TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 26, 2005<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
NHỮNG BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG<br />
HÀNH TRÌNH THƠ HÀN MẶC TỬ<br />
Đặng Thị Ngọc Phượng<br />
Trường THCS Nguyễn Tri Phương,Huế<br />
<br />
"Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt <br />
qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình"<br />
(Chế Lan Viên)<br />
<br />
Có thể nói rằng từ năm 1932 đến năm 1945 là thời kỳ hoàng kim, thời kỳ ánh <br />
sáng của văn học Việt Nam nhất là trong lĩnh vực thi ca. Với một thời gian ngắn ngủi <br />
hơn 10 năm, thi ca Việt Nam đã làm trọn một chuyến đi kéo dài 100 năm của thi ca <br />
Pháp. Mặc dù ai cũng biết Thơ Mới đã chịu ảnh hưởng của phương Tây, nhất là <br />
nước Pháp rất nhiều.<br />
Các nhà thơ Việt Nam ở thời kỳ này mỗi người một phong cách đều tìm cho <br />
mình một mảnh vườn sáng tạo để gieo trồng và gặt lấy những hoa trái riêng. Song <br />
chỉ một mình Hàn Mặc Tử là hiện tượng duy nhất. Ở giai đoạn cổ điển, ông có Lệ <br />
Thanh thi tập, sang giai đoạn lãng mạn ông có Gái quê, đến tượng trưng và siêu <br />
thực ông có Đau thương và một phần Xuân như ý. Giai đoạn sau cùng, ông lại quay <br />
về cổ điển nhưng là tân cổ điển, ông có Thượng Thanh khí và Cẩm châu duyên. <br />
Có thể nói, thơ ông là một hành trình nghệ thuật khép kín giống như một vòng tròn. <br />
Cuối vòng tròn lại gặp điểm xuất phát nhưng nghệ thuật của ông ở giai đoạn tân cổ <br />
điển này có các chiều kích cao hơn, xa hơn, rộng hơn và sâu hơn.<br />
Cuộc sống của nhà thơ là một cuộc vật lộn suốt đời với bệnh tật hiểm <br />
nghèo, dai dẳng, bất phân thắng bại. Sự đau thương về bệnh tật đã đày đọa nhà thơ <br />
lên đến tột đỉnh, tưởng như tất cả nỗi khổ của thế gian hội tụ đầy đủ để trút ngập <br />
lên một thi mệnh thiên tài mỏng manh yếu ớt và yểu mệnh, nhưng cũng để từ đó <br />
chói sáng những vần thơ quằn quại đớn đau mà biểu tượng rực rỡ nhất là: Trăng, <br />
Hồn và Máu. <br />
Thơ của Hàn Mặc Tử đã và sẽ còn mãi mãi là nỗi ám ảnh sâu sắc đến người <br />
đọc nhiều thế hệ, bởi ma lực của "nghệ thuật ẩn dụ". Hình ảnh thơ độc đáo, ngôn <br />
từ vắt ra từ xương thịt máu huyết và tim óc đưa công chúng chiêm ngưỡng từ một <br />
49<br />
ngôi đền huyền bí đến một tòa thánh chói lòa siêu thực đầy những cảm giác đê mê và <br />
rùng rợn. Đây là một thế giới tâm linh ngổn ngang giống như một bản " Đại hợp <br />
xướng" có đủ các âm sắc cung bậc tạo nên một phong cách độc đáo. Đường nét kiến <br />
trúc trong thơ ông, tòa bảo tháp của thơ ông xây dựng bằng những khát vọng từ thân <br />
xác, trái tim, trí tuệ. Từ những cảm xúc vô thức sâu thẳm, tâm linh ông đã đạt đến <br />
đỉnh cao nhất của tự do sáng tạo, để lại cho đời những kiệt tác bất hủ. Người chưa <br />
hiểu ông, chưa hiểu thơ ông tưởng là ông điên. Nếu là ông điên thật thì đây là Người <br />
Điên phải được kính trọng. Một Người Điên Phi Thường.<br />
Biểu tượng Trăng, Hồn và Máu thường xuyên xuất hiện trong các tập thơ <br />
của ông nhất là Trăng mà ta luôn bắt gặp sự phóng chiếu của nó ở nhiều góc độ. <br />
Ông đã độc chiếm nàng Trăng của thế giới thi ca làm chất liệu không gì thay thế cho <br />
những cảm xúc sáng tạo nghệ thuật ở cấp độ cao nhất.<br />
Tất cả các nhà thơ từ cổ chí kim kể cả các nhà Thơ Mới ai chẳng dùng hình <br />
ảnh trăng là đối tượng miêu tả, biến nó thành thi hứng nhưng có lẽ nhiều nhất là <br />
Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử. Có điều trăng trong thơ Xuân Diệu chỉ là: "Trăng vừa đủ <br />
sáng để gây mơ", để mời gọi: "Hương đêm say dậy với trăng rằm" và trong những <br />
đêm "Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời", gợi cho thi nhân những hoài niệm "Tầm <br />
Dương" có "một vừng trăng trong vắt lòng sông", "lạnh lẽo suốt xương da". Ngay cả <br />
trong bài thơ Trăng mà đương thời Xuân Diệu rất tự hào coi đó là đỉnh cao của nghệ <br />
thuật tu từ mở đầu bằng hai câu:<br />
Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá<br />
Ánh sáng tuôn đầy các lối đi<br />
Hoặc: Bâng khuâng chân tiếc dậm lên vàng<br />
Tôi sợ đường trăng tiếng dậy vang <br />
cũng chỉ gây được một cảm giác bâng khuâng nhẹ nhàng cho người đọc. Hai câu thơ <br />
hay nhất của bài thơ này: "Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá! Hai người nhưng <br />
chẳng bớt bơ vơ" thì hiệu quả được đẩy lên cao hơn. Đúng là trăng trong thơ Xuân <br />
Diệu chỉ là "vừa đủ sáng" để sương gió "nương theo". Dù nó có "lạnh buốt", dù nó <br />
có "nhập vào dây cung nguyệt lạn" hoặc "Sao vàng lẻ một trăng riêng chiếc" để thi <br />
nhân có thể "Hớp bóng trăng đầy miệng nhỏ xinh xinh" nó cũng không gây được <br />
ngạc nhiên hoặc cảm giác mãnh liệt cho người đọc. Biểu tượng nàng Trăng của <br />
Xuân Diệu nặng về phong cách lãng mạn, trực tiếp miêu tả đối tượng để bày tỏ ý <br />
nghĩ nội tâm mang nhiều cảm xúc hơn là cảm giác.<br />
Ngược lại, vị giáo chủ của Thánh đường thơ Trăng Hàn Mặc Tử đưa chúng ta <br />
vào bầu trời đầy ấn tượng bằng "gợi cảm chứ không phải truyền cảm" [1, 215] với <br />
một trường liên tưởng kỳ diệu: lúc sợ sệt, lúc kinh ngạc và choáng ngợp mê man <br />
50<br />
trước những hình ảnh dị thường. Ngay từ giai đoạn đầu tiên mới làm thơ ở Lệ <br />
Thanh thi tập, Hàn Mặc Tử đã loé lên những tia sáng khác lạ khiến mọi người phải <br />
ngỡ ngàng:"Hé cửa nhìn trăng, trăng tái mặt" hay "Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối" <br />
và:<br />
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu<br />
Đợi gió đông về để lả lơi<br />
Hoa lá ngây tình không muốn động<br />
Lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi.<br />
(Bẽn lẽn)<br />
Ở đây, thi sĩ đã đưa bản năng rạo rực khát khao của mình ra ngoài vũ trụ và đã <br />
nhận thức mình là một bộ phận của nó. Hàn Mặc Tử đã xây dựng cho ông một thế <br />
giới thơ riêng khi ông hòa tan vào thiên nhiên vui buồn, đau khổ, cuồng nộ và bạo liệt <br />
như tính chất thất thường dữ dội của nó. "Ánh trăng mỏng quá che không nổi/ Những <br />
vẻ xanh xao của mặt hồ" (Huyền ảo), dường như vũ trụ bao la vẫn còn chật không <br />
đủ chỗ cho tiềm thức của ông du ngoạn, không che chở nổi những trống trải cô đơn <br />
ghê sợ của tâm linh. Sau này khi tiến xa hơn thì thơ ông hoàn toàn là một thế giới siêu <br />
thực mênh mông huyền ảo: "Sao bông phượng nở trong màu huyết /Nhỏ xuống lòng <br />
tôi những giọt châu" (Mật đắng) để đến nỗi "Tiếng hú hồn tôi xô vỡ sóng". Trong <br />
các nhà Thơ Mới chỉ mình ông đi liền một mạch từ lãng mạn đến siêu thực. Sống <br />
trong nghèo khổ bệnh tật, ông luôn phân thân, hoang tưởng mà tư duy nghệ thuật là <br />
một trường mộng mị dài dằng dặc đến cuối cuộc đời. Thơ ông là một thứ Kinh <br />
thánh thấm đẫm tinh thần tôn giáo, thăm thẳm lời cầu nguyện đến vĩnh hằng và <br />
thượng đế.<br />
Cuộc sống của ông là cuộc sống của Trăng: "Ngả nghiêng đồi cao bọc trăng <br />
ngủ /Đầy mình lốm đốm những hào quang" (Ngủ với trăng) với màu sắc Liêu trai <br />
lúc nào cũng "Lâng lâng mây khói quyện trăng đêm" để bay lên "Nguyệt thềm" cùng <br />
tôn giáo của riêng ông. Ông chứng kiến "Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu", chứng <br />
kiến sự hồi hộp khát khao của chị Hằng hay của chính mình: "Ô kìa bóng nguyệt <br />
trần truồng tắm/ Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe"(Bẽn lẽn) rồi cùng "Trăng xuân <br />
tràn trề say chới với" để lại cái ánh sáng ma quái ghê rợn "lờn lợt" như kim đâm nhoi <br />
nhói vào trái tim người đọc. Mối quan hệ đặc biệt giữa trăng và nhà thơ nhất là một <br />
người mang bệnh phong ác hiểm mà thời bấy giờ vô phương cứu chữa do trình độ y <br />
học hay đó là định mệnh đã đóng đinh lên số phận nghiệt ngã để chúng ta có một nhà <br />
thơ quái kiệt đau thương. "Người trăng ăn vận toàn trăng cả" dù đói nghèo, dù rách <br />
rưới, dù "Gió trăng sẵn có làm sao ăn?" kể cả nỗi khổ của sinh nhai tưởng chừng đã <br />
<br />
<br />
51<br />
lên tới đỉnh điểm nhưng sự nghèo đói của ông không phải là nghèo đói bình thường, <br />
nó là một thứ cao sang thanh khiết ở cõi tinh thần.<br />
"Trăng, ánh trăng đã để lại những cảm giác vật chất lên thân xác Hàn Mặc <br />
Tử" [1, 229]. Đúng vậy,cảm giác vật chất hữu cơ của ánh trăng đè nặng lên thân xác <br />
ông, cuộc đời ông, khác với Xuân Diệu khi nhà thơ này thi vị hóa nó thì ông trần tục <br />
hóa nó vì nó biết "Leo song sờ sẫm gối" nó"sóng soãi "lơi lả mơn trớn vuốt ve, nó <br />
trần truồng để "Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe", dù "mới lớn lên" nó đã biết "thẹn <br />
thò" và "thơm như tình ái". Vầng trăng của thơ ông mang tính hai mặt: vừa vật chất, <br />
vừa tinh thần, vừa trần tục lại vừa thiêng liêng."Hàn Mặc Tử đi trong trăng, há <br />
miệng cho máu tung ra làm biển cả, cho hồn văng ra, và rú lên những tiếng ghê <br />
người"[2, 204]. Ông không thể thoát ra khỏi sự ám ảnh ghê gớm của nó, lúc nó tối <br />
tăm, lúc nó chói lòa như hai mặt đối lập của Thiên đường và Địa ngục. Trong một <br />
"Không gian dầy đặc toàn trăng cả/Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng" (Huyền ảo), <br />
ông mặc quần áo bằng một thứ vải trăng, ông ăn trăng, ông uống trăng, ông nuốt <br />
trăng, ngậm trăng rồi giao hoan cùng nó, hóa thân vào nó: <br />
Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa<br />
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô<br />
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy<br />
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra<br />
(Say trăng)<br />
Trăng ở đây cũng chính là Hồn và Máu của thi nhân. Hàn Mặc Tử sống với <br />
những cơn đau triền miên khủng khiếp "sượng sần tê điếng", ''Tôi đau vì rùng rợn <br />
đến vô biên", không ai chia sẻ một nỗi đau bệnh hoạn và cô độc kể cả Thượng đế. <br />
Nhiều lúc nhà thơ muốn: "Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm/Cho trăng ngập đần <br />
lên tới ngực" (Hồn là ai). Thơ ông là những dòng đầy máu lệ, đầy tiếng thác gào của <br />
một cơn thác nước mắt trong suốt tuôn vào gió bụi. Bệnh tật đã khiến cơ thể ông <br />
hao mòn suy nhược nhưng ngược lại nó cũng khơi ngòi cho ông một nguồn cảm <br />
hứng sáng tạo vô biên. Ở ông, đau thương đồng nghĩa với sáng tạo. Ông dùng nó làm <br />
một phương tiện cứu rỗi, ông đưa nó lên cung bậc cao nhất của nghệ thuật:<br />
Cứ để ta ngất ngư trên vũng huyết <br />
Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh<br />
Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết<br />
Cả lòng ta trong mớ chữ rung rinh.<br />
(Rướm máu)<br />
Ngôn từ ông sử dụng nằm cạnh nhau đã đẩy giá trị của chúng thành châu <br />
ngọc vô giá. Hồn và Máu trong thơ ông đã thăng hoa thành hương thơm nghi ngút <br />
52<br />
linh thiêng kết tụ ở tập Đau thương như là một tập thơ hay nhất trong sự nghiệp <br />
của ông. Cái ước nguyện sáng tạo của ông dữ dội và mãnh liệt: "Ta muốn hồn trào <br />
ra đầu ngọn bút/Mỗi lời thơ đều dính não cân ta/ Bao nét chữ quay cuồng như máu <br />
vọt/Như mê man tê điếng cả làn da" (Rướm máu). Có vẻ như bệnh hoạn, có vẻ như <br />
điên rồ, nhà thơ tràn đầy khoái cảm đến cực độ khi thấy máu mình chảy, tim óc mình <br />
vỡ văng ra khỏi cơ thể để đau thương được tan vào vũ trụ và tinh tú nhật nguyệt <br />
đều chiếu lên không trung cái màu đỏ ghê sợ ấy: "Bao giờ mặt nhật tan thành máu" <br />
để "khối lòng", "niềm yêu", "ý nhớ" cũng "Hoá thành vũng máu đào trong ác lặn" <br />
giữa một vùng không gian bao la toàn máu!<br />
Càng về cuối đời, thơ ông càng tha thiết, thanh thoát, an nhiên, chấp nhận, <br />
không còn chất gào thét điên cuồng dữ dội như đã trút hết cơn "lâm lụy" nơi trần thế, <br />
dọn sạch mình để chuẩn bị đi vào cõi vĩnh hằng viên mãn một vườn Xuân như ý, <br />
Cầu nguyện để lại "ra đời" làm một Á Thánh cưỡi "Phượng hoàng bay trong một <br />
tối trăng sao" (Đêm xuân cầu nguyện), tận hưởng phúc lạc của Mùa xuân hôn <br />
phối:<br />
Như song lộc triều nguyên ơn phước cả<br />
Dâng cao dâng thần nhạc sáng hơn trăng<br />
Thơm tho bay cho đến cõi Thiên Đàng<br />
(Thánh nữ đồng trinh Maria)<br />
rồi "cảm động rưng rưng hai hàng lệ" vì biết ơn đấng tối cao, Đức mẹ và "các vị <br />
rất thánh" đã "giàu đức, giàu muôn hộc từ bi" để nhà thơ vui vẻ "hớp bao nhiêu khí <br />
vị" bởi "Trong miệng ngậm câu ca thần bí /Và trong tay nắm một nạm hào quang/Tôi <br />
no rồi, ơn võ lộ hòa chan" (Thánh nữ đồng trinh Maria). Thi nhân đã coi mình là <br />
một "Thánh thể kết tinh" đã tìm thấy nơi mình đến nên ông đã thành kính "Cho tôi <br />
thắp hai hàng cây bạch lạp/Khói nghiêm trang sẽ dâng lên tràn ngập/Cả hàn gian, cả <br />
màu sắc thiên không" rồi "đê mê nguyền ước":<br />
Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước<br />
Cho tình tôi nguyên vẹn tợ trăng rằm<br />
Thơ trong trắng như một khối băng tâm<br />
Luôn luôn reo trong hồn, trong mạch máu<br />
(Thánh nữ đồng trinh Maria)<br />
Như vậy, Trăng, Hồn và Máu đã trở thành biểu tượng nghệ thuật bất biến, <br />
thường trực và xuyên suốt trong thơ Hàn Mặc Tử. Từ lúc bắt đầu làm thơ cho đến <br />
những ngày cuối đời ông, biểu tượng này đã theo ông bay lên "Trên thiên triều ngời <br />
chói vạn hào quang".<br />
<br />
<br />
53<br />
Trong cuộc đời 28 năm ngắn ngủi, chỉ 12 năm đi với nàng thơ nhưng Hàn <br />
Mặc Tử đã đưa được nàng thơ lên đến tuyệt đỉnh của nghệ thuật. So với những thi sĩ <br />
cùng thời, ông đã trở thành ngọn núi khổng lồ cao sừng sững trên bầu trời rực rỡ của <br />
thi ca và để lại cho đời những kiệt tác rung động lòng người. Tiếc thay! Tài cao <br />
không sống lâu! Nhưng sống như ông, sáng tạo như ông thì chỉ có ông mới có một sự <br />
nghiệp phi thường để hậu thế muôn đời sau luôn kinh ngạc, ngưỡng mộ và kính <br />
phục. Hàn Mặc Tử chính là niềm tự hào của nền văn học Việt Nam một Thánh Thi <br />
với cái tên là Bất Tử chói sáng hào quang trên bảng Phong Trần.<br />
<br />
<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Đỗ Lai Thúy. Mắt thơ, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội (2000).<br />
2. Hoài Thanh, Hoài Chân. Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội (TB 2000).<br />
3. Lại Nguyên Ân (tập hợp và biên soạn). Thơ Mới 1932 1945 tác giả và tác phẩm, <br />
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội (1998).<br />
<br />
<br />
THE ARTISTIC SYMBOLS IN THE JOURNEY <br />
OF POEMS OF HAN MAC TU<br />
Dang Thi Ngoc Phuong <br />
The Secondary School of Nguyen Tri Phuong, Hue<br />
<br />
SUMMARY<br />
<br />
While fighting against the serious disease which caused painful impacts upon his short <br />
but talented poetic fate,Han Mac Tu wrote dazzling painful poems with the most glorious <br />
artistic symbols: Moon, Soul and Blood that profoundly obsess the readers. The disease eroded <br />
his body but at the same time created endless inspiration for him. To him, pain meant creativity.<br />
Moon, Soul and Blood were the permanent and unchangeable artistic symbols of Han <br />
Mac Tu's poems. From the day, he wrote the first poems till the end of his life, the symbols flew <br />
with him up to the peak of art.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
54<br />