intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nhân một trường hợp bệnh lý rối loạn chuyển hoá galactose

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

55
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Rối loạn chuyển hoá galactose là một trong các bệnh rối loạn chuyển hoá có thể gặp ở trẻ sơ sinh. Việc phát hiện bệnh thường muộn và trẻ thường được chẩn đoán khi tử vong là chết chưa rõ nguyên nhân. Báo cáo ca bệnh này nhằm mục đích thông tin cho các quý bác sĩ về diễn tiến một trường hợp đã được chẩn đoán nhằm phát hiện và xử trí sớm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nhân một trường hợp bệnh lý rối loạn chuyển hoá galactose

Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013<br /> <br /> NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP BỆNH LÝ RỐI LOẠN CHUYỂN HOÁ <br /> GALACTOSE <br /> Ngô Minh Xuân*, Vũ Tề Đăng** <br /> <br /> TÓM TẮT <br /> Cho đến nay, tại Việt Nam, việc phát hiện các bệnh lý rối loạn chuyển hóa còn gặp nhiều khó khăn, đa phần <br /> phát hiện trễ do chưa có chương trình tầm soát thường qui cho tất cả các trẻ sơ sinh. Hơn nữa, ngay sau sanh <br /> việc cho trẻ ăn để thích nghi với cuộc sống ngoài tử cung. Tuy nhiên, nếu trẻ có rối loạn trong chuyển hoá một <br /> trong các thành phần có trong thức ăn của trẻ thì việc cho ăn này sẽ trở nên nguy hiểm. Rối loạn chuyển hoá <br /> galactose là một trong các bệnh rối loạn chuyển hoá có thể gặp ở trẻ sơ sinh. Việc phát hiện bệnh thường muộn và <br /> trẻ thường được chẩn đoán khi tử vong là chết chưa rõ nguyên nhân. Báo cáo ca bệnh này nhằm mục đích thông <br /> tin cho các đồng nghiệp về diễn tiến một trường hợp đã được chẩn đoán nhằm phát hiện và xử trí sớm. Nếu <br /> chương trình tầm soát 48 loại bệnh lý rối loạn chuyển hoá bẩm sinh được triển khai thì việc phát hiện rối loạn <br /> chuyển hoá galactose không khó. Tuy nhiên hiện nay tại Việt Nam, do chưa có chương trình tầm soát này nên có <br /> nhiều gia đình có nhiều con bị tử vong sớm sau sinh mà không rõ nguyên nhân. Việc tầm soát dù không quá <br /> phức tạp nhưng lại tốn kém vì phải gửi mẫu ra nước ngoài, kết quả trả về cũng khá chậm. Trường hợp rối loạn <br /> chuyển hóa bẩm sinh này đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về các bệnh lý rối loạn chuyển hoá có thể là nguyên <br /> nhân gây tử vong sớm cho trẻ sơ sinh mà không rõ nguyên nhân. Rất mong chương trình tầm soát các bệnh lý <br /> rối loạn chuyển hoá sớm được triển khai và được thực hiện ngày càng rộng rãi cho các trẻ được sơ sinh Việt <br /> Nam. <br /> Từ khóa: galactosemia, rối loạn chuyển hóa. <br /> <br /> ABSTRACT <br /> A REPORT OF GALACTOSEMIA DIAGNOSED AND MANAGED AFTER BIRTH AT TU DU <br /> HOSPITAL, VIETNAM <br /> Ngo Minh Xuan, Vu Te Dang * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 2 ‐ 2013: 98 ‐ 102 <br /> In the treatment of infant diseases, the detection of pathological metabolic disorders is very difficult. Because <br /> there are no screening programs for all newborns after births at Vietnam. Infact, feeding an infant immediately <br /> after birth is necessary for children to survive outside the womb, but it may cause a severe problem if the baby <br /> have a metabolic disorders. Pathological galactose metabolic disorders is one of the metabolic disorders in infants. <br /> The disease is usually detected late and the baby may die before having a final cause. This report aims to inform <br /> other colleague a special case that has been diagnosed and help us to have more experience about galactosemia. <br /> Detecting pathological galactose metabolic disorders is not too difficult, but it requires a good screening and a <br /> careful treatment. In Vietnam, families that have a children suffering from this disease have to sacrify one or two <br /> first  baby  because  we  have  not  implemented  a  screening  program  of  48  types  of  these  diseases  congenital <br /> metabolic disorders. The screening is not too complicated but is quite expensive and we have to send samples to <br /> others  countries,  so  the  returned  results  is  also  quite  slow.  Through  this  report  cases  may  help  to  find  out  a <br /> solution for diagnosis of pathological metabolic disorders in children that may be diagnosed as dead of unknown <br /> causes.  We  hope  the  program  of  medical  screening  for  metabolic  disorders  can  be  deployed  in  and  is  widely <br /> implemented for all children born in Vietnam. <br /> Key words: galactosemia, diagnose. <br /> *: Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch  <br /> ** Bệnh viện Từ Dũ <br /> Tác giả liên lạc: PGS.TS.BS Ngô Minh Xuân.  ĐT: 0903861784 <br /> Email: xuanlien62@yahoo.com <br /> <br /> 98 Hội Nghị Việt Pháp Châu Á Thái Bình Dương lần XII Ngày 16‐17 Tháng 5 Năm 2013 <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ  <br /> Hiện  nay  tại  Việt  Nam,  việc  phát  hiện  các <br /> bệnh  lý  rối  loạn  chuyển  hoá  bẩm  sinh  còn  gặp <br /> nhiều  khó  khăn  do  chúng  ta  chưa  có  chương <br /> trình tầm soát một cách tự động cho tất cả các trẻ <br /> được sinh ra. Thông thường, trẻ sơ sinh sẽ được <br /> cho bú ngay từ ngày đầu sau sanh. Nhưng việc <br /> này  cũng  tiềm  ẩn  một  nguy  cơ  cao  cho  trẻ  nếu <br /> trẻ  có  rối  loạn  trong  chuyển  hoá  một  trong  các <br /> thành phần có trong thức ăn của trẻ. Bệnh lý rối <br /> loạn chuyển hoá galactose là một trong các bệnh <br /> rối loạn chuyển hoá có thể gặp ở trẻ sơ sinh. Việc <br /> phát  hiện  bệnh  thường  chậm  trễ  và  trẻ  thường <br /> được chẩn đoán khi tử vong là tử vong không rõ <br /> nguyên  nhân.  Báo  cáo  ca  bệnh  này  nhằm  mục <br /> đích  thông  báo  cho  các  đồng  nghiệp  diễn  tiến <br /> một trường hợp đã được chẩn đoán nhằm tìm ra <br /> cách chẩn đoán, phát hiện sớm cũng như hướng <br /> xử trí khi bé mắc phải. <br /> <br /> TỔNG  QUAN  Y  VĂN  VỀ  BỆNH  LÝ  RỐI <br /> LOẠN CHUYỂN HÓA GALACTOSE <br /> Bệnh Galactosemia là một rối loạn di truyền <br /> liên  quan  tới  chu  trình  chuyển  hóa  đường <br /> galactose.  <br /> Các  nhà  nghiên  cứu  đã  xác  định  có  một  số <br /> týp bệnh galactosemia. Người bệnh mắc mỗi týp <br /> này là do đột biến ở các gen cụ thể và có những <br /> tác  động  khác  nhau  đến  các  enzyme  cần  thiết <br /> cho  quá  trình  phân  cắt  đường  galactose. <br /> Galactosemia thể cổ điển, hay còn được biết đến <br /> như là galactosemia týp I (thiếu hụt galactose‐1‐<br /> phosphate  uridyl  transferase),  là  loại  phổ  biến <br /> nhất  và  mang  lại  hậu  quả  nghiêm  trọng  nhất. <br /> Galactosemia  týp  II  (hay  còn  gọi  là  thiếu  hụt <br /> galactosekinase)  và  týp  III  (có  tên  khác  là  thiếu <br /> galactose epimerase) mang các dấu hiệu và triệu <br /> chứng đặc trưng khác nhau. <br /> Nếu  trẻ  sơ  sinh  mắc  bệnh  galactosemia  cổ <br /> điển không được điều trị ngay lập tức bằng việc <br /> hạn chế đồ ăn chứa galactose, các biến chứng đe <br /> dọa tính mạng sẽ xuất hiện trong vòng vài ngày <br /> sau khi sinh. Trẻ sơ sinh bị biến chứng sẽ có biểu <br /> hiện điển hình như khó cho bú, chậm phát triển, <br /> <br /> Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Nhi Sơ Sinh<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> cân nặng và chiều cao không tăng như dự kiến, <br /> vàng da và mắt, tổn thương gan và bị chảy máu. <br /> Các biến chứng nguy hiểm khác của bệnh này có <br /> thể  bao  gồm  nhiễm  trùng  nặng  (sepsis)  và  bị <br /> shock.  Trẻ  bị  tổn  thương  cũng  bị  tăng  nguy  cơ <br /> chậm phát triển, khó phát âm, và thiểu năng trí <br /> tuệ.  Phụ  nữ  với  di  chứng  của  galactosemia  có <br /> thể có vấn đề về sinh sản do suy buồng trứng(1). <br /> Galactosemia týp II gây ra ít vấn đề sức khỏe <br /> hơn  thể  cổ  điển.  Trẻ  mắc  bệnh  bị  gia  tăng  đục <br /> thủy tinh thể, nhưng ngược lại ít các biến chứng <br /> lâu  dài  hơn.  Dấu  hiệu  và  triệu  chứng  của <br /> galactosemia  týp  II  thì  biến  thiên  từ  nhẹ  đến <br /> nặng và có thể bao gồm đục thủy tinh thể, chậm <br /> lớn và chậm phát triển, thiểu năng trí tuệ và mắc <br /> các bệnh về thận(1). <br /> Tần  suất  mắc  bệnh  loại  cổ  điển  khoảng <br /> 1/30.000  –  60.000  trẻ  sơ  sinh.  Loại  II  và  loại  III <br /> xảy ra ít phổ biến hơn, loại II với tỷ lệ 1/100.000 <br /> trẻ sơ sinh. Loại III hầu như là rất hiếm xảy ra, <br /> chỉ một vài bệnh nhân được báo cáo ở mỗi quốc <br /> gia.  Tỷ  lệ  mắc  bệnh  khác  nhau  theo  các  nhóm <br /> dân  tộc,  các  vùng  miền.  Ở  châu  Âu  tỷ  lệ  mắc <br /> GALT là 30.000 đến 40.000(7). Ở Nhật Bản 1 trong <br /> 1 triệu trẻ sơ sinh(4). <br />  Các  nhà  khoa  học  đã  xác  định  một  số  loại <br /> rối loạn chuyển hóa Galactosemia. Các loại bệnh <br /> này  gây  ra  bởi  đột  biến  ở  một  số  các  gen  đặc <br /> biệt,  và  ảnh  hưởng  đến  hoạt  động  của  các <br /> enzym  khác  nhau  liên  quan  đến  việc  quá  trình <br /> chuyển  hóa  đường  Galactose.  Bệnh <br /> Galactosemia  cổ  điển,  còn  được  gọi  là  týp  I <br /> (thiếu <br /> enzym <br /> galactose‐1 <br /> phosphate <br /> uridyltransferase  ‐  GALT),  là  loại  hay  gặp  và <br /> nghiêm  trọng  nhất.  Bệnh  Galactosemia  týp  II <br /> (thiếu  enzym  galactokinase  ‐  GALK)  và  týp  III <br /> (thiếu  enzym  UDP‐galactose‐4‐epimerase  ‐ <br /> GALE) thường chiếm tỷ lệ ít hơn và gây ra các <br /> triệu chứng lâm sàng khác nhau. <br />  Người bị bệnh Glactosemia cổ điển có rất ít <br /> hoặc  thiếu  loại  enzym  GALT,  giúp  phá  vỡ  cấu <br /> trúc đường Galactose. <br /> Các  nhà  khoa  học  đã  phát  hiện  có  tới  hơn <br /> 180  đột  biến  trên  gen  GALT  gây  nên  bệnh <br /> <br /> 99<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013<br /> <br /> Galactosemia  cố  điển.  Hầu  hết  các  biến  đổi  ở <br /> gen GALT là thay đổi các axit amin trong cấu <br /> trúc protein. <br /> GALT đột biến nhiều nhất được tìm thấy ở <br /> người da trắng (Châu  Âu  và  Bắc  Mỹ),  thay  thế <br /> axit min Glutamine với axit amin Arginine ở vị <br /> trí  188  trong  gen.  Một  đột  biến  trên  gen  GALT <br /> xảy ra đối với người gốc châu Phi là sự thay thế <br /> axit amin Leuxin cho axit amin Serin ở vị trí 135 <br /> của gen này. <br /> Bệnh galactosemia là bệnh di truyền lặn trên <br /> nhiễm  sắc  thể  thường.  Người  không  bị  bệnh <br /> galactosemia mang hai alen bình thường để sản <br /> xuất  các  enzyme  GALT  (enzyme  cần  thiết  để <br /> chuyển  đổi  galactose  thành  glucose  sử  dụng <br /> được  bởi  cơ  thể).  Kiểu  gen  của  người  này  sẽ  là <br /> N/N và hoạt động enzyme của họ bình thường. <br /> Người được thừa hưởng một alen bình thường <br /> và  một  alen  gây  bệnh  từ  cha  mẹ.  Kiểu  gen  của <br /> người  này  sẽ  là  G/N  và  hoạt  động  enzyme  của <br /> họ  sẽ  yếu  hơn  bình  thường,  nhưng  không  yếu <br /> hơn quá nhiều. Một người mang hai alen bị đột <br /> biến  sẽ  gây  ra  bệnh  galactosemia  cổ  điển.  Kiểu <br /> gen của người này sẽ là G/G và enzyme của họ <br /> không hoạt động. <br /> <br /> Về mặt triệu chứng và biểu hiện lâm sàng  <br /> Trẻ  sơ  sinh  bị  bệnh  Galactosemia  cổ  điển <br /> thường có biểu hiện sau khi sinh. Trẻ càng được <br /> cho bú sớm thì các dấu hiệu xuất hiện càng sớm, <br /> nhiều khi các dấu hiệu xuất hiện từ lúc trẻ được <br /> 2 ngày tuổi.  <br /> Các  triệu  chứng  sớm  của  bệnh  có  thể  bao <br /> gồm: Vàng da vàng mắt, ói mửa, tăng cân chậm, <br /> hạ đường huyết, bú kém, trẻ khó chịu, hôn mê, <br /> co giật … <br /> Nếu không được điều trị, các triệu chứng có <br /> thể  gồm:  đục  thủy  tinh  thể,  gan  lách  to,  tổn <br /> thương  não,  sưng  phù  các  chi  hoặc  tổn  thương <br /> dạ  dày,  nhiễm  vi  khuẩn  Escherichia  coli  (nhiễm <br /> trùng huyết) xơ gan, suy gan, tổn thương thận, <br /> tử vong. <br /> Khi chẩn đoán trẻ bị bệnh Galactosemia, cần <br /> có chế độ ăn uống hạn chế  thực  phẩm  có  chứa <br /> <br /> Galactose  ngay  lập  tức  nhằm  ngăn  chặn  tình <br /> trạng ngộ độc cấp. <br /> Tuy nhiên các biến chứng lâu dài có thể xảy <br /> ra.  Bao  gồm:  Tăng  trưởng  chậm,  học  tập  kém, <br /> rối loạn ngôn ngữ, chậm phát triển. <br /> Xét  nghiệm  máu  để  phát  hiện  bệnh <br /> Galactosemia  bằng  cách  đo  nồng  độ  đường <br /> Galactose trong máu. Cũng có thể tiến hành đo <br /> nồng  độ  đường  Galactose  trong  nước  tiểu.  Đối <br /> với trẻ sơ sinh chỉ cần tiến hành lấy vài giọt máu <br /> ở gót chân trong thời gian 48‐72 giờ sau khi sinh <br /> là  có  thể  phát  hiện  được  trẻ  có  bị  bệnh <br /> Galactosemia  hay  không,  việc  xác  định  chẩn <br /> đoán  sẽ  được  tiến  hành  bằng  cách  kiểm  tra  lại <br /> máu lần thứ hai. Chẩn đoán sớm và điều trị kịp <br /> thời  cho  trẻ  để  tránh  những  biến  chứng  ảnh <br /> hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của trẻ. <br /> Hiện  nay  không  có  cách  điều  trị  dứt  điểm <br /> được bệnh Galactosemia. Việc điều trị là loại bỏ <br /> đường Galactose trong thức ăn để tránh tái diễn <br /> các  triệu  chứng,  và  việc  điều  trị  này  là  lâu  dài. <br /> Người bị bệnh Galactosemia thường phải loại bỏ <br /> những thực phẩm có chứa đường galactose khỏi <br /> phần ăn, nhất là loại bỏ hẳn sữa và các sản phẩm <br /> sữa.  Vì  sữa  và  các  sản  phẩm  sữa  thường  chứa <br /> nhiều canxi, nên phải thường bổ sung canxi cho <br /> những  người  bị  bệnh  Galactosemia  dưới  dạng <br /> những  thực  phẩm  bổ  sung  và  có  thể  thay  thế <br /> sữa bằng các sản phẩm sữa đậu nành. <br /> <br /> PHẦN BÁO CÁO CA BỆNH <br /> Bệnh  nhân  được  nhập  vào  khoa  với  chẩn <br /> đoán theo dõi bệnh lý rối loạn chuyển hoá bẩm <br /> sinh. Gia đình có tiền sử sanh 3 bé đầu tiên đều <br /> mất  chưa  rõ  nguyên  nhân.  Trường  hợp  thứ  1 <br /> chết  sau  sanh  11  ngày.  Trường  hợp  thứ  2  chết <br /> sau sanh 15 ngày và trường hợp thứ 3 chết sau <br /> sanh 1,5 tháng. Đến bé thứ 4 được chẩn đoán là <br /> theo  dõi  bệnh  lý  rối  loạn  chuyển  hoá,  và  bé  đã <br /> được  chuyển  ngay  đến  bệnh  viện  Nhi  trung <br /> ương để điều trị ngay từ ngày thứ 1. Khi vào bé <br /> thở đều, cân nặng 2900g, khám lâm sàng không <br /> phát hiện gì bất thường. Bé được nuôi bằng dịch <br /> truyền  đường  hoàn  toàn.  Bé  được  làm  các  xét <br /> <br /> 100 Hội Nghị Việt Pháp Châu Á Thái Bình Dương lần XII Ngày 16‐17 Tháng 5 Năm 2013 <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 <br /> nghiệm  chẩn  đoán  bệnh  lý  chuyển  hoá  acid <br /> amin, acid béo, acid hữu cơ ; kết quả NH3 không <br /> cao, ceton niệu (‐). Bé được cho bú mẹ thử. Sau 6 <br /> ngày bú mẹ và truyền dịch, trên da bé xuất hiện <br /> các  chấm  xuất  huyết  dưới  da,  vàng  da.  Có  rối <br /> loạn đông máu và được truyền huyết tương tươi <br /> đông lạnh. Nghi ngờ giảm prothrombin do suy <br /> gan.  Bé  tiếp  tục  được  điều  trị  kháng  sinh,  dịch <br /> truyền và bú mẹ. Sau truyền plasma bé có phục <br /> hồi  về  rối  loạn  đông  máu.  Sau  đó  bé  không  có <br /> điều trị đặc hiệu và chỉ được theo dõi đông máu <br /> toàn bộ. Sau 43 ngày điều trị, tình hình nặng dần <br /> và người nhà xin về sau nhiều lần được truyền <br /> plasma. Bé tử vong sau đó 3 ngày.  <br /> Bé thứ 5 lần này là một bé gái, cân nặng lúc <br /> sanh  là  3500g,  dài  51  cm,  vòng  đầu  34  cm. <br /> APGAR 8/9. Sanh thường. Khám lâm sàng tổng <br /> quát ngay sau sanh chưa phát hiện bất thường. <br /> Bé thở khí trời. Tuy nhiên từ ngay khi vào khoa, <br /> bé  được  nuôi  dưỡng  hoàn  toàn  bằng  đường <br /> glucose  truyền  tĩnh  mạch,  không  uống  sữa  mẹ <br /> hay sữa công thức và được làm các xét nghiệm <br /> cơ  bản  như:  tổng  phân  tích  tế  bào  máu,  CRP, <br /> nhóm máu, Rh, Đông máu toàn bộ, siêu âm tim <br /> não  bụng  tổng  quát,  X  quang  tim  phổi  thẳng. <br /> Các xét nghiệm về cho kết quả bình thường. Bé <br /> có nhóm máu O+. Sang ngày thứ 2, bé rất đòi ăn <br /> và được cho ăn glucose 10%. Từ ngày thứ 4, bé <br /> bắt đầu có biểu hiện vàng da và được  cho  thử: <br /> khí  máu  động  mạch,  đông  máu  toàn  bộ,  ion <br /> đồ/máu, CRP, Bilirubine, NH3, lactate/máu, tổng <br /> phân  tích  nước  tiểu,  đường  huyết  tại  giường. <br /> Kết  quả  đông  máu  toàn  bộ  có  rối  loạn  và  bé <br /> được  truyền  huyết  tương  tươi  đông  lạnh,  rọi <br /> đèn  điều  trị  vàng  da.  Khí  máu  động  mạch  có <br /> toan chuyển hoá nhẹ với pH là 7,330 (không tính <br /> được  ANION  GAP  do  không  đo  được  Cl‐). <br /> Lactate  3,59  (ngưỡng  0,63‐2,44  mmol/L) ;  NH3 <br /> 60,4  (11‐60  micromol/L).  Bé  vẫn  tiếp  tục  được <br /> cho truyền đường và ăn hoàn toàn glucose kèm <br /> điện giải, rọi đèn. Lượng bú ngày một tăng và bé <br /> ngưng dịch truyền vào ngày thứ 13. Bé bú hoàn <br /> toàn  glucose  10%  kèm  điện  giải.  Bé  được  làm <br /> thêm các xét nghiệm SGOT, SGPT, TSH, G6PD, <br /> Coombs  Test,  alpha‐foetoprotein,  và  được  tầm <br /> <br /> Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Nhi Sơ Sinh<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> soát 48 bệnh lý rối loạn chuyển hoá. Các kết quả <br /> trả về đều bình thường, ngoại trừ AFP là 37470 <br /> ng/ml.  Bé  bắt  đầu  được  cho  ăn  sữa  loãng  từ <br /> ngày thứ 13. Sau 2 ngày uống sữa, lâm sàng vẫn <br /> bình thường và bé được làm lại các xét nghiệm <br /> tầm  soát :  khí  máu  động  mạch,  SGOT,  SGPT, <br /> BUN,  Creatinin,  CRP,  ion  đồ,  NH3/máu, <br /> Afp/máu.  Kết  quả  khí  máu  động  mạch  có  toan <br /> chuyển hoá, kiềm hô hấp bù trừ 1 phần. Anion <br /> Gap là 18,1 mmol/l. AFP giảm còn 17939 ng/ml. <br /> Bé  được  chẩn  đoán  theo  dõi  bệnh  lý  rối  loạn <br /> chuyển  hoá  và  cho  làm  lại  tầm  soát  48  bệnh  lý <br /> chuyển  hoá  và  được  nuôi  ăn  bằng  sữa <br /> progestimilk từ ngày thứ 16. Diễn tiến lâm sàng <br /> vẫn tiến triển tốt. Ngày thứ 21, bé có kết quả tầm <br /> soát  48  bệnh  với  chẩn  đoán  là  galactosemia.  Bé <br /> được  chuyển  sang  nuôi  dưỡng  hoàn  toàn  bằng <br /> sữa lacto‐free. Bé lên cân tốt, không có biểu hiện <br /> thần  kinh.  Thử  lại  chức  năng  gan  bình  thường <br /> và bé được cho xuất viện với chẩn đoán rối loạn <br /> chuyển hoá galactose sau 26 ngày điều trị. Hiện <br /> tại  bé  đã  được  hơn  12  tháng  tuổi,  cân  nặng  15 <br /> kg,  và  bắt  đầu  chập  chững  những  bước  đi  đầu <br /> đời.  Tuy  nhiên  bé  vẫn  phải  uống  sữa  lacto‐free <br /> và ăn các thức ăn không có đường. <br /> <br /> BÀN LUẬN <br />  Bệnh  lý  rối  loạn  chuyển  hoá  ở  trẻ  sơ  sinh <br /> tuy là bệnh hiếm gặp, nhưng rất khó chẩn đoán <br /> ở giai đoạn đầu. Em bé sau sanh thường chưa có <br /> biểu hiện đặc biệt, và các thăm khám cũng như <br /> xét  nghiệm  cận  lâm  sàng  thường  cho  kết  quả <br /> bình  thường.  Việc  thận  trọng  ngay  từ  những <br /> bước đầu là rất quan trọng. Nuôi dưỡng bé hoàn <br /> toàn  bằng  đường  glucose  được  cho  là  khá  an <br /> toàn.  Trong  trường  hợp  ở  đây,  các  thăm  khám <br /> lâm sàng cũng như xét nghiệm đều cho kết quả <br /> gần như bình thường. Xét nghiệm khí máu động <br /> mạch  cũng  như  tính  toán  lượng  anion  GAP <br /> cũng  khá  tốt  trong  chẩn  đoán  bệnh  lý  rối  loạn <br /> chuyển hoá bẩm sinh. Khi các xét nghiệm trả về <br /> đều  bình  thường,  bé  đã  được  cho  bú  sữa  bình <br /> thường  kèm  dung  dịch  glucose  pha  điện  giải <br /> xen kẽ để đánh giá khả năng hấp thu sữa của bé. <br /> Việc thận trọng này rất cần thiết để hạn chế các <br /> <br /> 101<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013<br /> <br /> rủi ro có thể xảy ra cho bé nếu bé thật sự bị bệnh <br /> lý rối loạn chuyển hoá bẩm sinh. Sau khi cho ăn <br /> sữa  48  giờ  rồi  tạm  ngưng,  bé  được  cho  làm  lại <br /> các xét nghiệm tầm soát bệnh lý rối loạn chuyển <br /> hoá và đã cho kết quả dương tính với bệnh lý rối <br /> loạn  chuyển  hoá  galactose  kèm  khí  máu  động <br /> mạch có anion GAP tăng. Sở dĩ lần đầu tiên thử <br /> tầm soát 48 bệnh lý rối loạn chuyển hoá không <br /> cho  ra  kết  quả  dương  tính  với  bệnh  nào  vì  bé <br /> chưa  được  tiếp  xúc  với  thức  ăn  có  thành  phần <br /> không  chuyển  hoá  được.  Việc  thử  cho  bé  tiếp <br /> xúc  với  sữa  công  thức  là  cần  thiết  để  đánh  giá <br /> khả năng chuyển hoá các chất của bé. Tuy nhiên <br /> khi  cho  ăn  sữa  công  thức  bình  thường  cần  rất <br /> thận  trọng  và  cho  ăn  lượng  vừa  phải  và  phải <br /> dừng lại ngay khi có kết luận có bệnh lý rối loạn <br /> chuyển hoá. Có thể kiểm soát mức độ toan máu <br /> của  bé  thông  qua  xét  nghiệm  khí  máu  động <br /> mạch và kiểm tra thêm NH3/máu. Hiện tại bệnh <br /> lý  rối  loạn  chuyển  hoá  galactose  đã  được  biết <br /> đến và đã có loại sữa đặc biệt dành cho loại bệnh <br /> này là lacto‐free. Tuy nhiên việc nuôi dưỡng bé <br /> về  sau  cần  có  sự  tham  gia  của  các  chuyên  gia <br /> dinh dưỡng. <br /> <br /> ta  chưa  có  chương  trình  triển  khai  tầm  soát  48 <br /> loại bệnh lý rối loạn chuyển hoá bẩm sinh. Việc <br /> tầm soát tuy không quá phức tạp nhưng khá tốn <br /> kém và phải gửi mẫu ra nước ngoài, kết quả trả <br /> về thường chậm. Thông qua báo cáo trường hợp <br /> bệnh này nhằm gióng lên hồi chuông cảnh báo <br /> các bệnh lý rối loạn  chuyển  hoá  có  thể  có  ở  trẻ <br /> mà  thường  khi  tử  vong  tại  bệnh  viện  có  khoa <br /> phụ sản, được chẩn đoán là chết chưa rõ nguyên <br /> nhân. Rất mong chương trình tầm soát các bệnh <br /> lý  rối  loạn  chuyển  hoá  nặng  có  thể  được  triển <br /> khai và được thực hiện một cách rộng rãi cho tất <br /> cả các trẻ được sinh ra tại Việt Nam <br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO <br /> 1.<br /> 2.<br /> 3.<br /> <br /> 4.<br /> <br /> 5.<br /> <br /> KẾT LUẬN <br /> Phát  hiện  bệnh  lý  rối  loạn  chuyển  hoá <br /> galactose thật sự không quá khó, nhưng đòi hỏi <br /> sự cẩn thận và tầm soát tốt cũng như thận trọng <br /> trong điều trị. Hiện tại ở Việt Nam, gia đình có <br /> trẻ bị mắc phải bệnh lý này thường có tiền sử là <br /> có một hoặc vài trẻ bị tử vong trước đó vì chúng <br /> <br /> 6.<br /> <br /> 7.<br /> 8.<br /> <br /> Chase R. (2009). Galactosemia. Genome and Medicine. <br /> Elsas LJ. (2000). Galactosemia, GeneReviews. <br /> Gropper  SS, Weese  JO, West  PA, Gross  KC.  (2000).  Free <br /> galactose  content  of  fresh  fruits  and  strained  fruit  and <br /> vegetable  baby  foods:  more  foods  to  consider  for  the <br /> galactose‐restricted diet, 100(5):573‐5. <br /> Hirokawa  H, Okano  Y, Asada  M, Fujimoto  A, Suyama <br /> I, Isshiki  G.  (1999).  Molecular  basis  for  phenotypic <br /> heterogeneity  in  galactosaemia:  prediction  of  clinical <br /> phenotype  from  genotype  in  Japanese  patients.  Eur  J  Hum <br /> Genet; 7(7): 757‐64. <br /> Hunter <br /> M, Angelicheva <br /> D, Levy <br /> HL, Pueschel <br /> SM, Kalaydjieva  L.  (2001).  Novel  mutations  in  the  GALK1 <br /> gene  in  patients  with  galactokinase  deficiency. Hum <br /> Mutat. 17(1):77–8. <br /> Panis  B, Forget  PP, van  Kroonenburgh  MJ, Vermeer <br /> C, Menheere  PP, Nieman  FH, Rubio‐Gozalbo  ME.  (2004). <br /> Bone metabolism in galactosemia; 35(4): 982‐987. <br /> Sutton  VR,  Hahn  S,  TePa  E.  (2012).  Clinical  features  and <br /> diagnosis of galactosemia. <br /> Timson  DJ.  (2006).  The  Structural  and  Molecular  Biology  of <br /> Type III Galactosemia. IUBMB Life, 58(2): 83 – 89. <br /> <br />  <br /> <br /> 102 Hội Nghị Việt Pháp Châu Á Thái Bình Dương lần XII Ngày 16‐17 Tháng 5 Năm 2013 <br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2