intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Những điều cần biết về Ung Thư Tuyến Nhiếp Hộ (prostate) - Phần 2

Chia sẻ: Nguyenhoang Phuonguyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:18

88
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Theo dõi bệnh trạng ("chờ xem") Bệnh nhân có thể chọn cách "chờ xem" nếu việc chữa trị có nhiều cái hại (phản ứng phụ) hơn cái lợi. Bác sĩ cũng có thể đề nghị việc "chờ xem" nếu bệnh nhân bị ung thư trong thời kỳ bắt đầu và ung thư là loại tăng trưởng chậm; hoặc khi bệnh nhân đã cao tuổi và mang nhiều chứng bệnh khác. Chọn việc 'chờ xem" không có nghĩa là ngưng mọi việc chữa trị, việc làm này chỉ có nghĩa là chọn lựa việc chờ đợi để tránh phản ứng...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Những điều cần biết về Ung Thư Tuyến Nhiếp Hộ (prostate) - Phần 2

  1. Những điều cần biết về Ung Thư Tuyến Nhiếp Hộ (prostate) Phần 2 Theo dõi bệnh trạng ("chờ xem") Bệnh nhân có thể chọn cách "chờ xem" nếu việc chữa trị có nhiều cái hại (phản ứng phụ) hơn cái lợi. Bác sĩ cũng có thể đề nghị việc "chờ xem" nếu bệnh nhân bị ung thư trong thời kỳ bắt đầu và ung thư là loại tăng trưởng chậm; hoặc khi bệnh nhân đã cao tuổi và mang nhiều chứng bệnh khác. Chọn việc 'chờ xem" không có nghĩa là ngưng mọi việc chữa trị, việc làm này chỉ có nghĩa là chọn lựa việc chờ đợi để tránh phản ứng phụ của việc chữa trị. Chọn giải phẫu hay xạ trị không bảo đảm rằng bệnh nhân sẽ sống lâu hơn so vơi bệnh nhân chọn cách "chờ xem". Nếu quý vị và bác sĩ đồng ý chọn cách 'chờ xem", bác sĩ sẽ khám bệnh thường xuyên mỗi 3-6 tháng. Sau khoảng 1 năm, bác s ĩ có thể làm sinh
  2. thiết để thẩm định lại chỉ số Gleason, lúc ấy, nếu chỉ số Gleason gia tăng, mức PSA gia tăng hoặc có triệu chứng, bệnh nhân có thể bắt đầu việc chữa trị, qua xạ trị, giải phẫu hoặc một cách chữa trị khác. Việc "chờ xem" để tránh phản ứng phụ của xạ trị, giải phẫu nhưng sự lựa chọn này cũng có một vài rủi ro. Trong một vài bệnh nhân, việc "chờ xem" có thể khiến ung thư lan ra bộ phận khác nhưng ngược lại, việc chịu đựng cuộc giải phẫu hoặc xạ trị mang lại nhiều khó khăn khi đã cao tuổi. Nếu quý vị chọn cách "chờ xem" nhưng đổi ý vì lo âu, hãy thảo luận với bác sĩ sự lo âu của mình. Quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ trước khi chọn cách "chờ xem": • Nếu chọn việc chờ đợi, tôi có thể đổi ý không? • Có an toàn để tôi chờ đợi không? • Việc thăm bệnh định kỳ có thường xuyên không? Tôi sẽ cần loại thử nghiệm nào? Tôi có cần làm sinh thiết lại không? • Làm thế nào để biết rằng ung thư lan ra? • Giữa những lần thăm bệnh, tôi cần báo tin cho bác sĩ biết về những triệu chứng gì?
  3. Giải phẫu Đây là cách chữa trị thường dùng cho ung thư tuyến nhiếp hộ thời kỳ I-II, một loại chữa trị tại chỗ (local therapy), đôi khi dùng cho ung thư trong thời kỳ III - IV. Bác sĩ cắt bỏ một phần hoặc toàn thể tuyến nhiếp hộ. Trước khi cắt bỏ tuyến nhiếp hộ, bác sĩ cắt bỏ hạch bạch huyết tại khoang bụng, nếu tế bào ung thư hiện diện tại hạch bạch huyết náy, có thể là ung thư đã lan đến các bộ phận các trong thân thể. Khi ung thư đã lan tràn, bác sĩ có thể sẽ không cắt bỏ tuyến nhiếp hộ mà sẽ dùng các cách chữa trị khác. Có nhiều phương cách giải phẫu để chữa trị ung thư tuyến nhiếp hộ. Mỗi cách có cái lợi / hại riêng, quý vị có thể bàn thảo với bác sĩ trước khi quyết định loại giải phẫu nào thích hợp nhất. Giải phẫu: Bác sĩ mở một đường tại khoang bụng dưới và cắt bỏ khối u. Có hai cách: • Radiacal retropubic prostatectomy: Bác sĩ cắt bỏ toàn bộ tuyến nhiếp hộ và những hạch bạch huyết lân cận qua một đường mổ tại bụng dưới.
  4. • Radical perineal prostatectomy: Bác sĩ cắt bỏ toàn bộ tuyến nhiếp hộ với một đường mổ đi qua túi đựng tinh hoàn (scrotum) và hậu môn. Laparoscopic prostatectomy: Bác sĩ dùng phương pháp nội soi, cắt một lỗ hổng nhỏ ở bụng để truyền dụng cụ và cắt bỏ khối u. Robotic laparoscopic surgery: Bác sĩ cắt bỏ tuyến nhiếp hộ qua những đường cắt nhỏ, dụng cụ nội soi và người máy được dùng để mổ; bác sĩ điểu khiển người máy qua màn hình máy điện toán. Cryosurgery: Bác sĩ chuyển dụng cụ qua vết cắt giữa túi tinh hoàn và hậu môn. Dụng cụ được đông cứng để hủy tế bào ung thư bằng hơi lạnh. Phương cách này đang được thử nghiệm tại một vài trung tâm Y tế trên thế giới Transurethral resection of the prostate (TURP): Bác sĩ cắt bỏ một phần tuyến nhiếp hộ bằng một dụng cụ đặt qua ống tiểu (urethra), khối u được cắt bằng điện. TURP không cắt bỏ hoàn toàn tuyến nhiếp hộ và có thể không cắt bỏ hoàn toàn khối ung thư, nhưng sẽ cắt bỏ phần ung thư làm nghẽn ống tiểu. Thời gian cần thiết để phục hồi không đồng nhất cho mọi bệnh nhân, hầu hết bệnh nhân ở lại bệnh viện 2-3 ngày. Bệnh nhân sẽ cần thuốc giảm
  5. đau vài tuần sau khi mổ. Trước cuộc giải phẫu, quý vị có thể thảo luận với bác sĩ về thuốc men dùng sau khi mổ, bác sĩ có thể gia giảm thuốc khi cần thiết. Sau khi mổ, ống tiểu cần thời gian để lành, bệnh nhân có thể dùng ống dẫn nước tiểu (catheter) nối từ bàng quàng đến túi đựng bên ngoài cơ thể. Ống dẫn sẽ nằm trong ống tiểu khoảng 5 ngày đến 3 tuần lễ. Bệnh nhân sẽ được chỉ dẫn cách tự chăm sóc. Đôi khi cuộc giải phẫu có thể gây hư hoại thần kinh chung quanh tuyến nhiếp hộ, sự hư hại này có thể gây liệt dương. Trong một số trường hợp, bác sĩ có thể áp dụng kỹ thuật "gìn giữ thần kinh" (nerve sparing surgery) để giữ lại phần thần kinh kiểm soát việc căng cứng d ương vật. Khi khối u quá lớn và nằm ngay tại những thần kinh này, bác sĩ không thể áp dụng kỹ thuật kể trên. Liệt dương có thể vĩnh viễn. Quý vị hãy thảo luận với bác sĩ về thuốc men và những cách tiết giảm phản ứng phụ liên quan đến tình dục Nếu tuyến nhiếp hộ bị cắt bỏ, quý vị sẽ không có tinh dịch nữa kể cả khi khoái cảm tột độ. Nếu muốn tiếp tục việc sinh sản, quý vị có thể giữ tinh trùng tại "ngân hàng" trước khi giải phẫu.
  6. Trước khi giải phẫu, quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ: -Bác sĩ sẽ thực hiện cách giải phẫu nào cho tôi? -Tôi sẽ ra sao sau khi mổ? - -Nếu đau đớn, có thể dùng thuốc gì? -Tôi sẽ ở lại bệnh viện bao nhiêu lâu? -Tôi có bị phản ứng phụ lâu dài hay không? Tỷ lệ rủi ro bị liệt dương hoặc mất kiểm soát bàng quang là bao nhiêu? -Khi nào thì tôi có thể trở lại sinh hoạt bình thường? - Tôi có cần đi kham bệnh định kỳ thường xuyên không? Xạ trị: Dùng năng lượng cao (high energy) để diệt tế bào ung thư, một loại chữa trị tại chỗ cho mọi thời kỳ của ung thư tuyến nhiếp hộ. Bệnh nhân trong thời kỳ đầu có thể dùng xạ trị thay cho giải phẫu. Xạ trị có thể được sử dụng trước, sau khi giải phẫu hoặc ngay cả khi không giải phẫu và dùng để giảm đau đớn. Có hai loại: • Ngoại xạ trị (external radiation): Nguồn phóng xạ bên ngoài cơ thể, từ một máy phát quang, bệnh nhân thường được chữa 5 ngày mỗi tuần trong
  7. nhiều tuần lễ. Đôi khi bác sĩ sử dụng three-dimensional conformal radiation therapy, loại chữa trị này chính xác và bảo vệ được những tế bào bình thường nằm gần khối u. • Nội xạ trị (internal radiation, implant radiation, brachytherapy): Nguồn phóng xạ đựng trong vật chứa nhỏ gọi là "hạt". Những hạt phóng xạ này được đặt vào khối u trong cơ thể qua kim chích. Hạt phóng xạ tiết ra quang tuyến trong nhiều tháng và không cần phải tháo bỏ khi hết chất phóng xạ. Đôi khi bệnh nhân được chữa trị với cả hai loại xạ trị trị liệu kể trên. Phản ứng phụ tùy thuộc vào lượng và loại xạ trị, thường biến mất một thời gian ngắn sau khi xạ trị. Trong thời gian chữa trị, bệnh nhân rất mệt mỏi nên nghỉ ngơi dưỡng sức là điều quan trọng nhưng vẫn nên vận động thân thể để chóng bình phục. Nếu dùng ngoại xạ trị, phản ứng phụ thường thấy là tiêu chảy và tiểu rắt. Một số bệnh nhân nhân gặp trở ngại trong việc tiêu tiểu rất lâu sau khi chữa trị. Vùng da nơi chiếu phóng xạ thường đỏ rát và khô, lông rụng và có thể không mọc lại.
  8. Nội xạ trị có thể gây mất kiểm soát bàng quang nhưng trở ngại này sẽ tiết giàm sau vài tháng. Ngoại và nội xạ trị có thể gây liệt dương. Quý vị nên thảo luận với bác sĩ trước khi chữa trị. Quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ trước khi bắt đầu cuộc xạ trị: -Tại sao tôi cần loại chữa trị này? -Bác sĩ chọn loại xạ trị nào cho tôi? Cả hai loại xạ trị có cần thiết không? -Khi nào thì việc chữa trị bắt đầu? Khi nào thì xong? Chữa trị bao nhiêu lần? -Tôi sẽ bị ảnh hưởng ra sao? Tôi có cần vào bệnh viện không? Tôi cần làm gì để tự chăm sóc trong khi và sau khi chữa trị? -Tôi có thể tự đến nơi chữa trị hay không? -Làm thế nào để biết là xạ trị có hiệu quả hay không? -Có phản ứng phụ nào lâu dài hay không? -Khi nào thì tôi có thể trở lại sinh hoạt bình thường?
  9. - Tôi có cần đi kham bệnh định kỳ thường xuyên không? Nội tiết tố trị liệu (hormone therapy) Bệnh nhân có thể dùng nội tiết tố trị liệu trước, trong khi hoặc sau xạ trị. Nội tiết tố trị liệu thường dùng để chữa ung thư tái phát. Tế bào ung thư tuyến nhiếp hộ cần nội tiết tố nam để tăng trưởng, loại chữa trị này ngăn chặn nguồn nội tiết tố nam. Nội tiết tố trị liệu dùng thuốc men hoặc giải phẫu: Giải phẫu: Orchie chữa trị omy: Bác sĩ cắt bỏ tinh hoàn, nơi tiết ra những nội tiết tố nam, nhất là testosterone Thuốc men: Bác sĩ có thể dùng dược phẩm để ngăn cơ thể tạo ra nội tiết tố: • Luteneizing hormone-releasing hormone (LH-RH): Loại thuốc này ngăn tinh hoàn tiết nội tiết tố nam, leuprolide, goserelin và triptorelin bán trên thị trường dược phẩm quốc tế. Lượng testosterone xuống từ từ. Thiếu testosterone, khối u thu nhỏ hoặc tăng trưởng chậm lại. Loại thuốc này còn có tên là gonadotropin-releasing hormone (GnRH) agonist.
  10. • Antiandrogens: Loại thuốc ngăn tác dụng của nội tiết tố nam như flutamide, bicalutamide, nilutamide. • Những dược phẩm khác: Các loại thuốc ngăn tuyến thượng thận sản xuất testosterone như ketoconazole và aminogluthitimide. Sau khi cắt bỏ tinh hoàn hay dùng những loại thuốc LH-RH, cơ thể không còn testosterone từ tinh hoàn. Tuy nhiên, tuyến thượng thận vẫn tiếp tục sản xuất testosterone, và bác sĩ cần dùng nhiều loại thuốc khác nhau để ngăn chặn hoàn toàn những nguồn testosterone, gọi là total androgen blockade, kết quả chữa trị không mấy khả quan hơn so với việc dùng LH- RH Nội tiết tố trị liệu tạo ra những phần ứng phụ như liệt dương, "bốc hỏa" lên mặt (hot flashes) và mất sự ham muốn tình dục. Loại chữa trị này cũng gây loãng xương, bác sĩ có thể dùng thuốc để tiết giảm sự loãng xương và ngăn ngừa gẫy xương. Loại thuốc LH-RH có thể gia tăng triệu chứng vài ngày sau khi bắt đầu chữa trị, để ngăn ngừa, bác sĩ có thể dùng chung với loại antiandrogen. LH-RH như leuprolide có thể gia tăng mỡ tích tụ trong cơ thể, nhất là vùng bụng, và lượng đường huyết cũng như cholesterol cũng có thể gia tăng.
  11. Những yếu tố này có thể dẫn đến chứng tiểu đường và bệnh tim mạch nên bác sĩ sẽ cần theo dõi bệnh trạng kỹ lưỡng và thường xuyên. Loại antiandrogen có thể gây buồn nôn, ói mửa, tiêu chảy hoặc khiến vú sưng trướng. Đôi khi, loại dược phẩm này tạo ra biến chứng tại gan (triệu chứng bao gồm đau bụng, vàng mắt hoặc nước tiểu đậm màu). Một số bệnh nhân bị ngộp thở và suy tim. Một số bệnh nhân khác gặp trở ngại trong việc điều tiết thị giác giữa bóng tối và ánh sáng. Khi dùng ketoconazol lâu dài, bệnh nhân có thể bị suy gan. Aminoglutethimide có thể tạo ra mề đay, ngứa ngáy trên da. Ung thư tuyến nhiếp hộ dù đã lan tràn đến những bộ phận khác, vẫn có thể cầm cự trong 2-3 năm với nội tiết tố trị liệu. Sau đó, ung thư tái phát và bác sĩ sẽ cần sử dụng những phương cách khác. Những phương cách này phần đông còn nằm trong vòng thử nghiệm. Quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ trước khi bắt đầu chữa trị bằng nội tiết tố: -Tôi sẽ được chữa trị bằng loại nội tiết tố nào? Bác sĩ chọn giải phẫu hay dược phẩm? Tại sao?
  12. - Nếu dùng dược phẩm, khi nào thì bắt đầu? Khi nào thì chữa trị xong? - Nếu dùng giải phẫu, tôi sẽ phải ở lại bệnh viện bao nhiêu lâu? - Làm thế nào để biết rằng việc chữa trị có hiệu quả? -Tôi cần báo cho bác sĩ biết về những phản ứng phụ nào? Có cách nào phòng ngừa không? -Tôi có cần làm gì để sửa soạn cho việc chữa trị không? -Sau khi trị liệu, tôi có phải khám bệnh đình kỳ thường xuyên không? Hóa chất trị liệu Khi nội tiết tố trị liệu không còn hiệu quả để ngăn chặn sự tăng trưởng của ung thư tuyến nhiếp hộ, bác sĩ sẽ cần dùng hóa chất để chữa trị. Các hóa chất này thường được truyền qua tĩnh mạch, bệnh nhân được chữa trị tại trung tâm y tế, văn phòng bác sĩ hoặt tại nhà; một vài bệnh nhân cần ở lại bệnh viện. Phản ứng phụ tùy thuộc vào loại và lượng hóa chất sử dụng. Nói chung, hóa chất tiêu diệt tế bào ung thư nên sẽ ảnh hưởng đến những tế bào tăng trưởng nhanh chóng:
  13. - Tế bào máu: Khi hóa chất chữa ung thư hạ thấp số tế bào máu khỏe mạnh, bệnh nhân dễ bị nhiễm trùng, bầm tím hoặc chảy máu dễ dàng, và mệt mỏi, mất sức. Bác sĩ cần thử máu để đo lường số tế bào máu. Khi lượng tế bào xuống thấp, bác sĩ có thể dùng thuốc kích thích tủy xương chế tạo tế bào mới nhanh chóng hơn hoặc sẽ được truyền máu. - Tế bào bọc quanh chân tóc: Hóa chất gây rụng tóc. Tóc sẽ mọc trở lại sau khi chữa trị, tóc mới có thể khác màu hoặc thay đổi thể dạng. - Tế bào lót các bộ phận tiêu hóa: Hoá chất có thể gây kém ăn, buồn nôn và ói mửa, tiêu chảy, lở miệng. Những phản ứng phụ khác có thể là ngộp thở và giữ nước khiến cơ thể sưng trướng, bác sĩ có thể dùng dược phẩm để giúp cơ thể thải bớt nước. Hóa chất cũng có thể gây phong ngứa, mề đay ngoài da hoặc gây cảm giác kim chích tại đầu ngón tay, chân. Hầu hết các phản ứng phụ này sẽ tiết giảm khi cuộc trị liệu hoàn tất. Quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ trước khi bắt đầu chữa trị hóa chất: -Tôi sẽ được chữa trị bằng loại thuốc nào? khi nào thì bắt đầu? Khi nào thì xong?
  14. -Tôi cần làm gì để tự chăm sóc trong khi chữa trị? -Mục đích của việc chữa trị là gì? Làm thế nào để biết rằng việc chữa trị có hiệu quả? -Tôi cần báo cho bác sĩ biết về những phản ứng phụ nào? Có cách nào phòng ngừa không? -Tôi có cần làm gì để sửa soạn cho việc chữa trị không? Việc chữa trị ảnh hưởng đến sinh hoạt hằng ngày ra sao? Ý kiến thứ nhì Trước khi bắt đầu việc chữa trị, quý vị có thể tham khảo một bác s ĩ khác để lấy ý kiến về chẩn đoán và chữa trị. Nhiều hãng bảo hiểm sẽ trả chi phí này nếu quý vị hoặc bác sĩ yêu cầu Quý vị cần một thời gian để thu góp tài liệu, y sử, các kết quả thử nghiệm và sắp xếp buổi tham khảo với một bác sĩ khác. Việc chờ đợi thường không ảnh hưởng đến kết quả của việc chữa trị. Để an tâm hơn, quý vị có thể thảo luận về việc chờ đợi này với bác sĩ của mình.
  15. Nhiều cách để tìm một bác sĩ cho ý kiến thứ nhì: Hỏi bác sĩ của mình, hỏi chi tiết tại bệnh viện, những tổ chức y tế địa phương, trường Y khoa… để lấy tên một vị bác sĩ chuyên khoa. Dinh dưỡng Dinh dưỡng rất quan trọng trong mọi giai đoạn, trước khi, trong khi và sau khi chữa trị ung thư. Bệnh nhân cần một lượng đầy đủ calorie, protein, sinh tố, và khoáng chất. Khi cơ thể được bồi bổ đúng mức, bệnh nhân thường cảm thấy dễ chịu hơn. Tuy nhiên, bệnh nhân có thể gặp khó khăn trong việc ăn uống vì nhiều nguyên nhân, mệt mỏi, biếng ăn hoặc khó nuốt thức ăn. Khi dùng hóa chất trị liệu, bệnh nhân có thể không còn nếm được thức ăn, hoặc cho rằng thức ăn không còn hương vị, thơm ngon như trước. Bệnh nhân cũng có thể chịu các phản ứng phụ như biếng ăn, buồn nôn, ói mửa, hoặc tiêu chảy. Có nhiều cách để bồi bổ cơ thể khi không thể ăn uống đầy đủ. Hãy thảo luận với chuyên viên về dinh dưỡng (registered dietitian) để chọn cách dinh dưỡng thích hợp với đầy đủ calorie, protein, sinh tố (vitamins), và khoáng chất (minerals).
  16. Khi có thể, nên duy trì sự hoạt động, đi bộ, yoga, bơi lội hoặc những hoạt động khác có thể gia tăng năng lực. Nên thảo luận với bác sĩ về việc vận động cơ thể và báo cho bác sĩ biết khi việc vận động gây đau đớn. Thăm bệnh định kỳ Sau khi chữa trị, bệnh nhân sẽ cần được khám bệnh định kỳ. Ngay cả khi không có dấu hiệu nào về ung thư tái phát, vẫn cần thăm bệnh vì mầm ung thư có thể còn sót lại trong cơ thể. Khám bệnh định kỳ giúp bác sĩ kiểm soát theo dõi diễn tiến của bệnh trạng, các loại thử nghiệm như thử máu, chụp hình phổi, CT scan, nội soi hoặc những loại thử nghiệm khác. Báo cho bác sĩ biết nếu bị bệnh giữa những buổi khám bệnh định kỳ. Khi tái khám, bác sĩ thường khám hậu môn và đo lượng PSA. Khi lượng PSA gia tăng có nghĩa là ung thư tái phát. Bác s ĩ có thể làm sinh thiết, thử bone scan, CTscan, MRI hoặc các loại thử nghiệm khác. Những nguồn hỗ trợ Chứng bệnh nan y như ung thư có thể thay đổi cuộc sống của người bệnh và cả thân nhân. Những thay đổi này khó thích nghi và chấp nhận, nên điều dễ hiểu là bệnh nhân cũng như những người thân yêu thường trải qua
  17. những giai đoạn khó khăn, phân vân, bất an, buồn rầu. Người bệnh có thể lo âu về gia đình, công việc làm, hoặc sinh hoạt hàng ngày kể cả việc chịu đựng và thích nghi với việc trị bệnh, những chuyến ra vào bệnh viện, phản ứng phụ và những phí tổn trị liệu. Sống với căn bệnh nan y, người bệnh thường sợ hãi, tự trách, giận dữ hoặc buồn rầu. Những cảm tính này sẽ khiến đời sống nặng nề buồn thảm hơn. Bệnh nhân có thể tìm những nguồn hỗ trợ chia sẻ qua quý vị hữu, thân nhân, chuyên viên tâm lý hoặc cả những bệnh nhân khác. Nguồn hỗ trợ có thể bao gồm: Bác sĩ, y tá, những chuyên viên trong nhóm trị liệu có thể trả lời hầu hết những câu hỏi liên quan đến bệnh trạng. Chuyên viên xã hội, chuyên viên tâm lý hoặc những vị lãnh đạo tôn giáo có thể giúp đỡ phần tinh thần. Chuyên viên xã hội có thể giới thiệu hoặc chỉ dẫn những nguồn tài trợ, việc chuyên chở, trị liệu tại nhà… Những nhóm hỗ trợ: bệnh nhân và người thân gặp gỡ các bệnh nhân khác và thân quyến họ để chia sẻ và trao đổi kinh nghiệm về căn bệnh và việc chữa trị. Những nhóm hỗ trợ này có thể gặp gỡ qua sự họp mặt, điện thoại, hoặc qua internet.
  18. Các chuyên viên tại 1-8-4-CANCER (điện thoại miễn phí trên lãnh thổ Hoa Kỳ) có thể giúp bệnh nhân tìm những chương trình hỗ trợ, dịch vụ và các tin tức, tài liệu liên quan đến ung thư Sự hứa hẹn của ngành khảo cứu ung thư Bác sĩ tại Hoa Kỳ đang thực hiện nhiều cuộc thử nghiệm lâm sàng. Thử nghiệm lâm sàng được hoạch định với mục đích trả lời các câu hỏi quan trọng về cách trị liệu hữu hiệu nhất. Những tìm hiểu khoa học đã tạo được nhiều lợi ích, giúp con người sống lâu hơn, và khoa học tiếp tục tìm kiếm. Các chuyên gia đang tìm kiếm phương pháp ngăn ngừa ung thư, cách tìm ra bệnh sớm hơn, cũng như cách trị liệu hiệu quả hơn.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2