Đề bài: Phân tích nỗi nhớ của người cán bộ Cách mạng về xuôi đối với Việt Bắc <br />
trong bài Việt Bắc, Tố Hữu<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Bài thơ Việt Bắc là bài thơ được trích trong tập thơ Việt Bắc (1947 1954) của Tố Hữu. <br />
Tên bài thơ đã trở thành tên chung của cả tập thơ vì bài thơ đã thể hiện được những tình <br />
cảm tiêu biểu cho cả tập thơ. Bài thơ đã bộc lộ những tình cảm thiết tha, mặn nồng, gắn <br />
bó, thủy chung, son sắt của Việt Bắc đối với người cán bộ về xuôi và ngược lại người <br />
cán bộ cách mạng về xuôi cũng bộc lộ những tình cảm ấy đối với Việt Bắc trong buổi <br />
chia ly bằng sự khẳng định nỗi nhớ của mình đối với Việt Bắc.<br />
<br />
Mở đầu bài thơ, Việt Bắc đã hỏi người cán bộ cách mạng về xuôi:<br />
<br />
Mình về, mình có nhớ ta<br />
<br />
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng<br />
<br />
Câu hỏi này của Việt Bắc có nghĩa là: Anh về anh có nhớ tôi không? Nhớ anh và tôi đã <br />
gắn bó thiết tha mặn nồng suốt mười lăm năm ở Việt Bắc không? Và sau đó là hàng loại <br />
câu hỏi của Việt Bắc cũng mang nội dung này:<br />
<br />
Mình đi có nhớ những ngày<br />
<br />
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù<br />
<br />
Mình về có nhớ chiến khu<br />
<br />
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai<br />
<br />
Mình về rừng núi nhớ ai<br />
<br />
Trám bùi để rụng măng mai để già<br />
<br />
Mình đi có nhớ những nhà<br />
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son<br />
<br />
Mình về còn nhớ núi non<br />
<br />
Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh Việt Bắc cứ sợ người cán bộ cách mạng về <br />
xuôi quên mình nên cứ gợi lại những hình ảnh ở Việt Bắc, với bao hình ảnh thân thương <br />
đậm đà tình nghĩa. Việt Bắc vừa bộc lộ yêu thương vừa<br />
<br />
khao khát được yêu thương, nên cứ hỏi: "Mình đi có nhớ...", "mình về có nhớ... "Mình về <br />
còn nhớ...?"...<br />
<br />
Để trả lời cho những câu hỏi này của Việt Bắc, người cán bộ cách mạng về xuôi đã <br />
khẳng định với Việt Bắc một điều thật chắc chắn rằng sẽ không bao giờ quên Việt Bắc, <br />
vẫn trước sau như một, không bao giờ thay đổi:<br />
<br />
Ta với mình, mình với ta<br />
<br />
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh<br />
<br />
Mình đi mình lại nhớ mình<br />
<br />
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu<br />
<br />
"Ta" với "mình" gắn bó, xoắn xuýt, quyện chặt vào nhau làm nồng ấm cả một mối tình. <br />
Lòng người cán bộ cách mạng về xuôi đã chan chứa bao nhiêu tình cảm với Việt Bắc. <br />
Câu thơ "nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu" đã nói lên tất cả điều ấy.<br />
<br />
Để làm nổi bật nỗi nhớ da diết của người cán bộ Cách mạng về xuôi đối với Việt Bắc <br />
nhà thơ đã sử dụng điệp từ "nhớ" lặp đi, lặp lại rất nhiều lần và đặc biệt là nhà thơ đã so <br />
sánh nỗi nhớ ấy như nỗi nhớ trong tình yêu "Nhớ gì như nhớ người yêu". Đây là một sự <br />
so sánh thật độc đáo của Tố Hữu, bởi trong muôn ngàn nỗi nhớ của con người trên cuộc <br />
đời, có lẽ nỗi nhớ trong tình yêu là nỗi nhớ ray rứt nhất quay quắt nhất. Ông cha ta ngày <br />
trước cũng đã bộc lộ khá độc đáo tâm trạng này:<br />
<br />
Đêm nằm lưng chẳng tới giường<br />
Trông trời mau sáng ra đường gặp em<br />
<br />
(Ca dao)<br />
<br />
Hay:<br />
<br />
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi<br />
<br />
Như đứng đống lửa như ngồi đống than<br />
<br />
(Ca dao)<br />
<br />
Cho nên, ở đây nhà thơ chỉ có mượn nỗi nhớ trong tình yêu mới nói hết được nỗi nhớ của <br />
người cán bộ Cách mạng về xuôi đối với Việt Bắc. Hình ảnh cảnh vật ở Việt Bắc và <br />
con người Việt Bắc cứ sống dậy mãnh liệt trong tâm hồn kẻ ra đi. Nỗi nhớ Việt Bắc của <br />
người cán bộ cách mạng hiện lên trong từng màu sắc, từng hình ảnh của thiên nhiên và <br />
con người Việt Bắc. Những hình ảnh này như hòa quyện vào nhau, cảnh Việt Bắc đẹp và <br />
con người Việt Bắc cũng đẹp.<br />
<br />
Cảnh vật Việt Bắc và con người Việt Bắc hiện lên trong nỗi nhớ của người cán bộ qua <br />
bốn mùa. Mùa nào cũng đẹp, cũng nên thơ, cũng sinh động và dạt dào sức sống:<br />
<br />
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi<br />
<br />
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng<br />
<br />
Ngày xuân mơ nở trắng rừng<br />
<br />
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang<br />
<br />
Ve kêu rừng phách đổ vàng<br />
<br />
Nhớ cô em gái hái măng một mình<br />
<br />
Rừng thu trăng rọi hòa bình<br />
<br />
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung<br />
Hình ảnh Việt Bắc trong trí nhớ của người cán bộ về xuôi còn là một thiên nhiên hùng vĩ. <br />
Thiên nhiên ấy đã trở thành một nhân vật che chở cho bộ đội, đã vây lá quân thù, cùng <br />
nhân dân đánh giặc, trở thành một vùng chiến khu mênh mông:<br />
<br />
Nhớ khi giặc đến, giặc lùng<br />
<br />
Rừng cây, núi đá ta cùng đánh Tây<br />
<br />
Núi giăng thành lũy sắt dày<br />
<br />
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù<br />
<br />
Mênh mông bốn mặt sương mù<br />
<br />
Đất trời ta cả chiến khu một lòng<br />
<br />
Càng nhớ Việt Bắc, người ra đi càng tự hào về Việt Bắc, bởi chính Việt Bắc là nơi ghi <br />
nhận những hình ảnh hào hùng của quân và dân ta trong thời kì kháng chiến chống Pháp:<br />
<br />
Những đường Việt Bắc của ta<br />
<br />
Đêm đêm rầm rập như là đất rung<br />
<br />
Quân đi điệp điệp trùng trùng<br />
<br />
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan<br />
<br />
Dân công đỏ đuốc từng đoàn<br />
<br />
Dấu chân nát đá muôn tàn lửa bay<br />
<br />
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày<br />
<br />
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên<br />
<br />
Việt Bắc còn là nơi ghi dấu, mở ra nhiều chiến công của quân và dân ta, đem lại bao <br />
niềm vui chiến thắng của dân tộc ta:<br />
Tin vui chiến thắng trăm miền<br />
<br />
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về<br />
<br />
Vui từ Đồng Tháp, An Khê<br />
<br />
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng<br />
<br />
Người ra đi nhớ Việt Bắc cũng chính là nhớ nơi ghi dấu bao hoạt động của Trung ương <br />
Đảng và Chính phủ:<br />
<br />
Ai về ai có nhớ không<br />
<br />
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang<br />
<br />
Nắng trưa rực rỡ sao vàng<br />
<br />
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công<br />
<br />
Điều quân chiến dịch thu đông<br />
<br />
Nông thôn phát động giao thông mở đường<br />
<br />
Giữ đê phòng hạn thu lương<br />
<br />
Gửi dao miền ngược thêm trường các khu<br />
<br />
Người cán bộ cách mạng về xuôi nhớ Việt Bắc không những chỉ nhớ thiên nhiên, núi <br />
rừng Việt Bắc mà còn nhớ những con người Việt Bắc chân chất, đậm đà tình nghĩa, cần <br />
cù trong lao động và rất thủy chung, son sắt.<br />
<br />
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng<br />
<br />
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô<br />
<br />
Nhớ Việt Bắc, người cán bộ về xuôi không thể nào quên hình ảnh của Bác Hồ trong <br />
những năm tháng Người sống nơi đây, bởi Người là ánh sáng, là niềm tin của cả dân tộc.<br />
Ở đâu u ám quân thù<br />
<br />
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi<br />
<br />
Ở đâu đau đớn giống nòi<br />
<br />
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền<br />
<br />
Mười lăm năm ấy ai quên<br />
<br />
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa<br />
<br />
Tóm lại, nỗi nhớ của người cán bộ Cách mạng về xuôi qua nghệ thuật diễn đạt của nhà <br />
thơ đó là một nỗi nhớ ray rứt, quay quắt như nỗi nhớ trong tình yêu, một nỗi nhớ có <br />
nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều góc độ khác nhau. Nỗi nhớ ấy là cả một tấm lòng yêu <br />
thương, gắn bó, thủy chung, son sắt của người cán bộ cách mạng về xuôi đối với Việt <br />
Bắc. Mối quan hệ tình cảm thắm thiết này đã nói lên được những tình cảm cách mạng <br />
cao đẹp của con người Việt Nam.<br />
<br />
Bài làm 2<br />
<br />
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hòa bình lập lại, miền Bắc được giải phóng và tháng 10 <br />
năm 1945 các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ về chiến khu Việt Bắc về Hà <br />
Nội. Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử này, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc.<br />
<br />
Việt Bắc gồm hai phần: phần đầu tái hiện những kỷ niệm cách mạng và kháng chiến; <br />
phần sau gợi viễn cảnh tươi sáng của đất nước khi hòa bình lập lại và ngợi ca công ơn <br />
của Đảng của bác Hồ với dân tộc. Đoạn trích thuộc phần đầu của bài thơ.<br />
<br />
Nội dung chính diễn tả những tình cảm cách mạng cao quý của nhân dân ta trong thời kỳ <br />
kháng chiến chống Pháp. Tố Hữu đã dùng lối hát giao duyên đối đáp giữa nam và nữ trong <br />
các hội hè đình đám ở miền Bắc nước ta. Trong ca dao, motip cặp từ mình ta rất phổ <br />
biến:<br />
<br />
Mình về có nhớ ta chăng<br />
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười<br />
<br />
Mình về ta chẳng cho về<br />
<br />
Ta nắm vạt áo, ta đề bài thơ<br />
<br />
Mình về mình có nhớ chăng<br />
<br />
Ta về như lạt buộc khăn nhớ mình.<br />
<br />
Ta về ta cũng nhớ mình<br />
<br />
Nhớ yếm mình mặc, nhớ tình mình trao.<br />
<br />
Tố hữu thay vào nội dung tình yêu đôi lứa của dân ca bằng tình nghĩa cách mạng, tấm <br />
lòng son sắt thủy chung với Đảng, với nhân dân, qua cách nói cách xưng hô Mình Ta. <br />
Tình cảm cao quý đó trở nên gần gũi, thắm thiết hơn:<br />
<br />
Mình về mình có nhớ ta?<br />
<br />
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.<br />
<br />
Mình về mình có nhớ không?<br />
<br />
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.<br />
<br />
Mình đi, có nhớ những ngày<br />
<br />
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?<br />
<br />
Ta với mình, mình với ta<br />
<br />
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh<br />
<br />
Mình đi, mình lại nhớ mình<br />
<br />
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...<br />
Nhân vật trữ tình trong bài thơ là người cán bộ cách mạng về xuôi. Họ là tượng trưng cho <br />
dân tộc kinh và người dân Việt Bắc, tượng trưng cho dân tộc miền ngược. Do đó tình <br />
cảm cách mạng ở đây còn là tình đoàn kết gắn bó giữa hai vùng miền xuôi miền ngược, <br />
thể hiện chính sách dân tộc của Đảng ta và nhà nước ta.<br />
<br />
Hai mươi câu thơ đầu là lời trao gửi ân tình thắm thiết của Việt Bắc đối với cán bộ cách <br />
mạng về xuôi. Một loạt câu hỏi tu từ và điệp kiểu câu:<br />
<br />
Mình về mình có nhớ ta?<br />
<br />
Mình về mình có nhớ không?<br />
<br />
Tiếng ai tha thiết bên cồn?<br />
<br />
Mình đi, có nhớ những ngày?<br />
<br />
Tác giả gửi cho người đọc cảm nhận được tình cảm lưu luyến không muốn rời trong <br />
buổi chia tay người đi kẻ ở. Nhớ Việt Bắc là nhớ quê hương cách mạng, nhớ ngọn nguồn <br />
cách mạng, nơi để bao bọc những người cán bộ, chiến sĩ cách mạng trong những ngày <br />
đầu của cuộc kháng chiến còn nhiều sóng gió:<br />
<br />
Mình về mình có nhớ ta?<br />
<br />
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.<br />
<br />
Hình ảnh mười lăm năm ấy là một hình ảnh cụ thể, nhắc nhở thời kỳ đầu thành lập lực <br />
lượng vũ trang, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, cho đến ngày <br />
kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Cả một thời gian dài gian khổ, đắng cay ấy, Việt Bắc <br />
đã ân tình, ơn nghĩa với cách mạng như thế, cho nên: nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ <br />
nguồn.<br />
<br />
Người ra đi làm sao tránh khỏi tâm trạng xao xuyến, bâng khuâng? Hai tính từ láy "bâng <br />
khuâng", "bồn chồn" cùng hiện diện trong câu thơ đổi ý càng khắc họa đậm nét tâm trạng <br />
ấy:<br />
Tiếng ai tha thiết bên cồn<br />
<br />
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi<br />
<br />
Áo chàm đưa buổi phân ly<br />
<br />
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...<br />
<br />
Niềm vui nỗi buồn của những tháng ngày cùng nhau vào sinh ra tử gửi lại miền đất. <br />
Nhưng sự ghi nhớ công ơn cưu mang của đồng bào Việt Bắc mãi mãi sẽ còn ở trong trái <br />
tim của người cách mạng khi về xuôi. Những câu hỏi của của người ở lại cũng là lời tự <br />
nhắc nhở mình của người đi:<br />
<br />
Mình đi, có nhớ những ngày<br />
<br />
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?<br />
<br />
Mình về, có nhớ chiến khu<br />
<br />
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?<br />
<br />
Nhớ Việt Bắc còn là những kỷ niệm gian khổ, khó khăn trong thời kỳ kháng chiến. Câu <br />
thơ thơ liệt kê "mưa nguồn suối lũ" được nhấn mạnh thêm bằng từ ngữ, cùng "những <br />
mây cùng mù" để tạo một loạt, nhấn mạnh thêm ý gian khổ, vất vả của cuộc kháng <br />
chiến. Hình ảnh "miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai" có sức khái quát cao. Ý thơ <br />
nói lên tình đoàn kết chiến đấu, chia sẻ gian lao giữa hai vùng miền xuôi miền ngược là <br />
thấm thía, là sâu sắc, bền chặt.<br />
<br />
Nhớ Việt Bắc cũng là nhớ tình nghĩa đồng bào. Bằng cách nói mộc mạc, diễn tả tình cảm <br />
kín đáo mà tha thiết, tác giả bộc lộ niềm thương nhớ nỗi nhớ của người ở lại:<br />
<br />
Mình về, rừng núi nhớ ai<br />
<br />
Trám bùi để rụng, măng mai để già<br />
<br />
Mình đi, có nhớ những nhà<br />
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son<br />
<br />
Mình về, còn nhớ núi non<br />
<br />
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh<br />
<br />
Mình đi, mình có nhớ mình<br />
<br />
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?<br />
<br />
Trám bùi để rụng, măng mai để già là cách nói bình dị mà sâu sắc vô cùng. Trám và măng <br />
là đặc sản quen thuộc của Việt Bắc. Đặc sản ấy từng là nguồn thức ăn của nhân dân và <br />
bộ đội trong những ngày kháng chiến. Ngày nay, qua rồi thời kỳ đói khổ, khó khăn, nhắc <br />
nhở những sản phẩm này với tấm lòng thiết tha trìu mến đối với Việt Bắc; xem đó là kỷ <br />
niệm sâu sắc trong đời. Qua đó làm nổi bật tấm lòng son sắt, thủy chung của người miền <br />
ngược và người miền xuôi.<br />
<br />
Đoạn sau là lời đáp tiếp theo tình nghĩa của cán bộ cách mạng trước lúc chia tay. Tố Hữu <br />
đã tái hiện thành công cảnh và người Việt Bắc bằng những chi tiết tiêu biểu nhất, đẹp đẽ <br />
nhất:<br />
<br />
Ta với mình, mình với ta<br />
<br />
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh<br />
<br />
Mình đi, mình lại nhớ mình<br />
<br />
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...<br />
<br />
Nhớ gì như nhớ người yêu<br />
<br />
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương<br />
<br />
Nhớ từng bản khói cùng sương<br />
<br />
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.<br />
Nhớ từng rừng nứa bờ tre<br />
<br />
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy<br />
<br />
Ta đi, ta nhớ những ngày<br />
<br />
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...<br />
<br />
Thương nhau, chia củ sắn lùi<br />
<br />
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng<br />
<br />
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng<br />
<br />
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô<br />
<br />
Nhớ sao lớp học i tờ<br />
<br />
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan<br />
<br />
Nhớ sao ngày tháng cơ quan<br />
<br />
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.<br />
<br />
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều<br />
<br />
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...<br />
<br />
Tuy thiếu thốn, gian khổ nhưng cảnh và người Việt Bắc đẹp và tình nghĩa chan hòa. Tình <br />
nghĩa sâu đậm ấy thể hiện qua hình ảnh tượng trưng "chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, <br />
chăn sui đắp cùng" kết hợp với cách dùng từ cùng nghĩa chia sẻ. Cách dùng từ mượt mà <br />
diễn tả được mối tình cảm chia ngọt sẻ bùi giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách <br />
mạng. Biết bao tình nghĩa sâu nặng trong "củ sắn", "bát cơm", "chăn sui" mà người cán <br />
bộ cách mạng đã chịu ơn Việt Bắc<br />
<br />
Hình ảnh thơ được chọn lọc kỹ lưỡng khi nói về nỗi vất vả và hi sinh của con người <br />
Việt Bắc đối với cách mạng. Hình ảnh người mẹ nắng cháy lưng gợi cho người đọc liên <br />
tưởng đến sự tảo tần chắt chiu, sự cần cù lao động của bà mẹ chiến sĩ Việt Nam trong <br />
kháng chiến đã đùm bọc,cưu mang chiến sĩ, cán bộ cách mạng. Đó là hình ảnh tiêu biểu <br />
cho cái đẹp, cái ân tình trong cuộc sống kháng chiến không thể phai nhòa trong ký ức của <br />
người về xuôi.<br />
<br />
Đoạn thơ còn lại dựng lên những khung cảnh quen thuộc với những hình ảnh và âm thanh <br />
theo suất tiêu biểu cho sinh hoạt trong kháng chiến ở Việt Bắc. Câu thơ đối ý về nêu bật <br />
tinh thần lạc quan yêu đời của cán bộ, chiến sĩ cách mạng dù cuộc sống còn rất gian khổ, <br />
khó khăn:<br />
<br />
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo<br />
<br />
Âm thanh tiếng "mõ rừng chiều" và "chày đêm nện cối đều đều suối xa" là âm thanh đặc <br />
trưng của Việt Bắc, phản ánh sinh hoạt yên ả, bình dị nơi núi rừng, gợi nhớ một thời đã <br />
qua.<br />
<br />
Đặc sắc nhất là đoạn thơ hồi ức về cảnh đẹp rừng núi Tây Bắc qua bốn mùa trong năm <br />
tươi xanh:<br />
<br />
Ta về, mình có nhớ ta<br />
<br />
Ta về ta nhớ những hoa cùng người<br />
<br />
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi<br />
<br />
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.<br />
<br />
Ngày xuân mơ nở trắng rừng<br />
<br />
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang<br />
<br />
Ve kêu rừng phách đổ vàng<br />
<br />
Nhớ cô em gái hái măng một mình<br />
<br />
Rừng thu trăng rọi hòa bình<br />
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.<br />
<br />
Một loạt từ chỉ màu sắc: xanh, đỏ tươi, trắng, vàng tạo một cảm giác tươi mát, vui mắt <br />
các bức tranh phong cảnh. Mùa xuân với hoa mai nở trắng rừng. Mùa hè với âm thanh ra <br />
kêu tạo thành một bạn học tới của rừng xanh. Mùa thu với ánh trăng hòa bình êm đềm <br />
trong sáng. Giữa cây cỏ thiên nhiên, con người Việt Bắc xuất hiện với sự hiền hòa, nhân <br />
hậu, trong tư thế lao động cần cù, tự tin. Hình ảnh "dao gài thắt lưng", "đan nón chuốt <br />
từng sợi giang", "hái măng một mình" mang sức sống mạnh mẽ, khiến bức tranh thiên <br />
nhiên trở nên sinh động và có ý nghĩa hơn.<br />
<br />
Việt Bắc còn ghi lại những chiến công của bộ đội, nhân dân ta trong kháng chiến chống <br />
Pháp. Đoạn thơ toát lên vẻ đẹp hào hùng của dân quân ta:<br />
<br />
Những đường Việt Bắc của ta<br />
<br />
Đêm đêm rầm rập như là đất rung<br />
<br />
Quân đi điệp điệp trùng trùng<br />
<br />
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan<br />
<br />
Bằng những điệp từ điệp điệp, trùng trùng và từ ngữ láy phụ âm đầu rầm rập diễn tả <br />
được hào khí ngút trời của bộ đội, dân công trên đường ra mặt trận. Với lối nói thậm <br />
xưng, bước chân nát đá tác giả cũng muốn nhấn mạnh sự lớn dậy và kiên cường, bất <br />
khuất của bộ đội ta thời kì này. Họ bước đi trong ánh sáng của lí tưởng yêu nước và cách <br />
mạng dẫn đường. Họ đưa dân tộc bước đến tương lai tươi sáng. "Ánh sao đầu súng" là <br />
một hình ảnh tuyệt đẹp. Nó khiến ta nhớ đến hình ảnh "đầu súng trăng treo" trong bài thơ <br />
đồng chí của Chính Hữu khi nói về người lính thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. <br />
Cũng là ánh sáng ấy, nhưng giờ đây nó lớn mạnh và rực rỡ vô cùng.<br />
<br />
Quê hương Việt Bắc còn là đầu não của cuộc kháng chiến toàn quốc, là niềm tin vững <br />
chắc của nhân dân về lãnh tụ:<br />
<br />
Ở đâu u ám quân thù<br />
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi<br />
<br />
Ở đâu đau đớn giống nòi<br />
<br />
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.<br />
<br />
Mười lăm năm ấy ai quên<br />
<br />
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà<br />
<br />
Đoạn thơ nhấn mạnh uy tín của Bác, của Đảng đối với toàn dân, toàn quân trong thời kỳ <br />
kháng chiến gian khổ.<br />
<br />
Việt Bắc là bài thơ thành công của Tố Hữu và của nền thơ cách mạng Việt Nam. Bằng <br />
thể thơ lục bát mang âm hưởng ngọt ngào, thiết tha của ca dao dân ca, Tố Hữu đã ghi lại <br />
những lời giao đối, những câu hỏi da diết, những tiếng vọng thủy chung của người đi kẻ <br />
ở trong một cuộc chia tay đầy lưu luyến. Từ lẽ sống và tình cảm lớn lao đến giọng điệu <br />
tâm tình ngọt ngào, từ những bút pháp nghệ thuật đậm đà tính dân tộc cho đến những thi <br />
liệu, thi tứ phảng phất âm hưởng của ca dao dân ca hết sức chân tình. Tình nghĩa của <br />
người cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng, kháng chiến, với Bác Hồ là những <br />
tình cảm cách mạng sâu sắc của thời đại mới. Những tình cảm ấy hòa nhập và tiếp nối <br />
mạch nguồn tình cảm yêu nước, đạo lí ân tình thủy chung vốn là truyền thống sâu bền <br />
của dân tộc.<br />
<br />
<br />