intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

NHẬN THỨC KHOA HỌC 5

Chia sẻ: Thi Marc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

66
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khái niệm giai cấp vốn hết sức phức tạp, do đó, định nghĩa giai cấp của Lênin cũng phức tạp một cách tương ứng cả về nội dung lẫn hình thức cấu trúc của định nghĩa. Cách tiếp cận truyền thống định nghĩa này (bằng cách liệt kê 4 sự khác nhau với tư cách là bốn đặc trưng của giai cấp ở mệnh đề thứ nhất) là không thỏa đáng, là chưa lột tả được cả chiều rộng lẫn chiều sâu của tư duy...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: NHẬN THỨC KHOA HỌC 5

  1. tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định” 61. • Khái niệm giai cấp vốn hết sức phức tạp, do đó, định nghĩa giai cấp của Lênin cũng phức tạp một cách tương ứng cả về nội dung lẫn hình thức cấu trúc của định nghĩa. Cách tiếp cận truyền thống định nghĩa này (bằng cách liệt kê 4 sự khác nhau với tư cách là bốn đặc trưng của giai cấp ở mệnh đề thứ nhất) là không thỏa đáng, là chưa lột tả được cả chiều rộng lẫn chiều sâu của tư duy V.I.Lênin trong định nghĩa mang tính kinh điển này. Phân tích thấu đáo định nghĩa này của V.I.Lênin, chúng ta cần lưu ý một loạt khía cạnh phương pháp luận như sau: Thứ nhất, cần phân biệt đặc trưng về lượng với các đặc trưng về chất của giai cấp; Thứ hai, cần phân biệt đặc trưng tổng quát với các đặc trưng từng mặt quan hệ sản xuất ở mệnh đề thứ nhất; Thứ ba, cần phân biệt các đặc trưng về chất ở mệnh đề thứ nhất với mệnh đề thứ hai; Thứ tư, cần lưu ý cả hai đặc trưng về trình độ ý thức của giai cấp. Phân tích kỹ ta thấy: 61 V.I.Lênin, Toàn tập, T. 39, Tiến bộ, 1976, M., tr. 17-18. Page 340 of 487
  2. + Trước khi đề cập tới các đặc trưng về chất của giai cấp, ở cả hai mệnh đề, V.I.Lênin đều lưu ý trước tiên đặc trưng về lượng của giai cấp với tư cách là “những tập đoàn người”, “tập đoàn người to lớn” dù đó là giai cấp thiểu số hay đa số trong dân cư. Điều đó chứng tỏ vấn đề giai cấp cũng như vấn đề đấu tranh giai cấp là vấn đề lớn lao của đời sống xã hội, chứ không phải vấn đề của những nhóm nhỏ hay cá nhân. + Ở mệnh đề thứ nhất, chủ ý của V.I.Lênin tiếp cận vấn đề giai cấp trước hết từ lĩnh vực sản xuất kinh tế – đúng như tư tưởng cơ bản thứ nhất của C.Mác về giai cấp đã dạy: “Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất”62. Theo đó, đặc trưng tổng quát về chất của giai cấp là sự “khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử”, hoặc là thống trị, hoặc là bị trị (đương nhiên có thể có bộ phận nào đó đóng vai trò trung gian) trong kinh tế. Khái quát này của Lênin, thứ nhất, bác bỏ mọi cách giải thích duy tâm về giai cấp từ các nguồn gốc phi kinh tế; thứ hai, chỉ ra tính lịch sử cụ thể của giai cấp ở những điều kiện lịch sử cụ thể; thứ 62 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, T.28, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 662. Page 341 of 487
  3. ba, đòi hỏi xem xét giai cấp trong tính chỉnh thể phức tạp vốn có của “một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử”. Mặt khác, V.I.Lênin đã đi sâu cụ thể hóa đặc trưng tổng quát nói trên của giai cấp thành ba đặc trưng tương ứng với ba mặt cấu thành các quan hệ sản xuất. Đó là ba sự khác nhau: về quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất; về quan hệ tổ chức lao động xã hội; và về quan hệ phân phối. Hiển nhiên là sự khác nhau về quan hệ sở hữu tự nó có vai trò quyết định bản chất đối với hai mối quan hệ còn lại, cũng như quyết định cả địa vị các giai cấp trong một hệ thống sản xuất xã hội nói chung. Trong mệnh đề thứ nhất này, V.I.Lênin còn có hai lưu ý vừa tinh tế vừa sâu sắc đối với vấn đề sở hữu và phân phối. Thứ nhất, như Lênin vạch rõ, quan hệ sở hữu “thường đựơc pháp luật quy định và công nhận”. Điều đó chứng tỏ rằng các quan hệ giai cấp không tách rời quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng (kinh tế) với kiến thức thượng tầng (chính trị – pháp lý), bác bỏ mọi luận điệu cho rằng chính trị, nhà nước, pháp quyền “vô tư” đối với sở hữu khác nhau của mọi giai cấp. Page 342 of 487
  4. Thứ hai, trước khi nói tới sự khác nhau về “phần của cải xã hội ít hoặc nhiều” trong quan hệ phân phối, Lênin đã lưu ý đến sự “khác nhau về cách thứ hưởng thụ” của các giai cấp. Ai cũng biết cách thức hưởng thụ của giai cấp bóc lột thống trị xưa nay là hết sức xa hoa, lãng phí, thậm chí không tính nổi bằng tiền mà bằng bao xương máu của người lao động (ví dụ các kim tự tháp, các lăng tẩm của vua chúa). + Với mức độ khái quát sâu nhất và rộng nhất có thể có ở mệnh đề thứ hai, Lênin chỉ nêu hai đặc trưng cơ bản của giai cấp có quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau: Một là, “ tập đoàn này có thể tước đoạt lao động của tập đoàn khác”; Hai là, “các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”. Ở mệnh đề ngắn gọn và vô cùng súc tích này, Lênin đã thâu tóm cái bản chất sâu xa nhất, cốt lõi nhất, và cũng là phản nhân văn nhất của các quan hệ giai cấp đối kháng xưa nay - đó là vấn đề “chiếm đoạt lao động”. Chính chiếm đoạt lao động là đặc trưng bao trùm và chi phối tất cả các đặc trưng khác của giai cấp ở cả hai mệnh đề , và sâu xa hơn, nó cắt nghĩa cả nguồn gốc của giai cấp và của đấu tranh giai cấp. Hơn nữa, không phải đặc trưng nào ở mệnh đề thứ nhất về giai cấp cũng đồng nghĩa với xung đột, với đối kháng. Nhưng Page 343 of 487
  5. chừng nào và ở đâu còn chiếm đoạt lao động thì tất còn xung đột, còn đối kháng. Trong xã hội phân chia giai cấp, thực chất của quan hệ giai cấp là quan hệ xung đột đối kháng. Nếu hiểu khác đi là mơ hồ về giai cấp. Triết lý nổi tiếng của C.Mác và Ph.Angghen “tước đoạt kẻ đi tước đoạt” không chỉ đúng với quy luật phủ định của phủ định chi phối toàn bộ chu kỳ phát triển trọn vẹn của lịch sử loài người (sở hữu xã hội – sở hữu tư nhân – sở hữu xã hội trên hình thức cao hơn), mà còn hợp với cả đạo lý sống cơ bản nhất của loài người. Ơ đặc trưng còn lại của giai cấp trong mệnh đề thứ hai, V.I.Lênin đã gắn liền đặc trưng chiếm đoạt lao động không phải với “hệ thống sản xuất xã hội” (như định nghĩa thứ nhất) mà với cả “chế độ kinh tế xã hội” – nghĩa là với toàn bộ tòa nhà xã hội, cơ thể xã hội. Vì rằng, với nhiều lý do khác nhau, có những bộ phận xã hội chiếm đoạt lao động không phải do quan hệ sở hữu trong sản xuất kinh tế, mà do lợi dụng trực tiếp địa vị chính trị – xã hội. Đặc quyền đặc lợi của tầng lớp quý tộc dưới chính thể quân chủ – lập hiến là một ví dụ. Nạn hối lộ – tham nhũng xưa nay trong bộ máy nhà nước cũng là một ví dụ. + Ngoài các đặc trưng của giai cấp vốn mang tính vật chất đựơc khái quát trong hai mệnh đề trên, Lênin còn nhiều lần nói tới đặc trưng về trình độ ý thức của giai cấp: Một Page 344 of 487
  6. “giai cấp tự nó” hay “tự phát” là chưa ý thức đựơc lợi ích căn bản sống còn của mình. Còn một “giai cấp cho mình” hay “tự giác” là giai cấp đã trưởng thành tới mức ý thức được lợi ích căn bản – sống còn của mình. Chẳng hạn, trong quá trình đấu tranh chống phong kiến, giai cấp tư sản đã từng trải qua hai trình độ ý thức như vậy. Và đến lượt mình, trong quá trình đấu tranh chống CNTB và xây dựng CNXH, CNCS, giai cấp vô sản cũng không thể không trải qua hai trình độ tự phát và tự giác như vậy. Tóm lại, phân tích kỹ định nghĩa giai cấp của Lênin, chúng ta hiểu ra rằng quan hệ giai cấp thực chất và trước hết là những quan hệ sản xuất, là “những quan hệ cơ bản, ban đầu, quyết định” – như C.Mác tổng kết – đối với tất cả các quan hệ xã hội khác. Đương nhiên, không vì thế mà có thể giản đơn quy tất cả các quan hệ xã hội khác vào quan hệ giai cấp.  Câu 42: Phân tích nguồn gốc, kết cấu của giai cấp ? 1. Nguồn gốc giai cấp Page 345 of 487
  7. + Xã hội cộng sản nguyên thuỷ từng tồn tại hàng triệu năm, nhưng chưa hề có giai cấp. Có hai nguyên nhân kinh tế để giải thích khái quát sự thật này: Một là, trình độ lực lượng sản xuất nguyên thủy quá thô sơ, thấp kém; con người còn quá lệ thuộc vào thiên nhiên (các vùng cư trú); của cải làm ra chưa đảm bảo nuôi sống được mọi người. Hai là, do đó, các cộng đồng nguyên thủy (thị tộc, bộ lạc) buộc phải cố kết chặt chẽ để cưu mang nhau cùng tồn tại ở mức sống tối thiểu trong quan hệ sản xuất nguyên thủy – của chung, làm chung, hưởng chung, phân phối bình quân, tức là chưa có giai cấp. Rõ ràng một phương thức sản xuất thấp kém như vậy không thể gắn liền với phân chia giai cấp. Thậm chí trong thế giới văn minh ngày nay, vẫn còn sót lại đâu đó trên các châu lục (Á, Phi, Mỹ Latinh, Úc) những cộng đồng thổ dân (bộ lạc) chưa từng biết tới phân chia giai cấp. Vì thế, luận điểm cho rằng lịch sử loài người ngay từ đầu gắn liền với phân chia giai cấp là hoàn toàn vô căn cứ, phản khoa học, mưu toan biện hộ cho đặc quyền, đặc lợi của các giai cấp thiểu số bóc lột, áp bức, thống trị và nô dịch đa số. + Sự xuất hiện công cụ kim loại vào cuối thời nguyên thủy (cách đây 7 – 8 ngàn năm) thay thế dần công cụ bằng đá đã làm tăng vượt bậc năng suất lao động, lần đầu tiên tạo ra Page 346 of 487
  8. sản phẩm dư thừa tương đối cho xã hội. Đây là tiền đề vật chất - khách quan cho một thiểu số tước đoạt lao động của đa số, dẫn tới sự phân hóa xã hội thành giai cấp bóc lột và bị bóc lột đầu tiên trong lịch sử. Gắn liền và tác động cùng chiều với quá trình phức tạp này là ba cuộc phân công lao động lớn: Một là, chăn nuôi tách khỏi trồng trọt; Hai là, thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp; Ba là, thương nghiệp tách khỏi sản xuất. + Trong điều kiện ấy, sở hữu gia đình từng bước hình thành, và tỏ ra ưu việt hơn sở hữu công cộng nguyên thủy, và thay thế dần sở hữu lạc hậu này. Sự phân hóa giàu - nghèo trên nền tảng tư hữu như vậy là điều không tránh khỏi. + Trong điều kiện mới ấy của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, các tù binh bắt được trong chiến tranh không còn bị giết như trước nữa, mà được đem về làm nô lệ cho bên thắng trận. Cần hiểu rằng, đây là nhân tố hay con đường thứ hai có tác dụng bổ sung và đẩy nhanh quá trình phân hoá giai cấp vốn đã diễn ra tất yếu từ sự vận động, chuyển hóa và phát triển nội tại của phương thức sản xuất nguyên thủy vào thời kỳ tan rã của nó – với tư cách là con đường thứ nhất, chủ yếu dẫn tới phân hóa giai cấp. Nếu nhấn mạnh hoặc chỉ thừa nhận nguồn gốc phân hóa giai cấp từ nguyên nhân chiến tranh – bạo lực là xuyên tạc lịch sử, Page 347 of 487
  9. vô tình hay cố ý bênh vực cho kẻ mạnh mãi mãi bóc lột và áp bức kẻ yếu. Từ đó có thể khẳng định: sự xuất hiện chế độ tư hữu là nguyên nhân quyết định trực tiếp sự ra đời giai cấp. + Trong bối cảnh phân hóa giai cấp như vừa trình bày, đặc biệt những người đứng đầu các bộ lạc nguyên thủy đã lợi dụng địa vị thủ lĩnh của mình để chiếm đoạt nhiều nhất các sản phẩm dư thừa của cộng đồng – kể cả tù binh bắt được và trở thành chủ nô. Các chủ nô này cùng với quá trình phân hóa giàu – nghèo trên nền tảng chế độ tư hữu đã dần dần hình thành nên giai cấp bóc lột đầu tiên trong lịch sử là giai cấp chủ nô, đa phần người lao động rơi xuống tình trạng giai cấp nô lệ. Tóm lại, nguồn gốc giai cấp, xét đến cùng, là nguồn gốc kinh tế mang tính vật chất – khách quan, bắt nguồn từ một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất và tiếp đó gắn liền trực tiếp với chế độ tư hữu 2. Kết cấu giai cấp Trong xã hội có giai cấp, mỗi hình thái kinh tế – xã hội có một kết cấu giai cấp nhất định. Cơ sở kinh tế của kết cấu giai cấp là tổng thể các kiểu phương thức sản xuất cùng Page 348 of 487
  10. tồn tại trong hình thái kinh tế xã hội đương thời. Xét đến cùng, bản chất và tương quan của các giai cấp trong một kết cấu giai cấp bị quy định bởi bản chất và tương quan của các phương thức sản xuất đương thời. Ở trình độ phát triển chín muồi của một hình thái kinh tế – xã hội nhất định, kết cấu giai cấp thường bao gồm các giai cấp cơ bản và các giai cấp không cơ bản. Các giai cấp cơ bản gắn liền với kiểu phương thức sản xuất thống trị. Sự đối kháng và đấu tranh giữa các giai cấp đối kháng này phản ánh mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất sinh ra chúng, cũng như quy định một cách khách quan mâu thuẫn cơ bản của chế độ xã hội. Tương ứng với các kiểu phương thức sản xuất bóc lột từng thống trị trong lịch sử là các cặp giai cấp cơ bản như chủ nô – nô lệ, phong kiến – nông nô, tư sản – vô sản. Các giai cấp không cơ bản gắn liền với hoặc là các phương thức sản xuất tàn dư hoặc là phương thức sản xuất mới như là mầm mống của xã hội tương lai. Ví dụ, nô lệ và chủ nô còn lại trong thời kỳ đầu của xã hội phong kiến, vô sản và tư sản vừa mới ra đời trong thời kỳ đó. Page 349 of 487
  11. Ngoài ra, còn có tầng lớp trung gian (trước hết về kinh tế) không bóc lột ai và không bị ai bóc lột trong các chế độ bóc lột. Ví dụ, bình dân trong xã hội nô lệ, tiểu tư sản trong xã hội tư bản,… Trong xã hội có giai cấp, còn có tầng lớp trí thức làm việc và sống chủ yếu bằng lao động trí óc. Trí thức tồn tại và gắn liền với lợi ích nhiều giai cấp từ thống trị đến bị trị. Đại trí thức thường gắn liền với giai cấp thống trị đương thời; đa phần còn lại thường gắn liền với lợi ích của quảng đại quần chúng lao động. Vai trò của trí thức tăng lên không ngừng cùng với sự phát triển của khoa học và kỹ thuật – đặc biệt là trước bối cảnh cách mạng khoa học – công nghệ và kinh tế tri thức ngày nay. Song từ đó đi tới quan niệm về cái gọi là “giai cấp trí thức”, hơn nữa về “quyền thống trị xã hội của giai cấp trí thức”, là hoàn toàn sai lầm. Các biến đổi, chuyển hóa và phát triển sâu xa từ lĩnh vực lực lượng sản xuất sớm muộn sẽ kéo theo những biến đổi, chuyển hóa và phát triển của các quan hệ sản xuất cũng như của kết cấu giai cấp. Đặc biệt ở những giai đoạn có tính bước ngoặt về kinh tế và chính trị ở cả thời kỳ quá độ từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác, kết Page 350 of 487
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2