
Phân tích nhân tố tác động đến khả năng sinh lợi trong các công ty dịch vụ - du lịch niêm yết ở Việt Nam
lượt xem 2
download

Mục đích của bài báo là nhằm xác định xu hướng và mức độ tác động của các yếu tố đến khả năng sinh lợi của các công ty dịch vụ - du lịch niêm yết ở Việt Nam giai đoạn 2012 - 2021. Kết quả cho thấy: quy mô công ty, vòng quay tài sản, mức độ tập trung thị trường ảnh hưởng tích cực tới khả năng sinh lợi trong khi đòn bẩy tài chính, hiệu quả sử dụng chi phí ảnh hưởng tiêu cực.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Phân tích nhân tố tác động đến khả năng sinh lợi trong các công ty dịch vụ - du lịch niêm yết ở Việt Nam
- PHÂN TÍCH NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN KHẢ NĂNG SINH LỢI TRONG CÁC CÔNG TY DỊCH VỤ - DU LỊCH NIÊM YẾT Ở VIỆT NAM ANALYSIS OF FACTORS AFFECTING PROFITABILITY IN LISTED TOURISM – SERVICE COMPANIES IN VIETNAM Nguyễn Thị Kim Quy Công ty TNHH Wilo Việt Nam Email: kimquynt012691@gmail.com Tóm tắt: Mục đích của bài báo là nhằm xác định xu hướng và mức độ tác động của các yếu tố đến khả năng sinh lợi của các công ty dịch vụ - du lịch niêm yết ở Việt Nam giai đoạn 2012 - 2021. Kết quả cho thấy: quy mô công ty, vòng quay tài sản, mức độ tập trung thị trường ảnh hưởng tích cực tới khả năng sinh lợi trong khi đòn bẩy tài chính, hiệu quả sử dụng chi phí ảnh hưởng tiêu cực. Kết quả cũng cho thấy tác động tích cực của khả năng thanh toán ngắn hạn tới khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu. Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng thời gian kinh doanh, tốc độ tăng trưởng doanh thu và các yếu tố vĩ mô (tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ lạm phát) ảnh hưởng không đáng kể đến khả năng sinh lợi. Abstract: The article aims to determine the trends and impact of factors on the profitability of listed service-tourism companies in Vietnam in 2012 - 2021. The results show that: Firm size, asset turnover, and market concentration positively affect profitability, while financial leverage and cost efficiency have negative effects. The results also confirm a positive impact of short-term solvency on the return on equity. In addition, the study also shows that business time, revenue growth rate, and macro factors (GDP growth rate, inflation rate) have negligible influence on profitability. Từ khóa: Công ty dịch vụ - du lịch; Khả năng sinh lợi; Nhân tố tác động; ROA; ROE. Keywords: Service and tourism companies; Profitability; Impact factor; ROA; ROE. JEL Classifications: M00, M10, M49 1. Đặt vấn đề: Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, nhiều hoạt động kinh doanh được mở rộng ngày càng đa dạng và phong phú trên các lĩnh vực tạo nên sự quan tâm rất lớn từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Phát triển du lịch trong bối cảnh hiện nay bị tác động rất lớn bởi quá trình hội nhập hóa, toàn cầu hóa, cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học, công nghệ. Bên cạnh đó, sự biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, mà điển hình gần đây nhất là đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển du lịch toàn cầu và du lịch Việt Nam. Trước đại dịch COVID-19, số khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam tăng cao liên tục và con số mơ ước đạt được là 18 triệu người, tương đương với nhiều quốc gia có du lịch phát triển ở Đông Nam Á. Thời điểm đó, du lịch quốc tế chiếm tới 80% số lượng hành khách hàng không quốc tế ra vào Việt Nam. Ngành Du lịch đã đóng góp tới 9,2% tổng sản phẩm trong nước, tạo công ăn việc làm trực tiếp cho 2,5 triệu người và gián tiếp cho khoảng 2 triệu người trong các lĩnh vực gắn kết với du lịch. Sự xuất hiện của đại dịch COVID-19 đã làm gián đoạn tạm thời sự “cất cánh” của du lịch Việt Nam. Diễn biến phức tạp, kéo dài của đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng trực tiếp, toàn diện đến các hoạt động kinh tế-xã hội, trong đó du lịch là một trong những ngành chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Ngoài ra, Du lịch là một hiện tượng đa diện liên quan đến sự di chuyển và lưu lại ở các nơi đến du lịch bên ngoài nơi cư trú thường xuyên của du khách. Du lịch là hoạt động kinh tế cần nhiều 1
- sự hỗ trợ liên ngành. Cũng có thể nói phát triển du lịch là sự kéo theo một số ngành dịch vụ khác phát triển. Mối quan hệ này tác động qua lại với nhau, cùng đem lại lợi ích cho các ngành. Từ đó có thể kết luận: “Du lịch là một ngành kinh tế dịch vụ tổng hợp”. Mỗi quốc gia, mỗi vùng có định hướng phát triển du lịch cần có sự đầu tư, nghiên cứu một cách tổng thể các ngành nhằm đón đầu cũng như nâng cao hiệu quả của các ngành dịch vụ. Do đó việc phân tích tác động của các yếu tố đến khả năng sinh lợi của các công ty dịch vụ - du lịch niêm yết ở Việt Nam là một vấn đề được quan tâm. 2. Cơ sở lý luận 2.1 Khả năng sinh lợi Theo Nguyễn Văn Công (2019), khả năng sinh lợi là chỉ tiêu phản ánh lợi nhuận mà doanh nghiệp có thể thu được trên một đơn vị chi phí hay yếu tố đầu vào hay trên một đơn vị đầu ra phản ánh kết quả kinh doanh. Theo từ điển Kinh tế học (Nguyễn Văn Ngọc, 2012) khả năng sinh lợi (Profitability) là một con số đánh giá khả năng tạo ra lợi nhuận của một doanh nghiệp trong thời gian dài, giả sử tất cả các điều kiện hoạt động hiện tại nói chung là không đổi. Hay Malik (2011), cho rằng khả năng sinh lợi là một trong những thước đo, mục tiêu quan trọng nhất của quản lý tài chính và mục tiêu của quản lý tài chính là tối đa hóa sự giàu có của chủ sở hữu và khả năng sinh lợi là yếu tố quyết định rất quan trọng của hiệu suất, đồng thời ông cũng cho rằng khả năng sinh lợi là thước đo hiệu quả về sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. 2.2 Một số chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lợi Để đo lường và phản ánh khả năng sinh lợi, các chỉ tiêu sức sinh lợi thông thường được sử dụng như sức sinh lợi của vốn chủ sở hữu (ROE), sức sinh lợi của doanh thu thuần (ROS), sức sinh lợi của tài sản (ROA). Ngoài ra, còn có một số chỉ tiêu cũng có thể được dùng như sức sinh lợi của vốn đầu tư (ROIC), sức sinh lợi của vốn dài hạn (ROCE) hay sức sinh lợi cơ bản của tài sản (BEP). Tuy nhiên, ở nghiên cứu này tác giả sẽ chú trọng đến ba chỉ tiêu đó là ROA và ROE. Theo Phan Đức Dũng (2008), sức sinh lợi của tài sản hay còn gọi là tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (Return on Assets – ROA) là một tỷ số tài chính dùng để đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu ROA thể hiện tính hiệu quả của quá trình tổ chức, quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh và sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Kết quả chỉ tiêu cho biết bình quân cứ một đồng tài sản được sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Vì vậy, chỉ số này sẽ cho biết một doanh nghiệp sử dụng tài sản để kiếm lời hiệu quả như thế nào (Phan Thu Hiền & Nguyễn Nhật Hà, 2020). Có nhiều nghiên cứu sử dụng ROA để đo lường khả năng sinh lợi của doanh nghiệp như nghiên cứu của Tavakoli, và Wilson (2005), Yazdanfar (2013), Goddard, Malik (2011), AlGhusin (2015), Odusanya, Yinusa, và Ilo (2018), Lê Thị Thanh Mỹ và Lê Thị Thanh Nhật (2021). Theo Nguyễn Minh Kiều (2009), sức sinh lợi của vốn chủ sở hữu hay còn gọi là tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (Return on Equity – ROE) là tỷ số tài chính dùng để đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Chỉ tiêu ROE phản ánh năng lực sử dụng đồng vốn để sinh lợi trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Phân tích khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu cho thấy rõ, một đồng vốn chủ sở hữu sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp. Việc xem xét chỉ tiêu này có một ý nghĩa quan trọng là xác định mục tiêu kinh doanh của ban lãnh đạo doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận hay tối đa hoá quy mô (Phan Thu Hiền & Nguyễn Nhật Hà, 2020). Có nhiều nghiên cứu sử dụng ROE để đo lường khả năng sinh lợi của doanh nghiệp như nghiên cứu của Chander & Aggarwal (2008), Alarussi & Alhaderi (2018), Odusanya, Yinusa & Ilo (2018). 2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi và các nghiên cứu thực nghiệm Quy mô doanh nghiệp: là việc phân chia ra thành doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp nhỏ. Quy mô doanh nghiệp được sử dụng rộng rãi làm đại diện cho nhiều khía cạnh tích 2
- cực, bao gồm cả khả năng sinh lợi. Một số nghiên cứu như của Malik (2011), Diaz & Pandey (2019), Peck-Ling, Nai-Chiek, & Chee-Seong (2016), Alarussi & Alhaderi (2018) và Phan Thu Hiền và Nguyễn Nhật Hà (2020) đều cho thấy mối quan hệ tích cực giữa quy mô doanh nghiệp với khả năng sinh lợi. Thời gian hoạt động của doanh nghiệp là thời gian hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường. Thời gian hoạt động của doanh nghiệp cho biết kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn đạt được trong những năm hoạt động và nó giúp cho doanh nghiệp cải thiện được trong việc quản lý doanh nghiệp và nó có tác động tích cực đến khả năng sinh lợi của doanh nghiệp (Bhayani, 2010). Nghiên cứu của Chander & Aggarwal (2008), Phan Thu Hiền và Nguyễn Nhật Hà (2020) cho thấy mối quan hệ tích cực giữa thời gian hoạt động của doanh nghiệp với khả năng sinh lợi. Tuy nhiên các nghiên cứu khác như Majumdar (1997), Coad, Segarra-Blasco & Teruel (2010), Hirsch và cộng sự (2014) Pervan, Pervan, & Ćurak (2019) đều cho thấy rằng với những doanh nghiệp hoạt động càng lâu thì khả năng sinh lợi càng giảm. Đòn bẩy tài chính phản ánh mức độ sử dụng vốn vay trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp nhằm hy vọng gia tăng tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) hay thu nhập trên một cổ phần thường (EPS). Nghiên cứu của Malik (2011), Odusanya, Yinusa & Ilo (2018), Odusanya, Yinusa & Ilo (2018), Phan Thu Hiền và Nguyễn Nhật Hà (2020) đều có kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ tiêu cực giữa đòn bẩy tài chính với khả năng sinh lợi. Tuy nhiên nghiên cứu của Abate & Mesfin (2019) lại cho thấy mối quan hệ tích cực giữa đòn bẩy tài chính với khả năng sinh lợi. Tốc độ tăng trưởng doanh thu phản ánh phần trăm thay đổi doanh thu của một doanh nghiệp trong một khoảng thời gian cụ thể và được đưa ra trong một bối cảnh nhất định. Kết quả đều cho thấy mối quan hệ tích cực giữa tố độ tăng trưởng doanh thu với khả năng sinh lợi trong các nghiên cứu của Salman & Yazdanfar (2012), Alarussi & Alhaderi (2018), Phan Thu Hiền và Nguyễn Nhật Hà (2020). Vòng quay tổng tài sản phản ánh số vòng quay tổng tài sản là một tỷ số tài chính, là thước đo khái quát nhất hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Tỷ số này được tính ra bằng cách lấy doanh thu thuần đạt được trong một thời kỳ nhất định chia cho giá trị bình quân tổng tài sản của doanh nghiệp trong cũng kỳ đó. Nghiên cứu của Alarussi & Alhaderi (2018), Phan Thu Hiền và Nguyễn Nhật Hà (2020) đều cho kết quả tương tự là vòng quay tổng tài sản có mối quan hệ tích cực với khả năng sinh lợi. Khả năng thanh toán ngắn hạn phản ánh khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, nợ quá hạn phải trả của doanh nghiệp. Các hệ số này là căn cứ để doanh nghiệp xác đinh giá trị thực tế ngay tại thời điểm công ty xác định khả năng thanh toán. Trong nghiên cứu của Chander (2008), Abate & Mesfin (2019), Phan Thu Hiền và Nguyễn Nhật Hà (2020) cho thấy mối quan hệ tích cực giữa khả năng thanh toán ngắn hạn với khả năng sinh lợi. Tuy nhiên (Alarussi & Alhaderi, 2018) hay nghiên cứu của Nguyễn Thúy Quỳnh (2021) không tìm thấy mối quan hệ giữa khả năng thanh toán với khả năng sinh lợi. Hiệu quả sử dụng chi phí phản ánh mức chi phí mà công ty bỏ ra tính trên một đơn vị doanh thu. Pervan, Pervan, & Ćurak (2019) cho rằng khả năng sinh lợi chịu ảnh hưởng đáng kể của hiệu quả sử dụng chi phí. v.v... Mức độ tập trung thị trường phản ánh cấu trúc thị trường, biểu thị phân phối số lượng và qui mô người bán trong một thị trường cụ thể. Nghiên cứu của Tan & Floros (2012), Mirzaei, Moore, & Liu (2013), Lee (2014), Phan Thu Hiền và Nguyễn Nhật Hà (2020) đều cho thấy mức độ tập trung thị trường tác động ngược chiều đến khả năng sinh lợi. Tốc độ tăng trưởng GDP phản ánh tốc độ tăng trưởng kinh tế, được biểu thị bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), từ thời kỳ này sang thời kỳ khác, được điều chỉnh theo lạm phát hoặc giảm phát. Có nhiều nghiên cứu cho thấy những kết quả khác nhau như Abate & Mesfin (2019) tìm thấy mối 3
- quan hệ tiêu cực giữa tốc độ tăng trưởng GDP với khả năng sinh lợi, trong khi nghiên cứu của Phan Thu Hiền và Nguyễn Nhật Hà (2020) không tìm thấy mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng GDP đối với khả năng sinh lợi thì nghiên cứu Lee (2014) Pattitoni, Petracci, & Spisni (2014) lại cho thấy mối quan hệ tích cực giữa tốc độ tăng trưởng GDP với khả năng sinh lợi. Tỷ lệ lạm phát phản ánh tốc độ tăng mặt bằng giá của nền kinh tế. Nó cho thấy mức độ lạm phát của nền kinh tế. Nghiên cứu của Abate & Mesfin (2019) tìm thấy mối quan hệ tiêu cực giữa tỷ lệ lạm phát với khả năng sinh lợi. Tuy nhiên Phan Thu Hiền và Nguyễn Nhật Hà (2020) không tìm thấy mối quan hệ giữa tỷ lệ lạm phát đối với khả năng sinh lợi. 3. Mô hình và phương pháp nghiên cứu 3.1 Giả thuyết nghiên cứu Nghiên cứu của Stierwald (2010) đã tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa quy mô và khả năng sinh lợi tại Hoa Kỳ các công ty không sản xuất và các công ty lớn ở Úc. Hay Alarussi & Alhaderi (2018) đã tìm thấy mối quan hệ tích cực mạnh mẽ giữa quy mô doanh nghiệp với khả năng sinh lợi. Do đó nghiên cứu xác định giả thuyết H1 như sau: - H1: Quy mô doanh nghiệp có tác động cùng chiều đến khả năng sinh lợi của các công ty dịch vụ - du lịch niêm yết ở Việt Nam. Nghiên cứu của Chander & Aggarwal (2008) cho thấy ảnh hưởng tích cực của thời gian hoạt động của doanh nghiệp đến khả năng sinh lợi, các doanh nghiệp có thời gian hoạt động càng lâu lợi nhuận càng lớn, khả năng sinh lợi càng lớn. Bên cạnh đó cũng có một số nghiên cứu không cùng quan điểm như Coad, Segarra-Blasco & Teruel (2010) đã tìm thấy bằng chứng về sự suy giảm lợi nhuận khi các công ty lớn lên. Do đó nghiên cứu xác định giả thuyết H2 như sau: - H2: Thời gian hoạt động của doanh nghiệp có tác động cùng chiều đến khả năng sinh lợi của các công ty dịch vụ - du lịch niêm yết ở Việt Nam. Kết quả ghiên cứu của Nizar Mohammad Alsharari và Turki Raji Alhmoud (2017) đã chỉ ra mối quan hệ ngược chiều giữa tỷ lệ nợ và khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Hay theo lý thuyết trật tự cấu trúc vốn (Rathnasingha & Heiyanthuduwa, 2019) đòn bẩy và lợi nhuận có mối quan hệ ngược chiều. Do đó nghiên cứu hình thành giả thuyết H3 như sau: - H3: Đòn bẩy tài chính có tác động ngược chiều đến khả năng sinh lợi của các công ty dịch vụ - du lịch niêm yết ở Việt Nam. Trong nghiên cứu của Salman & Yazdanfar (2012) cho thấy rằng tốc độ tăng trưởng doanh thu có tác động tích cực đến lợi nhuận hay khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Hay Alarussi & Alhaderi (2018) cũng đã phát hiện mối quan hệ tích cực mạnh mẽ giữa tổng doanh thu và tốc độ tăng trưởng doanh thu đến khả năng sinh lợi. Do đó nghiên cứu hình thành giả thuyết H 4 như sau: - H4: Tốc độ tăng trưởng doanh thu có tác động cùng chiều đến khả năng sinh lợi của các công ty dịch vụ - du lịch niêm yết ở Việt Nam. Trong nghiên cứu của Alarussi & Alhaderi (2018), ngoài việc phát hiện tổng doanh thu và tốc độ tăng trưởng doanh thu thì tác giả cũng cho thấy mối quan hệ tích cực giữa vòng quay tổng tài sản đến khả năng sinh lợi. Do đó nghiên cứu hình thành giả thuyết H5 như sau: - H5: Vòng quay tổng tài sản có tác động cùng chiều đến khả năng sinh lợi của các công ty dịch vụ - du lịch niêm yết ở Việt Nam. Hiện nay có nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy khả năng thanh toán không có mối quan hệ đáng kể nào đến khả năng sinh lợi (Alarussi & Alhaderi, 2018) hay nghiên cứu của Nguyễn Thúy Quỳnh (2021) cho thấy khả năng thanh toán không có ý nghĩa thống kê đến khả năng sinh lợi của các doanh nghiệp Bất động sản. Tuy nhiên bên cạnh những nghiên cứu cho thấy khả năng thanh toán không có ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi thì cũng có những nghiên cứu cho thấy rằng khả năng thanh toán ngắn hạn có tác động tích cực đến khả năng sinh lợi của doanh 4
- nghiệp như trong nghiên cứu của Chander (2008). Do đó, nghiên cứu hình thành giả thuyết H 6 như sau: - H6: Khả năng thanh toán ngắn hạn có tác động cùng chiều đến khả năng sinh lợi của các công ty dịch vụ - du lịch niêm yết ở Việt Nam Nghiên cứu trước đây về các yếu tố quyết định khả năng sinh lợi của các nhà sản xuất Croatia đã được tìm thấy rằng hiệu quả sử dụng chi phí đóng một vai trò trung tâm. Trong những nghiên cứu này, người ta mong đợi rằng biến hiệu quả sử dụng chi phí sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận, tức là tăng đơn vị hiệu quả sử dụng chi phí sẽ dẫn đến khả năng sinh lợi của công ty thấp hơn. Do đó nghiên cứu hình thành giả thuyết H7 như sau: - H7: Hiệu quả sử dụng chi phí có tác động ngược chiều đến khả năng sinh lợi của các công ty dịch vụ - du lịch niêm yết ở Việt Nam. Mirzaei, Moore, & Liu (2013) phân tích dữ liệu trong giai đoạn 1999–2008 thấy rằng điều kiện cạnh tranh thấp hơn dẫn đến khả năng sinh lợi cao hơn đối với các nền kinh tế tiên tiến, Tan & Floros (2012), Lee (2014) cũng cho thấy mức độ tập trung có tác động tiêu cực với khả năng sinh lợi. Do đó nghiên cứu hình thành giả thuyết H8 như sau: - H8: Mức độ tập trung thị trường có tác động ngược chiều đến khả năng sinh lợi của các công ty dịch vụ - du lịch niêm yết ở Việt Nam. Nghiên cứu của Lee (2014) cho thấy tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) có ảnh hưởng tích cực đến hiệu suất của các doanh nghiệp. Pattitoni, Petracci, & Spisni (2014) cũng cho thấy tác động tích cực của tốc độ tăng trưởng GDP về hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân trong khu vực EU15. Do đó nghiên cứu hình thành giả thuyết H9 như sau: - H9: Tốc độ tăng trưởng GDP có tác động cùng chiều đến khả năng sinh lợi của các công ty dịch vụ - du lịch niêm yết ở Việt Nam. Pervan, Pervan, & Ćurak (2019) cho rằng sự gia tăng chung về giá của hàng hóa và dịch vụ có thể ảnh hưởng đến cả chi phí và doanh thu của công ty. Ngoài ra, lạm phát có thể ảnh hưởng đến nhu cầu đối với hàng hóa của một công ty, bằng cách giảm giá trị tiền và sức mua của khách hàng có thu nhập cố định. Vătavu (2015), Odusanya, Yinusa, & Ilo (2018) chỉ ra rằng lạm phát có động tiêu cực đến khả năng sinh lợi. Demir (2009) đã xác nhận tác động tiêu cực của lạm phát đối với các công ty kinh doanh hoa ly ở Thổ Nhĩ Kỳ, Pattitoni, Petracci, & Spisni (2014) cũng có kết quả tương tự cho các công ty Châu Âu. Do đó nghiên cứu hình thành giả thuyết H10 như sau: - H10: Tỷ lệ lạm phát có tác động ngược chiều đến khả năng sinh lợi của các công ty dịch vụ - du lịch niêm yết ở Việt Nam. 3.2 Mô hình nghiên cứu Dựa vào nghiên cứu trước đây về các nhân tố tác động đến khả năng sinh lợi của các doanh nghiệp. Tác giả xây dựng mô hình nghiên cứu như sau: - ROAit = β0 + β1SZit + β2AGEit + β3FLit + β4GROit + β5ATit + β6CRit + β7LCit + β8CMit + β9GGDPit + β10IRit + ℇit - ROEit = β0 + β1SZit + β2AGEit + β3FLit + β4GROit + β5ATit + β6CRit + β7LCit + β8CMit + β9GGDPit + β10IRit + ℇit Bảng 1. Thống kê các biến trong mô hình nghiên cứu Biến Tên gọi Cách đo lường Sức sinh lợi của tài Lợi nhuận sau thuế ROA ROA = sản Tổng tài sản bình quân 5
- Sức sinh lợi của Lợi nhuận sau thuế ROE = ROE vốn chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu bình quân Quy mô doanh SZ SZ = LogTổng tài sản cuối năm nghiệp Thời gian hoạt AGE động của doanh AGE = Năm hiện tại – Năm thành lập nghiệp Tổng nợ phải trả FL Đòn bẩy tài chính FL = Tổng tài sản cuối năm Tốc độ tăng trưởng Doanh thu năm nay – Doanh thu năm trước GRO GRO = doanh thu Doanh thu năm trước Vòng quay tổng tài Doanh thu thuần AT AT = sản Tổng tài sản bình quân Khă năng thanh Tài sản ngắn hạn CR CR = toán ngắn hạn Nợ ngắn hạn Hiệu quả sử dụng Chi phí kinh doanh LC LC = chi phí Doanh thu thuần Tổng doanh thu tiêu thụ – giá vốn hàng bán Mức độs tập trung CM = CM thị trường Tổng doanh thu tiêu thụ Tốc độ tăng trưởng Số liệu được lấy từ Wolrd Bank Link GGDP GDP (https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam) Số liệu được lấy từ Tổng cục thống kê IR Tỷ lệ lạm phát (https://www.gso.gov.vn/) β1…β10 Hệ số các biến độc lập tương ứng 6
- i Doanh nghiệp thứ i t Năm thứ t ℇ Sai số (Nguồn: Kết quả thống kê của tác giả) 3.3 Quy trình và dữ liệu nghiên cứu Quy trình nghiên cứu cụ thể được thiết kế như sau: - Bước 1: Nghiên cứu cơ sở lý thuyết và cá nghiên cứu trước nhằm xác định vấn đề nghiên cứu, đồng thời xác định được mục tiêu và các câu hỏi nghiên cứu. - Bước 2: Từ kết quả của bước 1, tác giả xác định mô hình và phương pháp nghiên cứu. Đưa ra mô hình nghiên cứu phù hợp, xác định biến độc lập và biến phụ thuộc đồng thời đưa ra phương pháp thu thập - Bước 3: Tiến hành phân tích và xử lý số liệu bằng cách: Tác giả tiến hành nghiên cứu định lượng với việc sử dụng dữ liệu thứ cấp của 25 công ty dịch vụ - du lịch niêm yết ở Việt Nam trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2021 đã thu thập được nhằm đo lường mức độ tác động của các nhân tố đến khả năng sinh lợi. Nghiên cứu sử dụng phương pháp thống kê mô tả, phân tích tương quan và phân tích hồi quy như mô hình hồi quy gộp (Pooled OLS); mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên (Random Effect Model – REM) và mô hình ảnh hưởng cố định (Fixed Effects Model – FEM) để ước lượng mô hình. Đồng thời, nghiên cứu thực hiện các kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi, đa cộng tuyến và tự tương quan để so sánh sự phù hợp giữa các mô hình và lựa chọn mô hình tối ưu. - Bước 4: Tổng hợp kết quả nghiên, đưa ra những khuyến nghị nhằm nâng cao khả năng sinh lợi. 4. Kết quả và thảo luận kết quả nghiên cứu Theo thống kê mô tả dữ liệu (Bảng 1) nghiên cứu của 25 công ty dịch vụ - du lịch niêm yết ở Việt Nam giai đoạn 2012- 2021 (Bảng 1), có thể thấy tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA) và tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE) bình quân của các công ty dịch vụ - du lịch trong 10 năm qua lần lượt là 6,08% và 8,77%. Tỉ suất ROA nhìn chung tương đối thấp đối với các công ty dịch vụ - du lịch trong giai đoạn này. Bên cạnh đó, sự biến động của ROA và ROE (với độ lệch chuẩn lần lượt là 10,72% và 14,16%) cho thấy chênh lệch về khả năng sinh lợi giữa các công ty dịch vụ - du lịch niêm yết ở Việt Nam là tương đối thấp. Các công ty dịch vụ - du lịch gần như có mức khả năng sinh lợi gần như nhau. Về các nhân tố như quy mô doanh nghiệp (SZ), số liệu thống kê cho thấy, chênh lệch về quy mô tổng tài sản giữa các công ty trong mẫu nghiên cứu là khá thấp, đa phần có quy mô tương đối đồng đều. Hầu hết các nhân tố theo số liệu thống kê không có nhiều sự chênh lệch giữa các công ty trong mẫu nghiên cứu. Ngoại trừ thời gian hoạt động của doanh nghiệp và khả năng thanh toán ngắn hạn có độ lệch chuẩn tương đối cao cho thấy sự chênh lệch về thời gian hoạt động của doanh nghiệp và khả năng thanh toán ngắn hạn giữa các công ty là lớn. Bảng 1: Kết quả thống kê mô tả các biến định lượng trong mô hình Quan Giá trị trung Độ lệch Giá trị nhỏ Giá trị lớn Biến sát bình chuẩn nhất nhất ROA 242 0.0608114 0.1071875 -0.2830265 0.3965211 7
- ROE 242 0.0877159 0.1416413 -0.519951 0.4775463 SZ 242 5.254269 1.094723 0.0682487 7.179747 AGE 242 16.20661 9.705127 1 53 FL 242 0.3506315 0.2618467 0.0042902 0.9362557 GRO 242 0.1448634 1.138036 -0.8053437 14.27104 AT 242 0.8507336 0.8628179 0.0386791 5.458535 CR 242 7.124207 18.09886 0.0680102 136.4637 LC 242 0.12302 0.11872 -0.0566352 1.070425 CM 242 0.2226043 0.2898906 -1.82506 0.9751716 GGD 242 0.0557434 0.0157673 0.0258 0.0708 P IR 242 0.0377587 0.0171142 0.006 0.0681 (Nguồn: Tác giả tính toán bằng phần mềm STATA 15.1) Bảng 2: Ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình (Biến phụ thuộc ROA) ROA SZ AGE FL GRO AT CR LC CM GGDP IR ROA 1.0000 - SZ 1.0000 0.0887 - AGE 0.2050 1.0000 0.5500 - FL 0.1597 -0.1506 1.0000 0.4012 GRO 0.0789 0.0721 -0.1121 0.0778 1.0000 AT 0.1302 0.0293 -0.0743 0.3410 0.0589 1.0000 - - CR 0.1260 0.1309 0.2166 -0.0103 1.0000 0.3591 0.1884 - - - LC -0.1248 0.0582 -0.1429 -0.0128 1.0000 0.3888 0.1484 0.3251 - CM 0.5447 -0.1443 -0.1739 0.0144 0.0012 -0.2644 0.0309 1.0000 0.2523 - GGDP 0.2451 -0.0041 -0.1141 0.0913 0.1044 0.1022 -0.1450 0.2767 1.0000 0.0048 - - - IR 0.0168 0.0181 -0.0299 0.0707 -0.0565 -0.0179 -0.3661 1.0000 0.0254 0.0156 0.0136 (Nguồn: Tác giả tính toán bằng phần mềm STATA 15.1) Theo thống kê bảng 2 cho thấy hệ số tương quan so sánh từng cặp giữa các biến đều nhỏ hơn 0.8 là chấp nhận được. Tức là tương quan so sánh từng cặp giữa các biến không đủ cao để có thể gây ra hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình. 8
- Tương tự như kết quả kiểm định tương quan các biến trong mô hình ROA, đối với các biến trong mô hình ROE cũng cho thấy hệ số tương là chấp nhận được. Bảng 3: Kết quả kiểm định đa cộng tuyến Biến độc lập VIF (Độ phóng đại phương sai) 1/VIF FL 1.62 0.618605 CR 1.51 0.660379 CM 1.49 0.673304 GGDP 1.41 0.710934 AT 1.27 0.789826 IR 1.19 0.838199 LC 1.18 0.847264 AGE 1.16 0.859889 SZ 1.14 0.877389 GRO 1.05 0.948663 Trung bình VIF 1.30 (Nguồn: Tác giả tính toán bằng phần mềm STATA 15.1) Từ bảng 3 thấy hệ số VIF của các biến độc lập trong mô hình đều nhỏ hơn 2, điều này có thể kết luận rằng không có hiện tượng đa cộng tuyến xảy ra giữa các biến độc lập. Bảng 4: Kết quả hồi quy các nhân tố tác động đến ROA và ROE Biến FEM REM OLS độc lập ROA ROE ROA ROE RỎA ROE SZ 0.0319891** 0.0508474** 0.0007216 -0.0039612 -0.0044187 -0.010758* AGE -0.0042734*** -0.0049048** -0.00058 -0.000317 -0.0000164 0.0002697 FL -0.0327636 -0.0287528 -0.0913332*** -0.0733393* -0.1259865 - 0.0883546*** GRO -0.0006858 0.0023934 0.0023819 0.0066246 0.0029766 0.0079762 AT 0.0570355*** 0.1018099*** 0.0276372*** 0.0606612*** 0.016813** 0.0494674*** CR 0.0001042 -0.0000498 0.0002881 0.0002103 0.0010557*** 0.0012455*** LC -0.2763224*** -0.4785184*** -0.3044828*** -0.504821*** -0.3631778*** -0.517692*** CM 0.1216895*** 0.1131251*** 0.1407813*** 0.140142*** 0.1904281*** 0.1999926*** GGDP 0.1484555 0.0980272 0.4674332 0.4865369 0.1128277 0.1158505 IR 0.085172 -0.0694072 0.2154709 0.0804517 0.1602744 0.0646748 Hằng số -0.0802747 -0.1456415 0.0454921 0.0869945 0.961608 0.1290057 Số quan 242 242 242 242 242 242 sát Prob > F 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 Hệ số xác định 0.6192 0.5618 0.5694 0.5217 0.5947 0.5231 R2 Ghi chú: ***, ** và *: tương ứng với mức ý nghĩa 1%,5% và 10% Bảng 7: Kết quả kiểm định và lựa chọn mô hình Kiểm định P Phương pháp được chọn value Biến phụ thuộc ROA: F test (1) 0.0000 REM phù hợp hơn OLS F test (2) 0.0000 FEM phù hợp hơn OLS Hausman 0.2774 REM phù hợp hơn FEM Wald 0.0000 9
- Wooldridge 0.0001 Biến phụ thuộc ROE: F test (1) 0.0000 REM phù hợp hơn OLS F test (2) 0.0000 FEM phù hợp hơn OLS Hausman 0.9734 REM phù hợp FEM Wald 0.0000 Wooldridge 0.0587 (Nguồn: Tác giả tính toán bằng phần mềm STATA 15.1) Đối với mô hình biến phụ thuộc ROA, kiểm định F-Test có giá trị p-value = 0.0000 < 5%, do đó giả thuyết H1 được chấp nhận. Chứng tỏ, mô hình FEM phù hợp hơn so với mô hình OLS và mô hình REM cũng phù hợp hơn mô hình OLS. Với giá trị p-value = 0.2774 > 5% trong kiểm định Hausman nên giả thuyết H0 được chấp nhận. Chính vì vậy, mô hình REM phù hợp hơn mô hình FEM. Từ các kết quả kiểm định trên có thể kết luận rằng mô hình REM được lựa chọn là mô hình phù hợp với mô hình nghiên cứu biến phụ thuộc ROA. Đối với mô hình biến phụ thuộc ROE, kiểm định F-test cho giá trị p-value = 0.0000 < 5%, do đó giả thuyết H0 bị bác bỏ, vì vậy mô hình FEM phù hợp hơn so với mô hình OLS và mô hình REM cũng phù hợp hơn mô hình OLS. Kết quả kiểm định Hausman đã cho thấy p-value = 0.9734 > 5% nên chấp nhận giả thuyết H0 và kết luận mô hình được chọn trong nghiên cứu chính là mô hình REM. Đối với mô hình biến phụ thuộc ROA, kết quả kiểm tra hiện tượng phương sai sai số thay đổi cho thấy p-value = 0.000 < α = 5%. Do đó, giả thuyết H 0 không được chấp nhận và mô hình có hiện tượng phương sai sai số thay đổi. Kiểm định Wooldridge cho hiện tượng tự tương quan cho các phần dư chỉ ra p-value = 0.0001 < α = 5% cho thấy giả thuyết H 0 không được chấp nhận. Kết luận mô hình có hiện tượng tự tương quan giữa các phần dư. Đối với mô hình biến phụ thuộc ROE, kết quả kiểm tra hiện tượng phương sai sai số thay đổi cho thấy p-value = 0.000 < α = 5%. Do đó, giả thuyết H0 không được chấp nhận và mô hình có hiện tượng phương sai sai số thay đổi. Kiểm định Wooldridge cho hiện tượng tự tương quan cho các phần dư chỉ ra p-value = 0.0587 > α = 5% cho thấy giả thuyết H0 được chấp nhận. Kết luận mô hình không có hiện tượng tự tương quan giữa các phần dư. Do cả hai mô hình đều có hiện tượng phương sai sai số thay đổi, tác giả sẽ sử dụng phương pháp ước lượng tổng quát khả thi GLS để khắc phục mô hình và cho kết quả chính xác hơn. Bảng 8: Kết quả hồi quy mô hình GLS khắc phục phương sai thay đổi Biến phụ thuộc: ROA Biến phụ thuộc: ROE Biến độc lập GLS GLS Hệ số hồi quy Mức ý nghĩa Hệ số hồi quy Mức ý nghĩa - SZ -0.00968999*** 0.006 0.000 0.0152875*** AGE -0.0000000296 0.999 0.0002238 0.585 - FL -0.1085169*** 0.000 0.007 0.0595238*** GRO 0.0018542 0.225 0.0007379 0.821 AT 0.0177103*** 0.000 0.0605502*** 0.000 CR 0.0006582 0.169 0.0020655*** 0.000 - LC -0.245355*** 0.000 0.000 0.4794354*** CM 0.1605735*** 0.000 0.25526*** 0.000 10
- GGDP 0.1691517 0.325 -0.1924988 0.540 IR -0.0516024 0.681 0.0014355 0.996 Hằng số 0.1055058*** 0.000 0.1305763*** 0.000 (Nguồn: Tác giả tính toán bằng phần mềm STATA 15.1) Quy mô doanh nghiệp (SZ) có mức độ tác động ngược chiều với ROA và ROE ở mức ý nghĩa 1% với hệ số 𝛼 lần lượt bằng 0.0097 và 0.0153. Nói cách khác, với các nhân tố khác không đổi, nếu quy mô vốn của các công ty càng lớn thì khả năng sinh lợi càng thấp. Với những nghiên cứu bởi Mathuva (2010), Malik (2011) và Alghusin (2015) đã chứng minh rằng quy mô doanh nghiệp tác động cùng chiều với ROA và ROE, trong nghiên cứu này tác giả tìm thấy mối quan hệ ngược chiều giữa quy mô doanh nghiệp với ROA và ROE điều này có thể giải thích rằng với đặc thù ngành dịch vụ-du lịch chủ yếu mang tính chất “dịch vụ” thì việc tài sản được đầu tư quá nhiều nhưng chất lượng dịch vụ không được đảm bảo cũng có thể là một trong những yếu tố dẫn đến việc khả năng sinh lợi giảm. Đòn bẩy tài chính (LF) được tìm thấy có tác động ngược chiều lên cả ROA và ROE thông qua hệ số 𝛼 lần lượt bằng 0.1085 và 0.0595 với mức ý nghĩa thống kê là 1%. Hay nói cách khác, nếu doanh nghiệp có một tỷ lệ nợ trên tổng tài sản càng cao thì hoạt động sẽ ít hiệu quả hơn. Vì nếu áp lực trả lãi, trả gốc sẽ làm cho doanh nghiệp hoạt động khó khăn hơn. Kết quả này trùng khớp với các nghiên cứu trước, cụ thể Alghusin (2015), Chu và cộng sự (2015), Nguyen và cộng sự (2018), Goddard và cộng sự (2005), Odusanya và cộng sự (2018), Vătavu (2014) kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng đòn bẩy tài chính tác động ngược chiều đến khả năng sinh lợi. Vòng quay tổng tài sản (AT) lại có tác động cùng chiều với khả năng sinh lợi ở mức ý nghĩa 1%. Tức là, khi mỗi đồng tiền doanh nghiệp đầu tư vào các trang thiết bị, cơ sở hạ tầng, … thì sẽ mang hiệu quả kinh doanh và tạo ra doanh thu, từ đó làm tăng khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu trước đây của Tan và Floros (2012), Alghusin (2015), (Alarussi & Alhaderi, 2018). Hiệu quả sử dụng chi phí (LC) được tìm thấy có tác động ngược chiều với khả năng sinh lợi ở mức ý nghĩa 1% thông qua hệ số 𝛼 lần lượt bằng 0.2454 và 0.4794. Nói cách khác, với các nhân tố khác không đổi, nếu hiệu quả sử dụng chi phí của công ty càng lớn thì khả năng sinh lợi càng thấp. Kết quả này được chứng minh trong nghiên cứu trước đây của Maja Pervan, Ivica Pervan and Marijana Curak (2018). Mức độ tập trung thị trường (CM) đến khả năng sinh lợi là ngược chiều, điều này tương đồng với kết quả nghiên cứu của Tan và Floros (2012), Lee (2014). Kết quả này cho thấy các doanh nghiệp dệt may hoạt động trong thị trường cạnh tranh sẽ hiệu quả hơn trong thị trường độc quyền. Tương tự ở các công ty Dịch vụ - du lịch nếu mức độ tập trung thị trường càng cao thì khả năng sinh lợi của doanh nghiệp càng cao. Khả năng thanh toán ngắn hạn (CR), theo kết quả nghiên cứu thì biến CR có tác động cùng chiều lên ROE với mức ý nghĩa thống kê 1%. Mối quan hệ cùng chiều này trùng khớp với nghiên cứu của Chander và Aggarwal (2008), Ngô Huỳnh Ngọc Anh và cộng sự (2022), Chander và Aggarwal (2008), Chu và cộng sự (2015), Goddard và cộng sự (2005). Tuy nhiên, tác động này không có ý nghĩa thống kê với ROA. Tác động của các yếu tố thời gian hoạt động của doanh nghiêp, tốc độ tăng trường doanh thu, tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ lạm phát không có ý nghĩa thống kê trong cả hai mô hình. 4. Kết luận và khuyến nghị Kết quả nghiên cứu cho thấy khả năng sinh lợi bị tác động chủ yếu bởi các nhân tố bên trong doanh nghiệp Cụ thể, khi ứng dụng mô hình tác động ngẫu nhiên và mô hình tác động cố định nghiên cứu định lượng 25 công ty dịch vụ-du lịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2021, nghiên cứu tìm thấy: quy mô doanh nghiệp, vòng quay tổng tài 11
- sản của doanh nghiệp, mức độ tập trung thị trường có ảnh hưởng tích cực tới khả năng sinh lợi của doanh nghiệp, ngược lại đòn bẩy tài chính, hiệu quả sử dụng chi phí có ảnh hưởng tiêu cực tới khả năng sinh lợi của doanh nghiệp; đồng thời với khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu thì khả năng thanh toán ngắn hạn có mức tác động tích cực. Tuy nhiên các nhân tố thời gian hoạt động của doanh nghiêp, tốc độ tăng trường doanh thu, tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ lạm phát không có ý nghĩa thống kê trong cả hai mô hình. Dựa vào kết quả nghiên cứu, tác giả đưa ra một số kiến nghị như sau: Thứ nhất, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng quy mô doanh nghiệp có tác động tiêu cực đến khả năng sinh lợi. Tức là, quy mô doanh nghiệp càng lớn thì khả năng sinh ra lợi nhuận của doanh nghiệp càng thấp. Các công ty Dịch vụ - du lịch với những đặc thù của ngành thì việc chịu một khoản chi phí cố định đáng kể cho việc đầu tư vào các trang thiết bị, cơ sở hạ tầng,… là không nên có. Có thể ở trong một quy mô nhỏ những các Công ty này có được một chất lượng dịch vụ tốt đến khách hàng thì có thể tăng khả năng sinh lợi của công ty. Ngược lại nếu quy mô thật hoành tráng nhưng chất lượng dịch vụ không tốt cũng sẽ khiến cho công ty đó hoạt động không hiệu quả. Chính vì vậy, doanh nghiệp cần có những cân nhắc trong việc mở rộng quy mô. Thứ hai, các công ty Dịch vụ - du lịch cần nâng cao khả năng thanh toán, cơ cấu lại tỷ lệ vốn vay theo hướng giảm tỷ lệ vốn vay/tổng tài sản để giảm áp lực trả nợ, nếu khả năng thanh toán kém kéo dài sẽ dễ dẫn đến tình trạng phá sản, mất khả năng thanh toán, điều này sẽ làm mất uy tín doanh nghiệp, đây cũng là dấu hiệu cho thấy những dấu hiệu mạo hiểm về tài chính vì mất cân bằng tài chính. Thứ ba, các công ty Dịch vụ-du lịch cần nâng cao hiệu quả vòng quay tài sản để giúp doanh nghiệp mình gia tăng hiệu quả hoạt động và khả năng sinh lợi thông qua việc nâng cao năng lực quản lý tài sản thông qua công tác bồi dưỡng nhân sự, thanh lý, xử lý các tài sản cố định không dùng đến và tiến hành ra quyết định mua sắm tài sản cố định một cách hợp lý và hiệu quả. Thứ tư, với những nhu cầu của thị trường ngày càng đa dạng và phòng phú, sở thích, tính cách của khách hàng là khác nhau nên việc chất lượng dịch vụ là một trong những yếu tố quan trọng của các Công ty Dịch vụ - du lịch do đó chất lượng nguồn nhân lực của ngành cần được thúc đẩy, cần tập trung đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng nghề và ngoại ngữ, với hình thức đào tạo mới và đào tạo bồi dưỡng để đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Tài liệu tham khảo Lê Thị Thanh Mỹ, & Lê Thị Thanh Nhật. (2021). Ảnh hưởng của vốn hoạt động thuần đến khả năng sinh lợi của các doanh nghiệp ngành xây dựng niêm yết tại Việt Nam. Journal of Science and Technology-IUH, 54(06); Nguyễn Văn Công. (2019). Đánh giá khái quát tình hình tài chính và phân tích cấu trúc tài chính. In Nguyễn Văn Công (Ed.), Giáo trình Phân tích báo cáo tài chính (3rd ed.). Trường Đại học Kinh tế Quốc dân; Nguyễn Văn Ngọc. (2012). Từ điển Kinh tế học. Nhà xuất bản Đại học Kinh tế; Phan Đức Dũng. (2008). Kế toán quản trị. Nhà xuất bản Thống kê; Phan Thu Hiền, & Nguyễn Nhật Hà. (2021). Các yếu tố tác động đến khả năng sinh lợi của các doanh nghiệp ngành dệt may trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh - Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 16(3), 180-195; Tổng cục Thống kê. (2021). Du lịch năm 2020 lao đao vì Covid-19. Truy cập ngày 22/07/2022 tại: www.gso.gov.vn; Abate, T. W., & Mesfin, E. A. (2019). Factors affecting profitability of commercial banks in Ethiopia. International Journal of Research and Analytical Reviews, 6(1), 881-891; Alarussi, A. S., & Alhaderi, S. M. (2018). Factors affecting profitability in Malaysia. Journal of Economic Studies; 12
- AlGhusin, N. A. S. (2015). The impact of financial leverage, growth, and size on profitability of Jordanian industrial listed companies. Research journal of Finance and Accounting, 6(16), 86- 93; Bhayani, S. J. (2010). Determinant of profitability in Indian cement industry: An economic analysis. South Asian Journal of Management, 17(4), 6-20; Chander, S., & Aggarwal, P. (2008). Determinants of corporate profitability: an empirical study of Indian drugs and pharmaceutical industry. Paradigm, 12(2), 51-61; Coad, A., Segarra-Blasco, A., & Teruel, M. (2010). Like milk or wine: Does firm performance improve with age?; Demir, F. (2009). Financialization and manufacturing firm profitability under uncertainty and macroeconomic volatility: Evidence from an emerging market. Review of Development Economics, 13(4), 592-609; Diaz, J. F., & Pandey, R. (2019). Factors affecting return on assets of US technology and financial corporations. Jurnal Manajemen dan Kewirausahaan, 21(2), 134-144; Goddard, J., Tavakoli, M., & Wilson, J. O. (2005). Determinants of profitability in European manufacturing and services: evidence from a dynamic panel model. Applied financial economics, 15(18), 1269-1282; Gujarati, D. N. (2003). Basic Econometrics. New York: McGraw-Hill; Horta, I. M., Camanho, A. S., & Da Costa, J. M. (2010). Performance assessment of construction companies integrating key performance indicators and data envelopment analysis. Journal of Construction engineering and Management, 136(5), 581-594; Hirsch, S., Schiefer, J., Gschwandtner, A., & Hartmann, M. (2014). The determinants of firm profitability differences in EU food processing. Journal of Agricultural Economics, 65(3), 703- 721; Lee, C. Y. (2014). The effects of firm specific factors and macroeconomics on profitability of property-liability insurance industry in Taiwan. Asian Economic and Financial Review, 4(5), 681-691; Lesakova, L. (2007, June). Uses and limitations of profitability ratio analysis in managerial practice. In International Conference on Management, Enterprise and Benchmarking (Vol. 259); Majumdar, S. K. (1997). The impact of size and age on firm-level performance: some evidence from India. Review of industrial organization, 12, 231-241; Malik, H. (2011). Determinants of insurance companies profitability: an analysis of insurance sector of Pakistan. Academic research international, 1(3), 315; Mirzaei, A., Moore, T., & Liu, G. (2013). Does market structure matter on banks’ profitability and stability? Emerging vs. advanced economies. Journal of Banking & Finance, 37(8), 2920-2937; Odusanya và cộng sự (2018). Determinants of firm profitability in Nigeria: Evidence from dynamic panel models. SPOUDAI-Journal of Economics and Business, 68(1), 43-58; Pattitoni, P. và cộng sự (2014). Determinants of profitability in the EU-15 area. Applied Financial Economics, 24(11), 763-775; Peck-Ling, T. và cộng sự (2016). Foreign ownership, foreign directors and the profitability of Malaysian listed companies. Procedia-Social and Behavioral Sciences, 219, 580-588; Pervan, M. và cộng sự (2019). Determinants of firm profitability in the Croatian manufacturing industry: evidence from dynami; Rathnasingha, D. L. P. M., & Heiyanthuduwa, C. P. (2019). Revisiting external pecking order hypothesis: Evidence from Sri Lankan companies capital structure; Salman, A. K., & Yazdanfar, D. (2012). Profitability in Swedish Micro-Firms: a quantile regression approach. International Business Research, 5(8); 13
- Stierwald, A. (2010). Determinants of profitability: An analysis of large Australian firms; Tan, Y., & Floros, C. (2012). Bank profitability and inflation: the case of China. Journal of Economic Studies; Vătavu, S. (2015). The impact of capital structure on financial performance in Romanian listed companies. Procedia Economics and Finance, 32, 1314-1322. https://www.cophieu68.vn/companylist.php. (2022). Retrieved from Cophieu68.vn; https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam. (2022). Retrieved from Wolrd Bank; https://kinhtevimo.vn/. (2022). Retrieved from Kinhtevimo; 14

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
GIÁO TRÌNH LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP THỂ DỤC THỂ THAO phần 4
20 p |
269 |
66
-
Du lịch cộng đồng ở vùng núi phía Bắc Việt Nam (Nghiên cứu trường hợp bản Sả Séng, Sapa, Lào Cai và bản Lác, Mai Châu, Hoà Bình)
23 p |
280 |
45
-
Bài giảng Du lịch bền vững (Sustainable tourism) - Chương 1: Khái quát về Du lịch bền vững
42 p |
141 |
27
-
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến dự định du lịch camping tại thành phố Đà Nẵng
16 p |
10 |
4
-
Lao động nữ dân tộc thiểu số trong phát triển du lịch tại Hòa Bình
10 p |
1 |
1
-
Một số yếu tố tác động đến xu hướng phát triển hành vi du lịch có trách nhiệm tại xã Hoà Bắc, huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng
13 p |
1 |
0
-
Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của du khách ở các điểm du lịch tâm linh, tỉnh Tây Ninh
12 p |
1 |
0


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
