Nuôi dơi bán phân - nghề lạ ở đồng
bằng sông Cửu Long
Trong cái nắng hè oi ả, tôi trở về chùa Thiên Long, ấp n Thuận, xã
Tân Hội Đông, huyện Châu Thành, tnh Tiền Giang thăm vị thượng tọa tr
trì tại nơi đây. Ngôi chùa thâm nghiêm, u tch nằm lọt thỏm giữa những vườn
cây ăn trái sum suê. Nhìn v phía sau chùa, tôi thấy một chòi cao nh
khênh trên những chòm cây. Ngạc nhiên tôi hỏi thầy trụ trì,được thầy cho
biết, đó là chuồng nuôi dơi!
Nghe thầy nói, tôi phân vân suy nghĩ: Tại sao nhà chùa lại nuôi dơi? Nuôi
dơi ích lợi gì? Như đoán được ý của tôi, thầy tươi cười chỉ vườn cam sành trĩu
quả và ôn tồn nói: “Cũng nhờ - ý chỉ phân dơi - mà cây trái quanh chùa tốt tươi,
khỏi mua phân bón, trái cây sau thu hoạch hương vthơm, ngọt đậm đà...”. Thầy
còn nói thêm: “Xài phân dơi rất tốt vì phân dơi nhiều kali, phosphor, không ô
nhiễm môi trường, thích hợp nhất cho các loại cây trồng như dưa hấu, cam sành,
sầu riêng, nhãn... Ngoài ra, trong đông y, phân i còn dùng m vthuốc chữa trị
chứng động kinh, nhức đầu, choáng váng, thong manh (tật của mắt nhìn không rõ).
Phân dơi khô, ban đêm trông nhấp nhánh như hạt cát, vì thế người Trung Quốc
gọi phân dơi là dạ minh sa”.
Nghe được câu chuyện thú vị, tôi
bèn đi sâu hơn hỏi thầy về cách thức làm
chuồng trại cũng như kỹ thuật nuôi dơi lấy
phân.
Dơi được nuôi ở đây là loài dơi muỗi
(Vespertilio), thuộc họ Vespertilionidae,
còn gọi dơi chuột vì nhnchuột lắt, là
loài động vật hoang dã sống trong thiên
nhiên, trọng lượng mỗi con khoảng vài chục gram. Như tên gọi của nó, loại i
này chăn muỗi, bướm, rầy, bồ hong (thiêu thân )..., không phá hại cây trái của
nhà nông như các loại i khác (dơi quạ, i chó, i sen...). Dơi cái sinh sản vào
khoảng tháng 3 - 4 âm lịch, mỗi lứa 2 con. Trong thời gian sinh sản, dơi cái vẫn
Chuồng nuôi dơi bán kiên cố
cặp nách con đi ăn nhưng không đi xa, khoảng 1 tuần lễ sau, i mẹ thả con ra đ
tập bay. Theo các nhà khoa học, hàng đêm mỗi con dơi thể ăn một khối lượng
côn trùng bằng khoảng nửa trọng lượng thể của chúng (trung bình 5.000 con
muỗi), góp phần diệt hàng tcôn trùng có hại cho nhà nông.
Dơi hoạt động vào ban đêm, và đi ăn vào khoảng chiều khi trời sụp tối. Nếu
gặp trời mưa, dơi trú trong chuồng đi ăn trn. Trước khi bay đi ăn, dơi đầu
đàn bay trước một vòng như dọ thám, rồi từng tốp mới bay ra sau. Dơi thể đi
săn mồi xa, nếu khu vực nơi i ngụ ít mồi, nhưng c khoảng 30 phút sau, i
trvề chuồng nghỉ cánh. một điều rất thú vlà, dơi ăn đầy bụng nơi đâu,
nhưng tuyệt đối khi trở về chuồng mới thải phân. Biết được những đặc tính nêu
trên, người ta làm chuồng nuôi dơi để lấy phân.
Dơi thích tìm nơi n tĩnh để trú ngụ. Vì thế, khi làm chuồng nuôi dơi, ta
cũng nên quan sát tìm vtrí thích hợp để đặt chuồng như chọn những i quang
đãng, cây cối thấp, ít tiếng động ồn ào... Chuồng nuôi i lớn hay nhỏ tùy theo
điều kiện tài chính của từng người. Thông thường diện tích khoảng 24 m2 (dài 8
m, ngang 4 m, cao 7 m). Cột làm chuồng là những cây tràm g(hoặc bạch đàn)
cao khoảng 7 - 8 m. Nhm cánh én hai đầu song để tránh gió lùa, cửa sổ đ
lên thay m vsinh chuồng trại. Bốn bên chuồng làm m che ấm cho dơi.
lợp phải để thời gian sử dụng lâu hơn. Nhớ dằn mái cẩn thận tránh gió
làm tốc mái, mưa ướt dơi bỏ chuồng đi.
Sau khi chuồng trại được hoàn tất, phía dưới mái chuồng, ta thả những cây
rượn (mỗi cây cách nhau khoảng 4 tấc) để treo làm nơi trú ngụ cho dơi. treo
phải là thốt lốt buộc thành từng xâu (1 xâu 5 tàu lá). Chia làm 3 khoảng, mỗi
khoảng 21 xâu (tổng cộng 315 tàu lá). Để thốt lốt khi vệ sinh chuồng trại, ta
nên mua dphòng khoảng 400 tàu thốt lốt trữ sẵn. Loại lá này hiện nay giá trên
thtrường khoảng 4.000 đồng một tàu (chưa nh ớc phí chuyên ch), và có bán
tại các tỉnh gần biên giới Campuchia như Châu Đốc, Tịnh Biên, Mộc Hóa...
Khi m ch trú ngụ cho i xong, ta bắt khoảng từ 6 đến 10 con dơi mồi
bvào 2 lồng lưới (thứ lồng lưới bẫy chuột) treo hai bên đầu song để i mồi phát
tiếng kêu rđàn về. Lưu ý, trước khi cho dơi vào lồng, ta phải cho dơi uống nước
đầy đủ, tránh i bị kiệt sức sẽ không phát ra tiếng kêu. Nếu i hoang dã không
về, thì khoảng 2 ngày sau ta th dơi mồi ra, tìm dơi mồi mới khác thay vào cho
đến khi có dơi hoang dã về thì ngưng.
Kẻ thù nguy him đối với dơi là rắn
(rắn lục, mdọ, hổ ngựa...), chim (bù cắt,
chim heo...), rệp và kiến. Để tránh tác
nhân gây hại này, ta phải những biện
pháp phòng ngừa. Đối với rắn, mỗi tr
cột ta phải bịt lưới cho rắn đừng bò lên
(thời gian hoạt động của rắn khoảng từ
Chuồng nuôi dơi thông thường
trưa đến chiều); với chim, vào ban đêm, ta phải dùng giàn thun (ná thun) bắn các
loài chim heo hay cắt bay vào chuồng để bắt dơi. Ngoài ra, một kthù tuy
thầm lặng, nhưng tác hại khôn lường khiến i bchuồng đi luôn không quay trở
lại - đó rệp. Như ta biết, i trú ngụ ban ngày bài tiết phân nước tiểu rất hôi,
và nước tiểu là nơi phát sinh ra rệp ở những xâu lá thốt lốt, và rệp tấn công dơi. Vì
thế, cứ khoảng 10 hoặc 15 ngày (tùy theo mật số dơi về trú ngnhiều hay ít), ta
phải đem những xâu xuống giặt sạch, phơi kvà thay mới. Nên nhthay
lá vào lúc dơi ra khỏi chuồng đi ăn (khoảng 6 giờ chiều), và thay lá nhanh trong 30
phút. Thay bằng ch một người leo lên chuồng dơi gỡ xâu cũ xuống, một
người đứng dưới buộc những xâu lá mới vào dùng dây kéo lên. Nếu thay không
kịp thì thay độ 1/3, rồi sau đó thay tiếp, vì dơi sau khi rời chuồng đi kiếm ăn
khoảng 30 phút sau lại quay về, nếu hơi lạ thì dơi sẽ bỏ đi. Còn đối với kiến,
dưới mỗi thân cột ta nên thoa du lửa hay quấn vải có tẩm dầu nhớt để kiến không
bò lên quấy rối dơi.
Để cho việc thu hoạch phân i được tốt, không bị thất thoát, dưới mỗi
chuồng ta phải trải tấm bạt hay lưới nylon mịn để thu hoạch phân dơi hàng ngày.
Nếu không thu hoạch sớm kiến sẽ tha phân, và nếu gặp trời mưa phân sẽ chảy ra.
những nơi nhiều dơi, mỗi chuồng lúc dơi về trú ngụ đầy đủ khi lên
khoảng trên 5.000 con. thế, số lượng phân dơi thải ra trong một ngày một đêm
t1 đến 2 giạ phân tươi (1 gi khoảng 10 đến 12 kg). Giá thị trường hiện nay