intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Những đặc điểm kinh tế cơ bản và địa vị lịch sử của chủ nghĩa tư bản độc quyền

Chia sẻ: Pham Quang Hai | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:11

472
lượt xem
59
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Những đặc điểm kinh tế cơ bản và địa vị lịch sử của chủ nghĩa tư bản độc quyền có những biểu hiện mới sau: Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền, địa vị lịch sử của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Để hiểu rõ hơn mời các bạn cùng tham khảo tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Những đặc điểm kinh tế cơ bản và địa vị lịch sử của chủ nghĩa tư bản độc quyền

  1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ CƠ BẢN  VÀ ĐỊA VỊ LỊCH SỬ CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn tự do cạnh tranh, C.Mác, Ăng ghen   đã chỉ ra rằng: tự do cạnh tranh đẻ ra tích tụ và tập trung sản xuất và sự tập trung sản   xuất phát triển tới một mức độ nhất định lại dẫn tới độc quyền. Sống   trong   thời   kỳ   chủ   nghĩa   tư   bản   độc   quyền,   vận   dụng  sáng   tạo   những   nguyên lý của chủ  nghĩa Mác vào điều kiện lịch sử  lúc mới, V.I.Lênin đã chứng minh  rằng, chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn mới – giai đoạn độc quyền (chủ nghĩa  đế  quốc). Đồng thời, Người đã phân tích rõ những đặc điểm kinh tế  cơ  bản của chủ  nghĩa tư bản độc quyền. Tuy nhiên, trải qua gần một thế kỷ qua, dưới sự tác động của   cách mạng khoa học – công nghệ  đã làm cho những đặc điểm đó có những biểu hiện  mới. I. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ CƠ  BẢN CỦA CHỦ  NGHĨA TƯ  BẢN ĐỘC  QUYỀN 1. Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền a) Tập trung sản xuất. Tập trung sản xuất là tăng thêm quy mô của sản xuất bằng cách kết hợp nhiều xí  nghiệp nhỏ thành xí nghiệp lớn.  Tập trung sản xuất là vấn đề  có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn.   Nhưng chỉ đến cuối thế kỷ XIX thì quá trình tập trung sản xuất ở các nước tư bản chủ  nghĩa mới diễn ra mạnh mẽ. Đó là do các nguyên chủ  yếu sau: một là, do sự  tiến bộ  của khoa học kỹ  thuật, một mặt đòi hỏi phải có sự  tích tụ  và tập trung tư  bản, mặt   khác đã thúc đẩy sản xuất phát triển tạo ra năng xuất lao động cao nên bóc lột được  nhiều giá trị thặng dư, dẫn đến tích luỹ  tư bản tăng, do đó tích tụ  và tập trung tư  bản   tăng; hai là, sản xuất phát triển làm cho cạnh tranh tự do diễn ra mạnh mẽ thúc đẩy quá  trình tập trung sản xuất tăng lên; ba là, do tác động của khủng hoảng kinh tế trong các  nước tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là các cuộc khủng hoảng 1873, 1900 – 1913 góp phần   đẩy nhanh quá trình tập trung sản xuất; bốn là, do sự ra đời của hệ  thống tín dụng tư  bản chủ nghĩa đã góp phần thúc đẩy tích tụ, tập trung tư bản, do đó tạo điều kiện cho  tập trung sản xuất tăng nhanh.    Do sự  tác động của các nguyên nhân trên làm cho quá trình tập trung sản xuất   diễn ra mạnh mẽ. Đến lượt nó sự tập trung sản xuất tới mức độ  nhất định sẽ  dẫn tới   độc quyền. Bởi vì, một mặt, quy mô to lớn của các xí nghiệp làm cho cạnh tranh trở lên   gay gắt hơn, từ  đó nảy sinh khuynh hướng thoả  hiệp, liên minh với nhau làm cho số  lượng xí nghiệp trong mỗi ngành ít đi; mặt khác, do trong mỗi ngành chỉ còn lại một số  ít các xí nghiệp lớn nên chúng có thể dễ dàng thoả thuận với nhau để độc quyền về giá  mua, giá bán, thị trường. Từ đó hình thành nên các tổ chức độc quyền. b) Tổ chức độc quyền Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa những nhà tư bản dưới những hình  thức khác nhau, nắm phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ  một số  loại hàng hoá nào đó,  nhằm mục đích thu lợi nhuận độc quyền cao.
  2. Như  vậy, đến giai đoạn đế  quốc chủ  nghĩa, độc quyền là cơ  sở, tế  bào kinh tế  của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Độc quyền tồn tại dưới nhiều hình thức   khác nhau, từ thấp đến cao, từ lưu thông đến sản xuất, từ một ngành đến nhiều ngành. Các ten là hình thức đầu tiên của độc quyền. Các nhà tư  bản tham gia các ten   chỉ  liên minh và ký kết hiệp định để  thoả  thuận với nhau về  giá cả, về  kỳ  hạn trả  tiền, về  phân chia thị  trường  tiêu thụ  và về  khối lượng  hàng hoá bán ra trên thị  trường, vì vậy họ vẫn độc lập về sản xuất và thươ ng nghiệp. Xanhđica là hình thức tổ chức độc quyền cao hơn,  ổn định hơn cácten. Những   người tham gia xanhđica vẫn độc lập về  sản xuất, nhưng việc mua bán hàng hoá do  một ban quản trị chung c ủa xanhđica đảm nhiệm. Tờ  rớt   là hình thức  tổ  ch ức  độc quyền cao hơn xanhđica, nó thực  chất là  công ty cổ  ph ần, vì vậy, ngườ i tham gia t ờr ớt m ất độ c lập về  sản xuất và thươ ng  nghiệp, h ọ tr ở thành cổ đông và thu lợi tức cổ ph ần. Còn toàn bộ quá trình sản xuất   và tiêu thụ sản ph ẩm do m ột ban qu ản tr ị chung th ống nh ất điề u hành. Côngxoócxiom là hình thức tổ  chức độc quyền đa ngành thườ ng tồn tại dướ i   dạng một hiệp định ký kết giữa một số  ngân hàng hoặc công ty công nghiệp để  cùng nhau tiến hành các nghiệp vụ  tài chính lớn do một tập  đoàn tài chính điề u  hành và khống chế.  Với các hình thức tổ  chức độc quyền trên, độ c quyền đi vào mọ i ngành, mọi   lĩnh vực sản xu ất kinh doanh. Nó nắm hầu hết các mạch máu kinh tế  nên có sức   mạnh rất to lớn. Nh ờ  n ắm  đượ c địa vị  thống trị  trong lĩnh vực sản xuất và lưu   thông, các tổ  chức độc quyền có khả  năng định ra giá cả  độ c quyề n, qua đó thu lợi  nhuận độc quyền. Vì vậy, trong giai đoạn chủ  nghĩa tư  bản độ c quyền, quy lu ật   giá trị biểu hi ện thành quy luật giá cả độc quyền, còn quy luật giá trị thặng dư biểu  hiện thành quy luật l ợi nhuận độc quyền. Độ c quyền ra đời từ  cạnh tranh, đố i lậ p  với cạnh tranh, nh ưng v ẫn không thủ  tiêu đượ c cạnh tranh t ự  do, trái lại còn làm  cho cạnh tranh thêm gay gắt. Trong giai đoạn độc quyền còn có các loại cạnh tranh   sau: ­ Cạnh tranh gi ữa các tổ  chức độc quyền với các xí nghiệp ngoài độ c quyề n   bằng rất nhiều th ủ  đoạn khác nhau như: tìm mọi cách để  độ c quyề n về  nguyên  liệu, lao động, phươ ng tiện giao thông, tín dụng, thị  tr ườ ng tiêu thụ, giá cả; dùng  các biện pháp ám sát kỹ sư, chuyên gia giỏi, ăn cắp kỹ thuật và bí quyết công nghệ. ­ Cạnh tranh gi ữa các tổ chức độc quyền với nhau. ­ Cạnh tranh gi ữa các xí nghiệp, công ty trong n ội bộ độ c quyền. Như  vậy, độc quyền sinh ra t ừ  c ạnh tranh,  đối lập với cạnh tranh, nh ưng  không thủ  tiêu đượ c cạnh tranh, trái lại còn làm cho cạnh tranh thêm gay gắt, tạo   một cơ chế hỗn h ợp gi ữa độ c quyền và cạnh tranh. c) Biểu hiện m ới c ủa độc quyền Kể  từ  sau chi ến tranh th ế gi ới l ần th ứ hai, độ c quyền đã có những biểu hiện   mới cả về hình thức, cơ cấu và cơ chế. Về  hình thức: do sự  phát triển của lực lượ ng sản xu ất và sự  tác đọ ng của  cách mạng khoa học ­ công nghệ, đã diễn ra quá trình hình thành sự  liên kết giữa   các độc quyền theo c ả  hai chi ều: d ọc và ngang  ở  cả  trong và ngoài nướ c. Từ  đó  
  3. dẫn   đến   sự   ra   đời   những   hình   thức   tổ   chức   độ c   quyề n   mới.   Đó   là   các  consơn(concern) và các côngơlômêrết (conglomerate). ­ Consơn: là tổ  chức độc quyền đa ngành và thành phần của nó có hàng trăm xí  nghiệp có quan hệ  với các ngành khác nhau và được phân bố   ở  nhiều nước. Trong số  500 công ty lớn nhất của mỹ hiện nay có tới 94% là loại consơn so với 49% năm 1949.   Nguyên nhân chủ  yếu dẫn đến độc quyền đa ngành là do: Một mặt, trong điều kiện   cạnh tranh gay gắt giữa các tổ chức độc quyền thì việc kinh doanh chuyên môn hoá hẹp  dễ bị phá sản; trái lại việc kinh doanh tổng hợp tạo điều kiện di chuyển vốn vào những   lĩnh vực có lợi nhuận cao, lấy lãi ở ngành hàng này bù cho những ngành hàng khác gặp  khó khăn. Mặt khác, do tác động của cách mạng khoa học ­ công nghệ  ngày càng làm  cho tư  bản cố  định bị  hao mòn nhanh, một số  ngành nhanh chóng trở  nên lạc hậu. Do  vậy, trong khi chưa giải toả được những ngành lạc hậu, để tồn tại vẫn phải phát triển  thêm những ngành mới, từ  đó làm cho cơ  cấu của tập đoàn phình to ra và bao gồm  nhiều ngành khác nhau.  Conglomerate: là hình thức tổ chức độc quyền xuất hiện từ những năm 1960. Đó  là sự kết hợp của vài ba chục hàng vừa và nhỏ không có bất kỳ sự liên quan nào về sản   xuất hoặc dịch vụ  cho sản xuất. Mục đích chủ  yếu của các côngơlômêrết là chiếm  đoạt lợi nhuận bằng kinh doanh chứng khoán. Về  cơ  cấu: cũng do sự  tác động của cách mạng khoa học ­ công nghệ, cơ  cấu  độc quyền có sự  thay đổi. Đó là sự  liên kết của các hãng vừa và nhỏ  với các hãng   lớn trong một tổ chức độc quyền. Chẳng hạn, vào những năm 1990, số  hãng vừa và   nhỏ chiếm hơn 90% tổng s ố hãng có đăng ký ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển   và ngày càng có vai trò quan trọng trong n ền kinh t ế. Về cơ  chế: cơ chế độc quyền ngày càng bị  chi phối bởi cơ chế  thị trường cạnh   tranh và cơ  chế  điều tiết của chủ  nghĩa tư  bản độc quyền nhà nước. Bằng các chính   sách điều tiết đã làm giảm hiệu lực của cơ chế độc quyền, buộc nó phải tuân thủ  cơ  chế  cạnh tranh. Tuy nhiên, đối với các độc quyền xuyên quốc gia thì cơ  chế  này trong   chừng mực vẫn còn phát huy tác dụng. Độc quyền cũng xuất hiện ở cả những nước đang phát triển. Đó là kết quả  của  quá trình quốc tế  hoá được đẩy mạnh với sự  thâm nhập mạnh mẽ  của công ty xuyên  quốc gia vào các nước này, sự   ứng dụng những thành tựu của cách mạng khoa học ­   công nghệ  hiện đại, sự  hỗ  trợ  của nhà nước khiến cho năng lực sản xuất kinh doanh  của một số doanh nghiệp tăng lên, trở thành những tổ chức độc quyền. 2. Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính a) Độc quyền ngân hàng và vai trò mới của ngân hàng Cùng với sự  xuất hiện của độc quyền trong công nghiệp là sự  ra đời của độc   quyền trong ngân hàng. Độc quyền ngân hàng xuất hiện là do sự  tác động của các  nguyên nhân chủ yếu sau:  Một là, khi độc quyền công nghiệp xuất hiện, nó cần phải có một số vốn rất lớn   để kinh doanh, đồng thời khối lượng tiền tệ đem gửi cũng rất lớn, do đó các ngân hàng   nhỏ  không đủ  khả  năng đáp  ứng nhu cầu nhận gửi và cho vay của độc quyền công  nghiệp. Vì vậy, quá trình tập trung sản xuất trong lĩnh vực ngân hàng cũng diễn ra. Hai là, do sự tác động của cạnh tranh khốc liệt trong lĩnh vực ngân hàng đã dẫn   đến kết quả là các ngân hàng lớn thôn tính các ngân hàng nhỏ, hoặc biến các ngân hàng 
  4. nhỏ thành chi nhánh của các ngân hàng lớn. Từ các ngân hàng lớn lại liên kết với nhau   thành những ngân hàng lớn hơn và theo đó là sự hình thành nên các tổ  chức độc quyền   trong ngân hàng. Độc quyền ngân hàng là sự  liên minh của các tư  bản ngân hàng nhằm chi phối,   khống chế các nghiệp vụ ngân hàng để thu lợi nhuận độc quyền cao. Khi độc quyền ngân  hàng ra đời, vai trò của ngân hàng có sự thay đổi. Từ chỗ, trước đây chỉ đóng vai trò trung   gian giữa người đi vay và người cho vay, phụ thuộc vào tư bản công nghiệp. Đến nay, độc  quyền ngân hàng trở thành kẻ có quyền lực vạn năng, có thể kiểm soát chi phối và quyết   định số phận của tư bản công ­ thương nghiệp, quan hệ gắn bó chặt chẽ với tư bản công   nghiệp thông qua việc thâm nhập lẫn nhau giữa độc quyền ngân hàng và độc quyền công  nghiệp. Sự thâm nhập này được tiến hành bằng hai cách. ­ Độc quyền ngân hàng bỏ  tiền ra mua cổ  phiếu phát hành của các tổ  chức độc  quyền công nghiệp và ngược lại độc quyền công nghiệp cũng bỏ tiền ra mua cổ phiếu   của độc quyền ngân hàng để đưa người vào các ban quản trị của nhau. ­ Độc quyền ngân hàng thành lập các xí nghiệp công nghiệp, ngược  lại  độc   quyền công nghiệp cũng tự  thành lập các ngân hàng riêng. Kết quả  của sự  thâm nhập  vào nhau đó đã dẫn tới sự ra đời của loại tư bản mới về chất ­ đó là tư bản tài chính. b) Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính Tư  bản chính là kết quả  của sự  hợp nhất giữa tư bản ngân hàng của một số  ít  ngân hàng độc quyền lớn nhất với tư bản của những liên minh độc quyền các nhà công   nghiệp.   Tư  bản tài chính là một loại tư  bản mới về  chất riêng có của giai đoạn chủ  nghĩa tư bản độc quyền, nó phản ánh trình độ phát triển cao của chủ nghĩa tư bản độc   quyền; đồng thời tư bản tài chính không tồn tại dưới hình thức riêng lẻ, kinh doanh đơn  ngành, mà tồn tại trên cơ sở các tập đoàn tài chính kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực. Ví   dụ: Mỹ có khoảng 26 tập đoàn tài chính; Pháp 9; Nhật và Đức 6.  Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc  quyền chi phối tuyệt đại bộ phận của cải của xã hội, thống trị toàn bộ đời sống kinh tế  và chính trị của các nước tư bản gọi là bọn đầu sỏ tài chính hay còn gọi là bọn tài  phiệt. Về kinh tế, bọn đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình thông qua chế độ  tham dự. Tức là tư bản tài chính thông qua việc dùng cổ phiếu khống chế để  chi phối   xâu chuỗi các công ty từ một công ty gốc( công ty mẹ).  Thực chất của chế  độ  tham dự  là các tập đoàn tài chính mà đứng đầu là bọn   đầu sỏ  tài chính thông qua ngân hàng khống chế  để  mua cổ  phiếu khống chế  của   một công ty lớn nhất với t ư cách là công ty gốc hay là “công ty mẹ”; công ty gốc này  lại mua cổ  phiếu khống chế  để  thống trị  công ty khác gọi là “công ty con”; công ty  con đến lượt nó cũng bằng phương pháp như  thế  lại chi phối “công ty cháu”…cứ  như thế  từ một công ty gốc, tập đoàn tài chính đã thống trị xâu chuỗi đượ c các công   ty trong phạm vi toàn bộ  nền kinh tế. Nhờ  có chế  độ  tham dự  và phương pháp tổ  chức tập đoàn theo kiểu móc xích như vậy, bằng một lượng tư  bản đầu tư  nhỏ, tư  bản tài chính có thể khống chế và điều tiết một lượng tư bản lớn g ấp nhiều l ần. Ngoài phương thức trên, bọn đầu sỏ tài chính còn sử dụng các thủ đoạn khác  để thống trị như: chế độ uỷ nhiệm; lập công ty mới; phát hành trái khoán; kinh 
  5. doanh công trái; đầu tư chứng khoán ở sở giao dịch, đầu cơ ruộng đất… để thu lợi  nhuận độc quyền cao. Về mặt chính trị, bọn đầu sỏ tài chính chi phối mọi hoạt động của các cơ quan   nhà nước cả  về  đường lối đối nội và đường lối đố i ngoại biến nhà nước trở  thành  công cụ phục vụ cho chúng. Dưới sự thống trị của bọn tài phiệt đã làm nảy sinh chủ  nghĩa phát xít, chủ  nghĩa quân phiệt và nhiều thứ  chủ  nghĩa phản động khác, cùng   chạy đua vũ trang gây chiến tranh xâm lược để  áp bức, bóc lột các nước đang phát  triển.  c) Biểu hi ện m ới c ủa t ư b ản tài chính Do sự  phát triển mạnh mẽ  c ủa cách mạng khoa h ọc­ công nghệ, trong n ền   kinh tế các nướ c tư  bản chủ  nghĩa đã xuất hiện nhiều ngành kinh tế  mới, đặ c biệ t   là những ngànhthuộc lĩnh vực dịch vụ, bảo hi ểm. Thích  ứng với sự  biến đổ i đó,  hình thứctổ  chức và cơ  chế  thống tr ị  của t ư  b ản tài chính đã có sự  thay đổ i. Phạ m  vi liên kết và thâm nhập vào nhau đượ c mở rộng ra nhi ều ngành, do đó các tập đoàn   tư  bản tài chính thườ ng tồn t ại d ưới d ạng m ột t ổ  h ợp đa dạng kiểu công ­ nông ­   thươ ng ­ tín ­ dịch v ụ hay công nghiệp ­ quân sự ­ dịch v ụ quốc phòng. Sự thống tr ị đa ngành đã biến các tập đoàn tư bản tài chính gia đình trướ c đây  thành các tập đoàn tài chính theo địa phươ ng và vùng lãnh thổ  như: tập đoàn tài  chính   vùng   Đông­Bắc;   vùng   Trung­Tây(Mỹ)   vùng   Kansai(Nh ật),   vùng  Hămbua(Đức)... Để  vươ n ra thị  tr ườ ng th ế  gi ới và thích  ứng với xu thế  toàn cầu hoá kinh tế ,  các tập đoàn tư  bản tài chínhđã thành lập các ngân hàng đa quốc gia và xuyên quốc  gia nhằm điều tiết các concern và thâm nhập vào nền kinh tế  các quốc gia khác. Sự  ra đời các trung tâm tài chính thế  gi ới thu ộc các nướ c tư  bản phát triển như  Mỹ,  Nhật, Đức, Anh, Pháp... và ở  các nướ c công nghiệp mới Hàn Quốc, Singapo...là kế t   quả hoạt động của các tập đoàn tài chính quốc tế. Ngày nay tư  bản tài chính không  chỉ  có vai trò to lớn trong nền kinh t ế  th ế  gi ới mà còn thao túng cả  lĩnh vực chính  trị, vấn đề chiến tranh­hoà bình, môi trườ ng sinh thái.    3. Xuất khẩu tư bản a) Bản chất và nguyên nhân của xuất khẩu tư bản Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị hay đưa “tư bản thừa” của các tổ chức độc   quyền hay của nhà nước tư sản ra nước ngoài nhằm mục đích bóc lột giá trị  thặng dư  và các nguồn lợi khác ở nước nhập khẩu tư bản. Tư bản “thừa”  ở đây là thừa “tương đối”, nghĩa là không phải thừa so với nhu   cầu phát triển chung của nền kinh tế trong n ước, mà là thừa do các lĩnh vực đầu tư  trong nước không thể mang lại lợi nhuận cao cho các chủ  đầu tư tư  bản, nên cần có  nơi đầu tư để đem lại lợi nhuận cao hơn. Đặc điểm điển hình của chủ  nghĩa tư  bản tư do cạnh tranh là xuất khẩu hàng   hoá, còn đặc điểm điển hình của chủ  nghĩa tư  bản độc quyền là xuất khẩu tư  bản.   Do vậy, xuất khẩu tư  bản khác về  chất so với với xuất khẩu hàng hoá. Xuất khẩu  tư  bản là nhằm mục đích bóc lột giá trị  thặng dư, là sự  “ăn bám bình phương”; còn  xuất khẩu hàng hoá là nhằm thực hiện giá trị và giá trị  thặng dư đã đượ c sản xuất ở  trong nước.
  6. Vào cuối thế  kỷ  XIX đầu thế  kỷ  XX, xuất khẩu tư bản trở thành phổ  biến  ở  các nước tư bản là do các nguyên nhân cơ bản sau đây:  Một là, do ở một số nước tư bản độc quyền đã tích luỹ được một khối lượng tư  bản kếch sù dẫn đến hiện tượng “thừa” tư  bản do không tìm được nơi đầu tư  có tỷ  xuất lợi nhuận cao trong nước. Hai là, do một số nước kinh tế kém phát triển bị lôi cuốn vào sự giao lưu kinh tế  quốc tế, nhưng lại rất thiếu tư bản. Đồng thời, ở các nước này giá ruộng đất, nguyên  liệu, nhân công lại tương đối rẻ nên có tỷ suất lợi nhuận cao.  b) Các hình thức xuất khẩu tư bản và hậu quả của nó Xuất khẩu tư  bản tồn tại dưới rất nhiều hình thức, tuy theo góc độ  xem xét, có  thể phân chia xuất khẩu tư bản thành các loại hình chủ yếu sau: + Xét về cách thức đầu tư, có đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.  ­ Đầu tư  trực tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản để  xây dựng những xí nghiệp  mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư, biến nó thành   công ty con của công ty mẹ, các xí nghiệp mới được hình thành thường tồn tại dưới   dạng  hỗn  hợp   song  phương   hoặc  đa  phương,  hoặc  doanh   nghiệp  100%  vốn  nước   ngoài. ­ Đầu tư  gián tiếp là hình thức xuất khẩu tư  bản dưới dạng cho vay t ư  b ản   tiền tệ để thu lãi. Thông qua các ngân hàng tư nhân hoặc các trung tâm tín dụng quốc   gia và quốc tế. Ngày nay, hình thức này còn đượ c thực hiện bằng hình thức muc trái  khoán hay cổ phiếu của các công ty ở nước nhập khẩu tư bản.   Xét theo chủ sở hữu có xuất khẩu tư bản nhà nước và xuất khẩu tư bản tư nhân.   Xuất khẩu tư  bản nhà nước là hình thức xuất khẩu tư  bản do nhà nước thực   hiện. Tư  bản xuất khẩu lấy từ  ngân quỹ  của nhà nước đem đầu tư  vào nước nhập  khẩu tư bản, hoặc viện trợ hoàn lại hay không hoàn lại để  thực hiện những mục tiêu  kinh tế, chính trị và quân sự:  Về  kinh t ế, xu ất kh ẩu t ư  b ản nhà nướ c thườ ng h ướ ng vào các ngành thuộ c  kế t cấu h ạ tầng để  tạ o môi trườ ng thuận l ợi cho đầ u tư  củ a tư  bả n tư nhân. Về  chính trị, xuất khẩu tư  bản nhà nước thường nhằm cứu vãn chế  độ  chính  trị  thân cận đang bị  lung lay hoặc tạo ra mối liên hệ  phụ  thuộc lâu dài của nước   nhập khẩu vào nước xuất khẩu. Về  quân sự, nhằm lôi kéo các nước nhập khẩu phụ  thu ộc vào các khối quân  sự, hoặc buộc các nước  này phải đưa quân tham chiến các nước khác, hoặc cho  nước xuất khẩu lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình. Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu tư bản do tư bản tư nhân thực  hiện. Ngày nay, hình thức này có xu hướng tăng nhanh, chiếm tỷ  lệ  cao trong tổng tư  bản xuất khẩu và chủ yếu do các công ty xuyên quốc gia tiến hành thông qua hoạt động  đầu tưư kinh doanh. Nó thường hướng vào các ngành có vòng quay tư bản ngắn và thu   được lợi nhuận độc quyền cao.   Xét về  cách thức hoạt động, có hoạt động cắm nhánh của các công ty xuyên  quốc gia, hoạt động tài chính tín dụng của các ngân hàng hay trung tâm tín dụng và  chuyển giao công nghệ, trong đó hoạt động dưới hình thức chuyển giao công nghệ  là   biện pháp chủ yếu mà các nước xuất khẩu tư bản thường xử dụng để  khống chế nền   kinh tế của nước nhập khẩu.
  7. Xuất khẩu tư bản có vai trò mang tính hai mặt đối với cả  nướ c xuất và nướ c  nhập khẩu tư  bản. Đối với nướ c xuất khẩu: Một m ặt, tìm đượ c nơi đầ u tư có lợi,  xuất đượ c những tư  liệu sản xu ất  đã lạc hậu hoặc sắp phải thay thế  trong quá  trình đổi mới công nghệ, tìm kiếm đượ c thị  trườ ng và nguồn nguyên liệ u phục vụ  cho nền kinh tế  trong n ước, khai thác đượ c các nguồn lợi khác  ở  nướ c nhập khẩu   và gây đượ c  ảnh hưởng về  kinh tế, chính trị, xã hội đố i với nước nhập khẩu. Mặt   khác, xuất khẩu t ư  b ản làm cho đầu tư  trong n ước h ạn chế  đi một phần, nếu đi  quá giới hạn, xu ất kh ẩu t ư  b ản s ẽ  gây ngừng trệ  cho sự  phát triển kinh tế  trong   nướ c.    Đối với nước nhập khẩu: Một mặt, thu hút đượ c tư  bản đầu tư, khai thác  được các nguồn lực trong nước vào việc phát triển kinh tế  giải quyết  đượ c một  phần tình trạng thiếu công ăn việc làm; góp phần thúc đẩy nhanh quá trình phân công   lao động và quốc tế  hoá đời sống kinh tế; tiếp thu đượ c kinh nghiệm và trình độ  quản lý hiện đại. Mặt khác, đối với nước nhập khẩu cũng có nhiều bất lợi: đầu tư  không cân đối giữa các ngành, vùng làm giảm tính độc lập về kinh tế của nước nhập   khi nước nhập không có chiến l ược kêu gọi và phân bổ  đầu tư hợp lý; nguy cơ  lệ  thuộc vào nước ngoài tăng lên; quốc phòng ­ an ninh phải  đương đầu với những   thách thức mới; nảy sinh các vấn đề chính trị, xã hội phức tạp. Thực chất của xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa  ra nước ngoài, là công cụ chủ yếu để bành trư ớng sự thống trị của tư bản tài chính ra toàn  thế giới. Các nước nhập khẩu tư bản trở thành đối tượng bị bóc lột về kinh tế và nô dịch   về chính trị dưới các hình thức và mức độ khác nhau.  c) Biểu hi ện m ới c ủa xu ất kh ẩu t ư b ản Ngày nay, d ưới s ự  tác động của cách mạng khoa h ọc và công nghệ, của xu   thế toàn cầu hoá kinh tế, xu ất kh ẩu t ư b ản đã có sự biến đổ i lớn. Một là, hướ ng xuất kh ẩu t ư b ản đã có sự  thay đổ i cơ  bản. Trướ c đây, luồng  tư  bản xuất khẩu ch ủ  yếu t ừ  các nướ c tư  bản phát triển sang các nướ c kém phát  triển. Ngày nay, đại bộ  phận tư bản xuất kh ẩu đượ c xuất sang nhau giữa các nướ c   tư  bản phát triển. Tỷ  tr ọng xuất kh ẩu t ư  b ản gi ữa ba trung tâm tư  bả n chủ  nghĩa   tăng nhanh, đặc biệt từ Nhật Bản vào Mỹ, Tây Âu và ngượ c lại làm cho luồng xuất   khẩu tư bản vào các nướ c đang phát triển giảm mạnh. Hai là, chủ  thế  xuất khẩu t ư  b ản có sự  thay đổ i lớn, trong đó vai trò củ a các   công ty xuyên quốc gia trong xu ất kh ẩu t ư b ản ngày càng to lớn. Mặt khác, đã xuất   hiện nhiều chủ th ể xu ất kh ẩu t ư b ản t ừ các nướ c đang phát triển mà nổ i bậ t là các  nướ c NICs ở châu Á. Ba là, hình thức xuất kh ẩu t ư b ản r ất đa dạng. Sự  đan xen giữa xuất khẩu tư  bản với xuất kh ẩu hàng hoá và sự  kết hợp giữa xuất kh ẩu t ư  b ản v ới các hoạ t   động buôn bán hàng hoá, dịch vụ, ch ất xám tăng lên mạnh mẽ. Bốn là, sự  áp đặt mang tính chất thực dân trong xuất kh ẩu t ư  b ản có chiề u  hướ ng giảm và nguyên tắc cùng có lợi đượ c đề  cao. 4. Sự phân chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền a) Nguyên nhân và thực chất của sự phân chia thị trường thế giới
  8. Sự  phân chia thị  trường thế  giới gi ữa các tổ  chức độc quyền là do sự  phát   triển của bản thân nền kinh tế  tư  bản chủ  nghĩa. Nền kinh tế  tư  bản chủ  nghĩa là   nền kinh tế  hàng hoá, vì vậy thị  trường là điều kiện sống còn. Trong giai đoạn đế  quốc chủ  nghĩa, dưới sự  thống trị  của độc quyền và tư  bản tài chính, làm cho nền   kinh tế có những phát triển mạnh, do đó, một mặt phải có thị  trường nước ngoài để  tiêu thụ hàng hoá. Mặt khác, cần có thị trường để cung cấp nguyên vật, liệu. Vì vậy,  cuộc đấu tranh để giành giật thị trường thế gi ới gi ữa các tổ chức độc quyền của các  quốc gia trở  nên gay gắt và các cuộc cạnh tranh khốc liệt gi ữa chúng tất yếu dẫn   đến xu hướng thoả  hiệp, ký kết các hiệp định để  củng cố  địa vị  độc quyền của  chúng trong các lĩnh vực. Từ đó dẫn đến hình thành các liên minh độc quyền quốc tế  dưới dạng cácten, xanhđica, tờrớt quốc tế. Thực chất của sự phân chia thế giới về kinh tế là sự phân chia thị trường tiêu thụ  hàng hoá, nguyên liệu và đầu tư  giữa các tổ  chức độc quyền của các nước. Sự  hình   thành độc quyền quốc tế đánh dấu một giai đoạn mới cao hơn của quá trình tích tụ  và   tập trung tư bản, vì lúc này quá trình tích tụ và tập trung tư bản đã vượt khỏi biên giới   quốc gia mang tính quốc tế. b) Biểu hiện mới của sự phân chia thị trường thế giới Trong giai đoạn hiện nay việc phân chia thị  trường có những biểu hiện mới sau   đây: Một là, chủ thể phân chia thị trường thế giới không chỉ có các tổ chức độc quyền   quốc gia mà bên cạnh đó còn có các nhà nước, quốc gia, dân tộc tư  bản phát triển và  đang phát triển. Đồng thời, vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong việc phân chia   thị trường thế giới ngày càng nổi bật, trở thành chủ thể chủ yếu trong việc chiếm lĩnh  thị  trường thế  giới và phân chia nhau kiểm soát hầu hết các thị  trường sản phẩm cao  cấp. Hai là, kết quả của sự phân chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền  dẫn đến hình thành các liên minh và khối liên kết khu vực, điển hình là sự  hình thành  cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC) năm 1957 và hiện nay nó đã bước vào giai đoạn lịch   sử  mới và trở  thành EU (liên minh châu Âu).  Ở  Tây bán cầu, Mỹ  đang xúc tiến thành   lập  khối thị  trường chung châu Mỹ  (dự  định hoàn tất vào năm 2010).  Ở  các khu vực   khác, xuất hiện các liên minh của hàng loạt nước đang phát triển nhằm chống lại sức   ép   của   các   cường   quốc   tư   bản   chủ   nghĩa   như   Hiệp   hội   các   nước   Đông   Nam   Á  (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế  châu Á ­ Thái Bình Dương (OPEC), khu vực mậu   dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA).v.v.  5. Các cường quốc đế quốc phân chia lãnh thổ thế giới a) Thực chất và nguyên nhân Thực chất của sự  phân chia thế  giới về  mặt lãnh thổ  là các nước đế  quốc tiến  hành các cuộc chiến tranh xâm lược để  xâm chiếm các nước và thực hiện chủ  nghĩa  thực dân, biến các nước đó trở thành thuộc địa của chúng. Sự phân chia thế giới về mặt   kinh tế tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh giữa các cường quốc đế quốc để phân chia lãnh   thổ  thế  giới. Điều đó, xuất phát từ  nguyên nhân sau: do sự  thống trị  của các tổ  chức   độc quyền làm cho sản xuất tiếp tục phát triển mạnh mẽ, dẫn đến việc đấu tranh để  giành giật thị  trường thế giới giữa các tổ  chức độc quyền của các cường đế  quốc trở  nên gay gắt. Vì vậy, để củng cố và tăng cường thị trường, các cường quốc đế quốc ra  
  9. sức xâm chiếm các nước chậm phát triển để làm thuộc địa nhằm độc chiếm thị trường   tiêu thụ  hàng hoá, nguồn nguyên liệu và nơi đầu tư  tư  bản có lợi và để  xây dựng các  căn cứ quân sự phục vụ cho mục đích bành trướng xâm lược. b) Quá trình phân chia lãnh thổ thế giới. Quá trình phân chia lãnh thổ thế giới diễn ra rất sớm, ngay từ năm 1860, đế quốc  Anh đã thực hiện các cuộc chiến tranh xâm chiếm thuộc địa. Tiếp đó là các đế  quốc   Nga, Pháp, Đức, Mỹ, Nhật…Đến đầu thế kỷ XX, các nước đế quốc đã hoàn thành việc  phân chia lãnh thổ  thế  giới. Tính đến năm 1914, chỉ  riêng 6 nước đế  quốc lớn: Anh,   Pháp, Nga, Đức, Mỹ, Nhật Bản đã chiếm 65 triệu km2 với dân số  523, 4 triệu người,   trong đó Anh là nước chiếm nhiều thuộc địa nhất (33,5 triệu km2). Song sự phân chia đó  diễn ra không đều giữa các nước nên dẫn đến cuộc đấu tranh đòi phân chia lại lãnh thổ  thế  giới. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến các cuộc chiến tranh thế  giới lần thứ nhất   1914 – 1918 và lần thứ hai 1939 – 1945 .   K ết qu ả c ủa s ự phân chia và phân chia lại   lãnh thổ  thế giới dẫn đến sự  hình thành hệ  thống kinh tế tư bản chủ nghĩa toàn thế  giới bao gồm hai lo ại n ước: m ột nhóm nhỏ  các nước đế  quốc có sức mạnh kinh tế  và quân sự; và phần đông các nước bị áp bức, nô dịch hình thành nên hệ  thống thuộc  địa của chủ nghĩa đế quốc. c) Biểu hiện mới của sự phân chia lãnh thổ trong giai đoạn hiện nay.  Vào những năm giữa thế  kỷ  XX, sự  lớn mạnh của phong trào giải phóng dân  tộc đã làm sụp đổ  hệ  thống thuộc địa và theo đó làm phá sản chính sách thực dân cũ  của chủ  nghĩa đế  quốc. Đứng trước thực tế  đó, để  tiếp tục duy trì sự   ảnh hưởng   của mình đối với các nước, các cườ ng quốc đế  quốc chuyển sang thực thi chính sách  thực dân mới, mà nội chủ yếu của nó là dùng viện trợ kinh tế, kỹ thuật, quân sự  để  duy trì sự lệ thuộc của các nước đang phát triển vào các nướ c đế quốc. Bên cạnh đó,   các cường quốc đế quốc còn tiến hành các cuộc chiến tranh nhằm bảo v ệ quy ền l ợi   kinh tế của mình tại các khu vực. Cuộc chiến tranh vùng vịnh mới đây do Mỹ  và các  nước đồng minh tiến hành thực chất là để  bảo vệ  nguồn lợi dầu mỏ  và quyền lợi   kinh tế của Mỹ, Anh và các nước đồng minh của chúng tại Trung Đông. Ngày nay, việc phân chia thế giới về chính trị đã có mối quan hệ rất chặt chẽ  với sự phân chia thế giới về kinh tế. Do s ự phát triển cao độ của lực lượng sản xuất   dưới tác động của cách mạng khoa học – công nghệ, của quá trình toàn cầu hoá kinh   tế được đẩy mạnh và sự đan xen về kinh tế đượ c tăng cường. Cùng với quá trình đó  là sự lớn mạnh của lực lượng yêu chuộng hoà bình, tiến bộ  đã tạo ra khả  năng hiện   thực để  ngăn chặn chiến tranh đế  quốc mang tính chất thế  giới. Tuy nhiên, những  thế lực phản động quốc tế vẫn chưa từ bỏ tham v ọng dùng vũ lực để  cai trị thế giới   và làm giàu. Cuộc chạy đua vũ trang dưới mọi hình thức giữa các cường quốc vẫn   tiếp tục diễn ra. Chiến tranh lạnh k ết thúc, nguy cơ  chiến tranh thế gi ới b ị đẩy lùi,  nhưng lại được thay thế  bằng những cuộc chiến tranh th ương m ại, chi ến tranh s ắc   tộc, tôn giáo mà thủ  phạm đứng đằng sau các cuộc chiến tranh đó vẫn là các cường  quốc đế quốc. Tóm lại, bản chất của chủ nghĩa tư  bản độc quyền (chủ  nghĩa đế  quốc)về  mặt  kinh tế là sự thống trị của độc quyền; về mặt chính trị là xâm lược và nô dịch các nước.   Bản chất đó của chủ nghĩa độc quyền được thể hiện thông qua năm đặc điểm kinh tế  cơ bản: sự tập trung sản xuất và tư bản đạt tới trình độ cao làm xuất hiện các tổ chức  
  10. độc quyền có vai trò quyết định trong hoạt động kinh tế; sự dung hợp giữa độc quyền  ngân hàng và độc quyền công nghiệp làm xuất hiện tư bản tài chính và đầu sỏ tài chính;  việc xuất khẩu tư bản mang một ý nghĩa quan trọng đặc biệt; sự hình thành những liên  minh độc quyền quốc tế; các cường quốc chia nhau  lãnh thổ thế giới.  II. ĐỊA VỊ LỊCH SỬ CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN V.I.Lênin khẳng định, chủ  nghĩa tư  bản độc quyền không phải là mộ t hình  thái kinh tế ­ xã hội riêng biệt, hay m ột ph ư ơng thức sản xu ất khác với chủ nghĩa t ­ ư bản, mà là sự  phát triển và kế  tục trực tiếp của nh ững đặ c tính cơ  bản của chủ  nghĩa tư bản nói chung. Cố nhiên, chủ  nghĩa tư bản chỉ trở thành Chủ  nghĩa tư  bản  độc quyền khi nó đã đạt tới một trình độ  nhất định rất cao. Chủ  nghĩa tư  bả n độ c   quyền là một giai đoạn đặc biệt của chủ  nghĩa t ư bản. Tính đặc biệt đó thể  hiện  trên các mặt cơ  bản như: Chủ  nghĩa tư  bản độc quyền là giai đoạn cao của chủ  nghĩa tư  bản; Chủ  nghĩa tư  bản độc quyền là chủ  nghĩa tư bản ăn bám thối nát và  phản động; Chủ nghĩa tư bản độc quyền đã và đang tạo tiền đề vật chất cho xã hộ i  mới cao hơn, ti ến b ộ h ơn. 1. Chủ nghĩa tư bản độc quyền là giai đoạn cao của chủ nghĩa tư bản.  V.I.Lê nin viết: “V ề  m ặt kinh t ế điểm cơ  bản trong quá trình này là sự  độ c   quyền tư  bản chủ nghĩa đã thay thế cho sự c ạnh tranh t ự do t ư b ản ch ủ nghĩa”. Khi   các tổ chức độc quyền thống tr ị xã hội tư bản đã thúc đẩy lực lượ ng sản xuất phát  triển cực kỳ  nhanh chóng. Tính chất xã hội của việc sản xu ất càng đư ợc tăng c­ ường với việc xuất kh ẩu t ư bản, với việc thành lập các tổ chức độ c quyền quốc tế  và hình thành hệ thống kinh t ế th ế gi ới c ủa ch ủ nghĩa tư bản. Sự phát triển của lực   lượ ng sản xuất bi ểu hi ện  ở  việc xã hội hoá mộ t cách toàn diện mọi mặt, mọi yếu   tố  của quá trình sản xuất. Khi l ực l ượng s ản xu ất bi ến  đổ i thì quan hệ  sản xuất   cũng biến đổi theo, tất nhiên là không phải thay đổi một cách căn bản về  bản chất   mà chỉ  thay đổi có tính chất cục bộ  cho phù hợp với sự  phát triển của lực lượ ng   sản xuất. Tr ước đây là sở hữu riêng của từng nhà tư bản, còn nay là sở  hữu của tập  thể các nhà tư  bản độc quyền, của bọn tư bản tài chính và đầ u sỏ  tài chính. Nhưng   chế   độ   chiếm  hữu   tư   nhân  tư   bản chủ  nghĩa  về   tư   liệ u sản  xuất không  những  không mất đi mà tính chất tư h ữu còn sâu sắc hơn.   2. Chủ nghĩa tư  bản độc quyền là chủ  nghĩa tư  bản ăn bám, thối nát và  phản động Các tổ  chức độc quyền và bọn t ư  bản tài chính thống tr ị  m ọi lĩnh vực của  đời sống xã hội, làm cho chủ  nghĩa tư  bản mang tính chất ăn bám và thối nát. Điề u   đó thể hiện trên các mặt cơ bản sau đây: ­ Xu hướng kìm hãm tiến bộ kỹ thu ật.  Như  trên đã trình bày, do sự thao túng của các tổ chức độc quyền mà các phát   minh kỹ  thuật cũng như  việc  ứng dụng các thành tựu khoa học vào sản xuất không  được chúng quan tâm. Điều đó đã làm kìm hãm sự  phát triển của khoa học kỹ thuật.  Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là trong giai đoạn này kỹ  thuật bị  đình trệ  hoàn  toàn. Trong từng ngành, từng thời kỳ nhất định, ở những nước nhất định, do động cơ  chạy theo lợi nhuận độc quyền cao vẫn là động lực to lớn kích thích sự  đổi mới kỹ  thuật trong chủ nghĩa tư bản. 
  11. Ngày nay, các tổ  chức độc quyền lớn  ở  các n ước tư bản phát triển rất chú ý  tổ  chức việc nghiên cứu,  ứng dụng khoa học và kỹ  thuật, nên đã đạt đượ c một sự  phát triển rộng rãi và nhanh chóng về  tự  động hoá sản xuất, kỹ  thuật điện tử  và sử  dụng năng lượng nguyên tử, công nghiệp vũ trụ...Do đó, sau chiến tranh thế gi ới th ứ  hai, nền kinh tế  một số nư ớc tư  bản chủ  nghĩa phát triển tư ơng đối nhanh. Mặc dù  có tình hình như vậy nhưng lý luận của Lênin về xu h ướng đình trệ về kỹ thuật của  chủ nghĩa đế quốc vẫn giữ nguyên giá trị.  Hiện nay trình độ khoa học kỹ thuật đã phát triển tới trình độ  rấ t cao, nh ưng  do quan hệ  sản xu ất t ư b ản ch ủ nghĩa kìm hãm, bọn tư bản không quản lý nổi lực  lượng sản xuất đó, không dùng những phát minh vĩ đại của nhân loại vào mục đích  hoà   bình   tiến   bộ   mà   lại   dùng   vào   việc   sản   xuất   vũ     khí   giế t   ngư ời   hàng   loạt.  Những ngành phát triển nhất ph ần l ớn là những ngành phục vụ  kế  hoạch quân sự.   Hơn nữa những phát minh mới  cũng không được áp dụng đầy đủ. Năm 1955, ở Mỹ  có 83.246  đơn xin cấp bằng phát minh đ ược công nhận, nh ưng chỉ  có 22.480 số  bằng được đưa ra áp dụng vào sản xuất kinh doanh. ­ Số  người ăn bám ngày càng tăng. Các nhà tư  bản ngày càng mất dần sự  liên hệ với quá trình sản xuất. Công việc điều khiển do các nhân viên làm thuê phụ  trách. Phần l ớn b ọn t ư  bản độc quyền trở  thành những kẻ  chuyên sống bằng tiền  lãi cổ phần và bóc lột các dân tộc khác dựa vào cách cho vay có tính chất nô dịch. ­ Quân sự  hoá kinh tế, ch ạy đua vũ trang gây tình hình căng thẳng trên thế  giới, phản động về  mặt chính trị và tư  tưởng.  Ở đâu có sự  thống trị của độ c quyền  thì ở đó quyền sống của con ng ười, chủ quyền của các dân tộc bị  chà đạ p, mọi thứ  tự  do, dân chủ, bình đẳng kiểu t ư  sản cũng đều bị  hạn chế  và thủ  tiêu. Những   thuyết tự do, dân chủ, bình đẳng bắc ái  ở  thời kỳ đầ u của chủ  nghĩa t ư  bản bị thay  bằng những lý luận phản động bào chữa cho ách áp bức bóc lột, khủng bố  và nô   dịch. Chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa quân phiệt, chế độ  độ c tài khát máu...đều là sả n   phẩm của ách thống tr ị c ủa t ư bản tài chính.        3. Chủ  nghĩa đế  quốc đã và đang tạo tiền đề  vậ t chất cho sự  ra  đời  một xã hội mới  tiến b ộ h ơn. Sự  thống trị  của bọn độc quyền một mặt thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp   tục phát triển, nhờ đó tạo ra hệ thống cơ sở vật chất ngày càng đầy đủ cho sự ra đời  của một xã hội mới tiến bộ hơn, cao h ơn. Có thể nói, chủ nghĩa tư bản độc quyền là  sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội; mặt khác làm cho mâu thuẫn   cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc. V.I. Lê nin chỉ rõ, trong giai đoạn đế  quốc chủ nghĩa, tất cả  các mâu thuẫn của chủ nghĩa t ư  bản như: mâu thuẫn giữa tư  sản và vô sản; mâu thuẫn giữa một nhóm nhỏ  bọn đế  quốc với nhân dân các nướ c  thuộc địa và phụ  thuộc; mâu thuẫn giữa đế  quốc với đế  quốc đề u phát triển đến  mức gay gắt nhất. Chính sự  vận động của các mâu thuẫn đó đang thúc đẩy toàn bộ  hệ thống tư bản chủ nghĩa thế giới đi vào con đường sụp đổ và tan dã không thể cứu  vạn nổi. Chủ nghĩa tư bản nhất định diệt vong, chủ nghĩa xã hội nhất định thắng lợi.  Chủ  nghĩa đế  quốc là giai đoạn cuối cùng của chủ  nghĩa tư bản, là đêm trước của  cách mạng vô sản.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2