọi người. Bên cạnh đó, tạo sự lôi cuốn, hấp dẫn với các thế hệ trẻ đối với văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Chính vì lễ hội có sự hướng dẫn, chuyển giao các giá trị văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hướng mọi người đến cái đẹp, cái hoàn mỹ mà chúng ta có thể nói lễ hội Cúng Trăng của người Khmer tỉnh Trà Vinh có mang tính nhân văn – giáo dục sâu sắc. 3.3.3. Giá trị tâm linh Trong quá trình lao động sản xuất, con người đã tác động vào thế giới tự nhiên để tạo ra 19
  8. của cải vật chất nhằm phục vụ cuộc sống của mình. Song song với quá trình ấy, con người đồng thời cũng sáng tạo ra những giá trị văn hóa. Trong quá trình sáng tạo của mình, có đôi lúc gặp sự khó khăn, tưởng chừng như không thể vượt qua, con người đã nhờ đến sức mạnh của một đấng siêu nhiên giúp đỡ đó là thần linh. Các vị thần là những nhân vật vô hình, tồn tại xung quanh cuộc sống của chúng ta. Khi con người gặp khó khăn, đã cầu mong các vị thần giúp đỡ. Như chúng tôi đã nói ở trên, lễ hội Cúng Trăng là một lễ hội mang màu sắc tín ngưỡng dân gian. Lễ hội là dịp để tạ ơn các vị thần đã ban phước, phù hộ cho mùa màng bội thu. Trong không khí lễ hội, mọi nghi thức, nghi lễ đều được được tạo một không gian linh thiêng để làm cầu nối đến với các vị thần. Đến với lễ hội, con người được đắm mình trong sự trang nghiêm, nhiệm màu. Mọi người đều thành tâm cầu nguyện, và tỏ lòng thành kính với các vị thần. Họ tin rằng, các vị thần đang ở xung quanh và quan sát chúng ta. Đây là dịp để mọi người có lại niềm tin, hi vọng cho một mùa màng mới. Nói tóm lại, lễ hội mang một màu sắc tín ngưỡng dân gian độc đáo, thể hiện niềm tin của con người vào một thế giới siêu nhiên có thiện có ác. Họ cầu mong một sự ban phước của các vị thần – một thế lực vô hình, sự phù hộ của các vị thần để có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đây chính là các giá trị tâm linh lớn lao mà lễ hội mang lại cho mọi người. 3.3.4. Giá trị kinh tế Bên các giá trị văn hóa, giáo dục hay tâm linh mà chung tôi mới đề cập ở trên, lễ hội còn mang một giá trị hết sức thiết thực gần gũi với cuộc sống mọi người đó chính là giá trị kinh tế. Giá trị kinh tế mang lại rõ nét nhất đó chính là giá trị du lịch. Trong những ngày lễ hội diễn ra, mọi người từ tất cả các nơi kéo về tham gia lễ hội. Không chỉ có người Khmer, mà còn có người Việt, Hoa, khách nước ngoài… Điều này đã tác động tích cực đến kinh tế của địa phương. Các dịch vụ buôn bán, ăn uống, lưu trú đều tăng trong thời gian này. Điều này tạo nên một nguồn thu nhập đáng kể cho người dân địa phương. Bên cạnh đó, trong không gian lễ hội còn có các gian hàng hội chợ từ các huyện, thị mang lại, đó là các đặc sản, các sản phẩm thủ công của mỗi địa phương mang tới. Vừa bán hàng tạo ra các giá trị kinh tế vừa giới thiệu được văn hóa đến với các du khách. Ngoài ra, lễ hội để Trà Vinh quảng bá các thành tựu văn hóa, kinh tế, thúc đẩy các sản phẩm du lịch đến với các địa phương khác, đến với các du khách. Dần dần xây dựng thành một thương hiệu riêng cho địa phương của mình. Như vậy, lễ hội đã mang lại một giá trị kinh tế không chỉ trước mắt mà còn mang đến một giá trị lâu dài cho địa phương, mang đến thương hiệu, giá trị du lịch và hình ảnh địa phương trong mắt du khách. Dần dần, trong thời gian lễ hội có thể phát triển thêm các tour du lịch tâm linh mang lại những nguồn lợi kinh tế cho địa phương. 3.3.5. Giá trị ứng xử Ứng xử với môi trường xã hội Lễ hội nói chung và lễ hội Cúng Trăng của người Khmer tỉnh Trà Vinh nói riêng không chỉ góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc, mà nó còn gắn kết cộng đồng, những người dân lại với nhau. Thông qua lễ hội, không chỉ những người Khmer thêm gần gũi, gắn bó và hiểu nhau hơn, mà nó còn có thể tiếp xúc, gặp gỡ những người dân tộc khác, những người có thể chỉ 20
  9. gặp lần đầu tiên trong lễ hội. Tuy nhiên, không quan trọng lạ hay quen, mọi người cùng nhau chia sẻ niềm vui chung về lễ hội, về niềm tin. Từ đó, tình làng nghĩa xóm được thắt chặt thêm, mối quan hệ mọi người trong xã hội được mở rộng. Trong phum sóc, để chuẩn bị cho lễ cúng, mọi người từ già tới trẻ, trai gái cùng nhau ngồi lại bàn kế hoạch tổ chức sao cho đầy đủ và trang nghiêm nhất. Mọi người hào hứng bàn bạc, trẻ em vui vẻ chơi đùa. Bản thân mỗi người dân trong phum, sóc đều tự mình ý thức được trách nhiệm của mình trong công tác chuẩn bị. Mọi thứ được mọi người làm với một tinh thần vui tươi và trang nghiêm nhất. Lễ hội không chỉ có nghi lễ, mà còn có các hoạt động vui chơi, giải trí. Vì vậy không thể một người có thể chơi được mà phải một cộng đồng, số đông người tham gia. Từ đó, mọi người không phân biệt giàu nghèo, trai gái, lạ quen đều cùng nhau tham gia với tinh thần thi đấu hết mình vì chiến thắng của đội, của phum sóc. Đây là sợi dây vô hình rút ngắn khoảng cách của mọi người lại với nhau. Nói tóm lại, trong cuộc sống lao động, tình làng nghĩa xóm luôn được thắt chặt qua việc giúp đỡ công việc lẫn nhau, chia sẻ nhưng sản vật mới thu hoạch…nhưng qua lễ hội, tình cảm ấy lại một lần nữa được thắt chặt và củng cố hơn. Việc tổ chức lễ hội hàng năm cũng là cơ hội cho các dân tộc anh em trên địa bàn có cơ hội giao lưu và tìm hiểu hơn về văn hóa Khmer, về những người anh em sống chung trên một mảnh đất. Ứng xử với môi trường tự nhiên Đối với cư dân nông nghiệp lúa nước nói chung và người Khmer nói riêng thì cuộc sống chủ yếu là làm nông nghiệp, chính vì vậy các yếu tố tự nhiên như đất, nước, khí hậu, thời tiết… có ảnh hưởng rất lớn đến mùa màng và cuộc sống của họ. Đối với cộng đồng người Khmer ở Nam bộ hay cụ thể hơn người Khmer ở Trà Vinh, cuộc sống của họ đã gắn bó với sông nước, ruộng đồng từ xa xưa, chính vì lẽ đó mà các yếu tố tự nhiên luôn đóng góp một phần quan trọng trong cuộc sống của họ. Vì quan trọng nên các yếu tố tự nhiên luôn được linh thiêng hóa, một mặt họ vừa kính trọng, tôn thờ sùng bái tự nhiên tạo nên các vị thần. Mặt khác họ luôn chiếm đoạt, chinh phục tự nhiên để phục vụ cho cuộc sống của mình. Từ đó hình thành lên lối ứng xử của con người với môi trường tự nhiên. Giống như người Việt có Tứ Pháp (vân – vũ – lôi – điện: mây – mưa – sấm – chớp) thì người Khmer có các vị thần liên quan đến tự nhiên như thần đất, thần nước, thần mặt trăng… trong đó theo quan niệm của họ, thần mặt trăng cai quản khí hậu, điều tiết thủy triều nên đó là vị thần quan trong nhất. Khi có những điều kiện tự nhiên bất lợi, con người vừa khắc phục vừa cầu mong, cầu nguyện vào sự giúp đỡ của các vị thần linh. Do đó, vào lễ hội Cúng Trăng, giai đoạn chuyển từ mùa mưa sang mùa khô, mùa thu hoạch, con người làm lễ cúng tạ ơn các vị thần đã cho mùa màng tốt tươi. Bên cạnh đó, đánh dấu giai đoạn chuyển mùa, đầy lùi nguồn nước để chuẩn bị cho mùa thu hoạch. Thả đèn nước, đèn gió là thể hiện lòng thành kính, tạ lỗi của mọi người với thần nước, thần đất trong năm qua vì cuộc sống mưu sinh mà đã làm ô uế các vị thần, nay làm đèn đẹp đẽ, lung linh để tạ lỗi các vị thần. Bên cạnh sự tôn thờ, sùng bái thì người Khmer cũng thể hiện sự chinh phục, chiếm đoạt. Nếu như người Việt có sự tích “Sơn Tinh – Thủy Tinh” để nói lên ước mong, sự chinh phục mưa lũ hàng năm của con người ở Bắc bộ. Con người có thể chiến thắng, cải tạo được tự nhiên. 21
  10. Người Khmer cũng vậy. Sự chinh phục của họ thể hiễn ở chỗ: trong câu truyện Vua Người Giết Vua Rồng chiếm vợ cho thấy sự chinh phục của con người với tự nhiên, hay đua ghe Ngo là sự lấn lướt trên mặt nước, con người chinh phục và vượt qua tự nhiên. Mặt khác, hội đua ghe Ngo thể hiện việc tiễn nước về với biển khơi, để mọi người chuẩn bị cho mùa thu hoạch. Tóm lại, cũng như các cư dân nông nghiệp khác, hay là các cư dân cùng sống cộng cư như Việt, Hoa, Chăm thì người Khmer cũng có những lối sống, ứng xử với tự nhiên một cách tương đồng. Bên cạnh đó lối ứng xử đó cũng có nhiều điểm khác biệt. Nhưng nhìn chung lại, người Khmer sống dung hòa, hòa mình vào tự nhiên, ứng xử với môi trường tự nhiên một cách khéo léo, “vừa cương vừa nhu”. Họ vừa tôn trọng trọng, tôn sùng tự nhiên, vừa muốn chinh phục và cải tạo tự nhiên. 4. KẾT LUẬN Người Khmer tỉnh Trà Vinh là một trong những dân tộc có truyền thống định cư lâu đời và có công khai phá vùng đất này. Người Khmer chủ yếu sống trên những giồng đất cao, trồng lúa, khoai…cuộc sống của họ gắn chặn với thiên nhiên. Vì vậy, để hiểu và chế ngự được thiên nhiên, người Khmer đã giải thích những hiện tượng đó qua những đấng siêu nhiên và từ đó, hình thành hệ thống các tín ngưỡng, lễ hội để thể hiện lòng tôn kính của mình đối với đấng siêu nhiên. Cùng với việc hình thành lâu đời của người Khmer, thì tỉnh Trà Vinh với những vị trí đặc thù của mình thì việc bảo tồn và lưu giữ những giá trị văn hóa riêng của mình cũng hết sức đặc thù. Người Khmer nói chung và người Khmer tỉnh Trà Vinh hầu hết theo Phật giáo tiểu thừa, vì vậy, cuộc sống và sinh hoạt văn hóa tinh thần của họ gắn liền với nhà chùa từ khi sinh ra đến khi mất đi. Trong mọi hoạt động, nghi lễ, lễ hội đều thấy được vai trò của nhà sư và nhà chùa. Trong đời sống, từ người giàu đến người nghèo, từ người trẻ đến già đều gắn liền với chùa, chính vì vậy, bản chất của con người luôn được hướng đến cái chân, thiện, mỹ. Mọi người tin vào thần linh, một tín ngưỡng riêng nhưng không xung đột với tôn giáo của mình. Tất cả với lòng thành kính để cầu mong được sự bình an cho gia đình, bản thân và xã hội. Bên cạnh đó, mọi người tham gia vào lễ hội bên cạnh việc tin tưởng và tuân theo niềm tin của mình thì cũng tuân thủ và chấp hành tốt các quy định của nhà nước. Lễ hội Cúng Trăng đã đóng góp không nhỏ vào mảng màu văn hóa của Việt Nam ta cũng như đóng góp lớn vào kho tàng văn hóa – văn học của người Khmer. Lễ hội này được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu và nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Nghiên cứu lễ hội là tìm về nguồn gốc, quán trình hình thành cũng như nhận ra giá trị của lễ hội. Qua lễ hội Cúng Trăng, có thấy được cách ứng xử của người Khmer với thiên nhiên, với đấng siêu nhiên, với môi trường sinh thái. Thông qua lễ hội, cũng thấy được nét văn hóa đặc trưng, sự thích nghi và nét văn hóa đặc sắc của người Khmer. Có thể nói, lễ hội Cúng Trăng mang một ý nghĩa sâu sắc trong đời sống tinh thần của người Khmer Trà Vinh. Nó không chỉ là nét đẹp và còn thể hiện những khát vọng, những ước muốn của họ với đấng siêu nhiên, với cuộc sống. Vì vậy, việc tổ chức lễ hội hàng năm không chỉ thể hiện ước mơ ấy, mà còn là nơi lưu giữ, phát huy các giá trị văn hóa cũng như là nơi trao gửi các giá trị văn hóa cho thế hệ sau. 22
  11. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Văn Bổn (1999). Một số lễ tục dân gian người Khmer Đồng bằng Sông Cửu Long. Hà Nội: Nxb Văn hóa dân tộc. 2. Nguyễn Mạnh Cường (2002). Vài nét về người Khmer Nam Bộ. Hà Nội: Nxb Khoa học xã hội. 3. Trần Dũng - Đặng Tấn Đức (2012). Diện mạo văn hóa tín ngưỡng và lễ hội dân gian Trà Vinh. Hà Nội: Nxb Văn hóa thông tin. 4. Phạm Thị Phương Hạnh (cb - 2012). Văn hóa Khmer Nam Bộ -nét đẹp trong bản sắc văn hóa Việt Nam. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia. 5. Trường Lưu (cb -1993). Văn hóa người Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Hà Nội: Nxb Văn hóa dân tộc. 6. Nhiều tác giả (2014). Lễ hội cộng đồng truyền thống và biến đổi. Tp HCM: Nxb ĐHQG. 7. Huỳnh Thanh Quang (2011). Giá trị văn hóa của người Khmer đồng bằng sông Cửu Long. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia. 8. Sang Sết (2012). Phong tục, lễ hội và tranh ký tự dân tộc Khmer Nam Bộ. Hà Nội: Nxb Văn hóa dân tộc. 9. Viện văn hóa (1998). Tìm hiểu vốn văn hóa Khmer Nam Bộ. Hậu Giang: Nxb Tổng hợp Hậu Giang. 10. Huỳnh Ngọc Trảng (cb - 1987). Người Khmer tỉnh Cửu Long. Nxb Cửu Long. 23
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1