Đề bài: Phân tích nỗi nhớ mong và tâm trạng trách móc của chàng trai trong bài thơ <br />
Tương tư<br />
Dàn ý chi tiết<br />
1/ Mở bài<br />
Giới thiệu tác giả và bài thơ: Bài thơ “Tương tư” của Nguyễn Bính đã đề cập tới một <br />
dạng thức sống động nhất của tình yêu, đó chính là tương tư. Đó là tâm trạng của một <br />
tâm hồn đang nhớ của một trái tim đang yêu, chàng trai trong bài thơ không chỉ có nỗi nhớ <br />
mong mà thêm vào đó là cả sự hờn giận, trách móc vô cùng nhẹ nhàng<br />
2/ Thân bài<br />
Nỗi nhớ mong của chàng trai: Tác giả đã sử dụng hình ảnh của hai thôn để biểu thị cho <br />
hai cá thể, hình ảnh đó thật tinh tế, bởi nó đã phần nào cho thấy nỗi nhớ mong của chàng <br />
trai đã mênh mang, lan tỏa vào trong không gian, cảnh vật của làng quê nơi anh đang sinh <br />
sống<br />
Sự chờ đợi, trông ngóng của chàng trai: Căn bệnh tương tư sẽ chẳng chừa một ai khi họ <br />
đã và đang muốn dấn thân vào thứ tình yêu thương ngọt ngào xen lẫn khổ đau. Nỗi tương <br />
tư làm cho con người ta mệt mỏi, dằn vặt nhưng chính nó là gia vị và màu sắc của tình <br />
yêu<br />
Sự hờn giận, trách móc của chàng trai: Chàng trai hờn trách rằng hai thôn gần nhau, <br />
chẳng xa cách đáng là bao, chẳng cách trở đò ngang, sông dài mà chỉ “cách một đầu đình” <br />
mà bên ấy lại để cho bên này chờ đợi trong mòn mỏi, phải tương tư khổ sở đến thế. Phải <br />
chăng không phải ngại đường xá khó khăn mà em không sang mà là do em không muốn <br />
sang<br />
3/ Kết bài: Ý nghĩa nỗi nhớ mong và tâm trạng trách móc của chàng trai: Có thể thấy, <br />
chàng trai tương tư của Nguyễn Bính càng yêu thương thì lại càng nhớ mong, trông <br />
ngóng, mà càng nhớ lại càng chờ đợi sự hồi âm, đáp lại tình cảm, thế nhưng càng chờ anh <br />
lại càng trách móc sự hững hờ của người con gái mình yêu.<br />
Bài tham khảo<br />
Bài thơ “Tương tư” của Nguyễn Bính đã đề cập tới một dạng thức sống động nhất của <br />
tình yêu, đó chính là tương tư. Đó là tâm trạng của một tâm hồn đang nhớ của một trái tim <br />
đang yêu, chàng trai trong bài thơ không chỉ có nỗi nhớ mong mà thêm vào đó là cả sự hờn <br />
giận, trách móc vô cùng nhẹ nhàng, đó chính là khi trong con người chàng trai ấy đã mắc <br />
phải “căn bệnh” tương tư.<br />
Mở đầu bài thơ, cũng như là dấu hiệu đầu tiên của căn bệnh tương tư chính là sự nhớ <br />
mong, chàng trai quê chân chất với tình yêu chớm nở còn e ấp, mang trong mình nỗi nhớ <br />
nhung da diết, khắc khoải:<br />
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông<br />
Một người chín nhớ mười mong một người”<br />
Tác giả đã sử dụng hình ảnh của hai thôn để biểu thị cho hai cá thể, hình ảnh đó thật tinh <br />
tế, bởi nó đã phần nào cho thấy nỗi nhớ mong của chàng trai đã mênh mang, lan tỏa vào <br />
trong không gian, cảnh vật của làng quê nơi anh đang sinh sống. Giống như nhà thơ <br />
Nguyễn Du đã từng nhận xét “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, khi con người ta nhớ <br />
mong, dường như mọi cảnh vật cũng theo đó mà mang nỗi nhớ nhung. Tuy là “thôn Đoài” <br />
nhớ “thôn Đông” nhưng thực ra là người ở thôn Đoài nhớ người ở thôn Đông, cụ thể hơn <br />
chính là chàng trai ở thôn Đoài nhớ người con gái ở thôn Đông, nhớ nhung rất nhiều. Tác <br />
giả dùng trực tiếp từ “nhớ” để diễn tả nỗi nhớ, tuy nhiên nỗi nhớ ấy lại chịu sự ngăn <br />
cách của “chín nhớ mười mong”, sự nhớ mong vừa là cầu nối lại vừa là bức ngăn cách để <br />
chàng trai tìm tới người con gái mình yêu. Số đếm trong nỗi nhớ còn có tác dụng làm cho <br />
nỗi nhớ ngày càng tăng lên gấp bội. Nỗi nhớ da diết của chàng trai khiến cho tác giả phải <br />
nhắc tới căn bệnh tương tư:<br />
“Gió mưa là bệnh của trời<br />
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”<br />
Căn bệnh tương tư sẽ chẳng chừa một ai khi họ đã và đang muốn dấn thân vào thứ tình <br />
yêu thương ngọt ngào xen lẫn khổ đau. Nỗi tương tư làm cho con người ta mệt mỏi, dằn <br />
vặt nhưng chính nó là gia vị và màu sắc của tình yêu. Chàng trai quê thật thà chất phác ấy <br />
đã không ngại mà nói về căn bệnh của mình, gió mưa là quy luật tự nhiên của trời đất, <br />
người con trai yêu nhưng không được người con gái đáp lại nên đành tương tư. Thế rồi từ <br />
nỗi nhớ mong lâu ngày, chàng trai muốn được nhìn thấy người mình yêu, anh trông ngóng <br />
chờ đợi nhưng không thấy, chàng trai bỗng nhiên buông lời trách móc nhẹ nhàng:<br />
“Hai thôn chung lại một làng…<br />
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”<br />
Chàng trai hờn trách rằng hai thôn gần nhau, chẳng xa cách đáng là bao, chẳng cách trở đò <br />
ngang, sông dài mà chỉ “cách một đầu đình” mà bên ấy lại để cho bên này chờ đợi trong <br />
mòn mỏi, phải tương tư khổ sở đến thế. Phải chăng không phải ngại đường xá khó khăn <br />
mà em không sang mà là do em không muốn sang. Đã chờ đợi lâu thế rồi mà “bên ấy” <br />
chẳng chịu sang chơi “bên này”, càng chờ càng thấy vắng bóng, chàng trai càng băn khoăn. <br />
Đối với một tâm hồn đang yêu cháy bỏng mà nói, sự chờ đợi được nhân lên rất nhiều lần, <br />
dù là một ngày hay chỉ một giờ không được gặp người mình yêu cũng dài như mấy năm <br />
vậy. Sự chờ đợi của chàng trai đã trải dài theo thời gian “Ngày qua ngày lại qua ngày”, <br />
mong chờ dài đặng đến nỗi vạn vật thay đổi, lá xanh đã thành lá vàng. Màu sắc từ xanh <br />
chuyển vàng còn thể hiện sự chờ đợi của chàng trai trong héo mòn, khô úa. Sự chờ đợi <br />
đến như vậy, chàng trai làm sao tránh khỏi sự hờn trách, trách móc trong tình yêu.<br />
Có thể thấy, chàng trai tương tư của Nguyễn Bính càng yêu thương thì lại càng nhớ <br />
mong, trông ngóng, mà càng nhớ lại càng chờ đợi sự hồi âm, đáp lại tình cảm, thế nhưng <br />
càng chờ anh lại càng trách móc sự hững hờ của người con gái mình yêu. Tâm trạng nhớ <br />
mong và trách móc của chàng trai đã thể hiện cái đẹp đẽ, đáng yêu của mối tình quê thắm <br />
thiết, bình dị.<br />
<br />
<br />