Đề bài: Phân tích bài thơ “Trở về quê nội” của Lê Anh Xuân<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Lê Anh Xuân (19401968) là nhà thơ miền Nam thuộc thế hệ thi sĩ trưởng thành trong <br />
kháng chiến chống Mỹ. Anh đã ngã xuống trên chiến trường Sài Gòn trong cuộc Tổng <br />
tiến công Tết Mậu Thân 1968. “Tiếng gà gáy”, “Hoa dừa”, “Trường ca Nguyễn Văn <br />
Trỗi” là ba tập thơ của Lê Anh Xuân gửi lại cho đất nước quê hương.<br />
<br />
Năm 1954, Lê Anh Xuân tập kết ra miền Bắc. Cuối năm 1964, anh trở lại miền Nam, trở <br />
lại Bến Tre quê nội, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra vô cùng ác liệt. Xa <br />
cách quê nội, đã “Mười một năm rồi ta nhớ, ta thương”.. Với 58 câu tự do, tác giả nói lên <br />
niềm xúc động và tự hào vẻ quê nội Bên Tre thân yêu của mình.<br />
<br />
Mở đầu là tiếng gọi quê hương cất lên thiết tha; giọng thơ tâm tình đằm thắm, lay động:<br />
<br />
“Ôi quê hương xanh biếc bóng dừa<br />
<br />
Có ngờ đâu hôm nay ta trở lại”.<br />
<br />
Gặp lại quê hương, nhìn bóng dừa xanh biếc thân thuộc, đứa con bồi hồi xúc động. “Có <br />
ngờ đâu”... vì niềm xúc động gặp lại quê cha đất mẹ thật quá lớn, như trong mơ. Nhà thơ <br />
tự hào vì trong bom đạn của giặc Mỹ, tuy có nhiều mất mát đau thương, nhưng quê <br />
hương “vẫn còn”, vẫn hiên ngang trong “dáng đứng Bến Tre” anh hùng:<br />
<br />
“Quê hương ta tất cả vẫn còn đây<br />
<br />
Dù người thân đã ngã xuống đất này”<br />
<br />
Cảm xúc chất chứa trong lòng bấy nay như tràn ra câu chữ, vần thơ. Sau bao năm dài xa <br />
cách, nay gặp lại quê hương, đứa con vô cùng xúc động: “ta gặp lại”, “ta yêu biết <br />
mấy”,“ta nhìn”, “ta ngắm”, “ta say”, “ta run run lắm... ”, “ta thương nhớ dồn trong tay ta <br />
nóng bỏng”. Chữ “ta” được điệp lại nhiều lần, liên kết với hàng loạt động từ vị ngữ <br />
(gặp lại, yêu, nhìn, ngắm, say... )đã cực tả niềm xúc động lớn lao, mãnh liệt dâng lên <br />
trong lòng của đứa con đi xa, nay được trở về gặp lại quê hương. Thương nhớ, xúc động, <br />
tự hào dâng lên dào dạt tưởng như tát mãi không bao giờ vơi:<br />
<br />
“Ta gặp lại những mặt người ta yêu biết mấy<br />
<br />
Ta nhìn, ta ngắm, ta say<br />
<br />
Ta run run nắm những bàn tay<br />
<br />
Thương nhớ dồn trong tay ta nóng bỏng”<br />
<br />
Mười câu mơ tiếp theo diễn tả thật hay niềm vui gặp gỡ quê hương sau những năm dài <br />
xa cách. Gặp lại con đường xưa, con đường tuổi thơ; "thương nhớ lắm” khi nghe tiếng <br />
võng đưa "kẽo kẹt”, khi nghe tiếng mẹ “ầu ơ…” ru con. Ngắm nhìn hoa cỏ quê nhà, bông <br />
trang trắng, bông trang hồng, hoa lục bình tím biếc mà tự hào về tấm lòng trong trắng <br />
thuỷ chung của người con gái Bến Tre, mà bồi hồi nhớ về hoài niệm tuổi thơ. Đây là <br />
những so sánh liên tưởng hay nhất, xúc động nhất trong thơ Lê Anh Xuân khi nói về tình <br />
yêu và niềm tự hào đối với cảnh sắc thiên nhiên và con người quê hương. Chữ “ơi ”cất <br />
lên như một tiếng tâm tình với bao trìu mến:<br />
<br />
“Ơi! những bông trang trắng, những bông trang hồng<br />
<br />
Như tấm lòng em trong trắng thủy chung<br />
<br />
Như trái tim em đẹp màu đỏ thắm<br />
<br />
Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm<br />
<br />
Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng<br />
<br />
Hoa lục bình tím cả bờ sông”.<br />
<br />
Hình tượng thơ, ngôn ngữ thơ đầy màu sắc đẹp: “bông trang trắng”, “bông trang hồng”, <br />
“tấm lòng em trong trắng”, “trái tim em… đỏ thắm”, “hoa lục bình tím…”, cùng với hình <br />
ảnh con sông tuổi thơ “Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng” mang hàm nghĩa nói lên vẻ <br />
đẹp và sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của quê hương. Câu “Hoa lục bình tím cả bờ sông” <br />
là một câu thơ hay, nhiều thi vị. Chữ “tím” là tính từ, trong văn cảnh được chuyển đổi từ <br />
loại thành động từ vị ngữ diễn tả tình cảm thủy chung dào dạt đối với quê nội.<br />
<br />
Phần thứ hai bài “Trở về quê nội” nói thật xúc động về con người quê hương. Bà mẹ và <br />
người em gái là hai nét vẽ đẹp nhất về quê nội thân yêu. Sự kết hợp yếu tố tự sự và trữ <br />
tình, kết hợp giữa bút pháp hiện thực với bút pháp lãng mạn đã tạo nên những vần thơ <br />
đằm thắm nhất thể hiện một cách sinh động cho sức sống và vẻ đẹp quê hương.<br />
<br />
Giọng thơ bùi ngùi qua lời mẹ kể về những đau thương mất mát của quê nhà: “Tám em <br />
bé chết vì bom xăng đặc – Trên đường đi học trở về Giặc giết chết mười người trong <br />
một ấp...”. Trong bom đạn giặc Mỹ, quê nội nhà thơ tang tóc, điêu tàn. Với Vũ Cao: <br />
“Bỗng cuối mùa chiêm, quân giặc tới Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau ” (Núi đôi). Với <br />
Hoàng Cầm: “Quê hương ta từ ngày khủng khiếp – Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn <br />
Ruộng ta khô Nhà ta cháy...” (Bên kia sông Đuống). Với Tố Hữu: “Làng ta giặc đốt mấy <br />
lần qua... ”(Quê mẹ),v.v... Và Bến Tre, quê nội Lê Anh Xuân:<br />
<br />
“Làng ta mấy lần bom gội nát<br />
<br />
Dừa ngã ngổn ngang, xơ xác bờ tre”,<br />
<br />
Cây dừa, cây tre mang nỗi đau, nỗi căm giận cùng quê hương, khi quê hội “đường trắng <br />
khăn tang” trong những năm dài đánh Mỹ xâm lược!<br />
<br />
Hình ảnh bà mẹ là biểu tượng cho chí khí bất khuất hiên ngang, cho tinh thần kiên cường <br />
cách mạng. Mẹ đào hầm bí mật, nuôi giấu chở che cán bộ “nằm vùng”. Nhà thơ xúc động <br />
tự hào:<br />
<br />
"Ta có ngờ đâu mái lều của mẹ,<br />
<br />
Dưới lớp đất kia ngọn lửa vẫn còn<br />
<br />
Mẹ ta tần tảo sớm hôm<br />
Nuôi các anh dưới hầm bí mật”.<br />
<br />
Hình tượng "ngọn lửa" là một sáng tạo thi ca giàu cảm xúc thẩm mĩ. Đó là ngọn lửa <br />
thiêng của lòng yêu nước, là ngọn lửa tình thương của lòng mẹ Việt Nam “anh hùng, bất <br />
khuất, trung hậu, đảm đang". Bà mẹ Bến Tre, bà mẹ quê nội là bà mẹ Việt Nam anh hùng <br />
đã "hi sinh gan gốc ”, đã 20 năm trời “giữ đất giữ làng”. Đây là những câu thơ hay dựng <br />
lên tượng đài bà mẹ miền Nam anh hùng với tất cả tấm lòng ngưỡng mộ, kính phục và <br />
biết ơn vô hạn:<br />
<br />
"Cả đời mẹ hy sinh gan góc<br />
<br />
Hai mươi năm giữ đất, giữ làng<br />
<br />
Ôi mẹ là bà mẹ miền Nam”.<br />
<br />
Tiếp theo hình ảnh bà mẹ là hình ảnh em gái quê hương. Những nét vẽ đẹp mang màu <br />
sắc lãng mạn đầy chất thơ làm hiện lên một “dáng đứng Bến Tre” xinh đẹp, duyên dáng, <br />
trong sáng, hồn nhiên, anh hùng. Với khẩu súng trên vai “Em đẹp lắm như mùa xuân bừng <br />
dậy", Mái tóc em mang hương vị hoa trái miệt vườn. Giọng cười của em trong trẻo ngọt <br />
ngào. Hương sầu riêng, nước dừa xiêm là tâm hồn trinh nữ. So sánh nào cũng độc đáo, thi <br />
vị:<br />
<br />
"Em ơi! Sao tóc em thơm vậy<br />
<br />
Hay em vừa đi qua vườn sầu riêng<br />
<br />
Ta yêu giọng em cười trong trẻo<br />
<br />
Ngọt ngào như nước dừa xiêm<br />
<br />
Yêu dáng em đi qua cầu tre lắt lẻo<br />
<br />
Dịu dàng như những nàng tiên”.<br />
<br />
Nàng tiên mà biết cầm súng đánh giặc, dáng điệu lại “dịu dàng” đáng yêu. Rõ ràng đó là <br />
những nét vẽ lãng mạn. Hồn thơ Lê Anh Xuân là hồn thơ chiến sĩ nên mới viết rất hay <br />
bằng cảm hứng lãng mạn về cô gái Bến Tre biểu tượng cho vẻ đẹp và sức sống quê <br />
hương:<br />
<br />
"Em là du kích, em là giao liên<br />
<br />
Em chính là quê hương ta đó<br />
<br />
Mười một năm rồi ta nhớ ta thương ",<br />
<br />
Cô gái quê hương được Hoàng Cầm nói đến trong bài thơ "Bên kia sông Đuống” là cô gái <br />
Kinh Bắc có "khuôn mặt búp sen ”, có nụ cười rạng rỡ “như mùa thu tỏa nắng”. Còn cô <br />
gái Bến Tre trong thơ Lê Anh Xuân là cô gái miệt vườn dũng cảm cầm súng đánh giặc, <br />
mà "Dịu dàng như những nàng tiên". Một nét rất mới trong thơ Lê Anh Xuân là hình ảnh <br />
em gái quê hương, cô du kích, cô giao liên thời đánh Mỹ. Thơ ca kháng chiến chống Pháp <br />
chưa có hình tượng về người con gái Việt Nam mang tầm vóc và vẻ đẹp như thế!<br />
<br />
Mười bốn câu trong đoạn ba, nhà thơ nói lên những cảm xúc, ý nghĩ trực tiếp của mình <br />
đối với quê hương. Lòng vui sướng biết bao, hạnh phúc biết bao! Đứa con bồi hồi xúc <br />
động: “sao thấy lòng ấm lạ” được trở về, “Đêm đầu tiên ta ngủ giữa quê hương”. Đó là <br />
niềm hạnh phúc tái ngộ của đứa con li hương đã “Mười một năm rồi..." xa cách. Vả lại, <br />
“Hạnh phúc nào không hạnh phúc đầu tiên” như Chế Lan Viên đã nói.<br />
<br />
Hàng loạt hình ảnh vừa hiện thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng nối tiếp xuất hiện: “trời <br />
tầm tã mưa tuôn”, “tiếng đại bác gầm rung”, những “hố bom” trên đường, “áo em vẫn <br />
còn mảnh vá”, tất cả đều cho thấy quê hương Bến Tre, miền Nam thân yêu đang đứng <br />
trước những thử thách nặng nề, cuộc chiến đấu đang diễn ra vô cùng ác liệt. Điệp từ <br />
“dù”, cấu trúc câu thơ “dù...vẫn ” để khẳng định một niềm tin, niềm tự hào:<br />
<br />
“Ôi quê hương ta đẹp quá!”<br />
<br />
“Đẹp quá” vì màu xanh biếc bóng dừa, vì màu trắng màu hồng của bông trang, đẹp vì lòng <br />
mẹ, vì tình em, “đẹp quá ” vì “dáng đứng Bến Tre” của quê nội:<br />
“Dù ngoài trời tầm tã mưa tuôn<br />
<br />
Tiếng đại bác gầm rung vách lá<br />
<br />
Ôi quê hương ta đẹp quá<br />
<br />
Dù trên đường còn những hố bom<br />
<br />
Dù áo em vẫn còn mảnh vá”<br />
<br />
Câu cảm thán rung ngân cảm xúc dâng trào. Điệp từ làm cho giọng thơ vang lên hào hùng, <br />
đĩnh đạc.<br />
<br />
Trở về quê nội là để dấn thân vào cuộc chiến đấu sinh tử với quân thù, để giải phóng <br />
miền Nam. Hành trang chỉ có “trái tim chung thủy, sắc son”, chỉ có “khẩu súng... cháy <br />
bỏng căm hờn”. Tiếng thơ hùng tráng vang lên như một lời thề chiến đấu cao cả và <br />
thiêng liêng:<br />
<br />
“Ta về đây, chẳng mang gì cho em cả<br />
<br />
Chỉ có trái tim chung thủy, sắt son<br />
<br />
Và khẩu súng trong tay cháy bỏng căm hờn”.<br />
<br />
Lê Anh Xuân đã trở về quê nội với trái tim và tấm lòng “chung thủy sắt son” của đứa con <br />
đối với quê hương; với tư thế chiến đấu “cháy bỏng căm hờn” của người chiến sĩ. Và <br />
anh đã ngã xuống trên chiến trường trong tư thế người anh hùng.<br />
<br />
“Trở về quê nội” là một trong những bài thơ hay và xúc động viết về cảm hứng quê <br />
hương thời đánh Mỹ. Hàng loạt câu thơ cảm thán nối tiếp xuất hiện (”Ôi quê <br />
hương”...,“Ôi những bông trang trắng,..”,”Ôi bà mẹ là bà mẹ miền Nam”…,”Em <br />
ơi!”…,“Ôi quê hương ta đẹp quá!”) diễn tả một cái nhìn vô cùng say mê và xúc động của <br />
nhà thơ đối với quê hương. Từ cảnh vật đến con người, từ hoài niệm đến hiện tại đau <br />
thương, hình bóng quê hương đồng hiện trong không gian thời gian trong tâm tưởng <br />
nhà thơ. Tình yêu quê hương sâu nặng, cảm xúc thiết tha say mê, ngôn ngữ hình tượng <br />
giàu chất lãng mạn đã tạo nên cốt cách thi sĩ chiến sĩ của Lê Anh Xuân. “Trở về quê <br />
nội” là bài thơ viết về tình yêu quê hương đất nước xuất hiện trong thời kháng chiến <br />
chống Mỹ đã cho ta nhiều bồi hồi xúc động.<br />