VĂN MẪU LỚP 11<br />
TỔNG HỢP 8 BÀI PHÂN TÍCH NHÂN VẬT THỊ NỞ TRONG<br />
TRUYỆN NGẮN CHÍ PHÈO – NAM CAO<br />
BÀI MẪU SỐ 1:<br />
Xưa nay nói đến nhân vật nữ xấu nhất trong tác phẩm văn học, người ta sẽ không<br />
đắn đo khi nghĩ ngay đến nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam<br />
Cao. Nam Cao miêu tả nhân vật của mình điển hình đến nỗi Thị đàng hoàng bước ra khỏi<br />
tác phẩm, ngang nhiên mang theo tên tuổi và sống mãi trong lòng bạn đọc. Một nhân vật<br />
nữ hội đủ ba “phẩm chất”: Xấu xí, nghèo hèn, dở hơi. Có vẻ như nhà văn Nam Cao đã<br />
quá bất công với nhân vật của mình, nhất là khi nhân vật đó là nữ giới, sinh ra đã được<br />
đời "ban tặng" cho một mĩ từ - "phái đẹp". Phải chăng, Thị Nở là một khối tự nhiên<br />
không đẽo gọt, mang theo “ác cảm” của nhà văn khi sáng tạo? Là một người đàn bà thực<br />
sự xấu “ma chê quỷ hờn” đến thế? Đã miêu tả vậy, Nam Cao còn để chính người đàn bà,<br />
đó chứ không phải ai khác, “đánh thức” bản năng con người trong con quỷ dữ của làng<br />
Vũ Đại - Chí Phèo. Điều gì ở Thị Nở đã giúp Thị làm được điều đó?<br />
Nếu như Thúy Kiều có thể làm chàng Từ Hải (Truyện Kiều - Nguyễn Du) rung<br />
động bằng vẻ đẹp lộng lẫy, tài chơi đàn tuyệt hảo và con mắt biết nhìn kẻ sĩ anh hùng<br />
thời loạn; Esmeralda cảm hoá được thằng Gù trong tác phẩm "Nhà thờ Đức Bà Paris",<br />
hay nhân vật công chúa trong “Công chúa và quái vật" đã cảm hoá được quái vật bằng<br />
chính đức hạnh của họ, thì Thị Nở hoàn toàn không có được những phẩm chất đó.<br />
Thị được Nam Cao miêu tả “Thị sinh ra vốn đã xấu: “mặt của thị thực là một sự<br />
mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang lớn hơn bề dài,<br />
thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu má nó phinh phính thì mặt thị lại còn<br />
được hao hao như mặt lợn, là thứ mặt vốn nhiều hơn người ta tưởng, trên cổ người. Cái<br />
mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn<br />
nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi: có lẽ vì cố quá cho nên<br />
chúng nứt nở như rạn ra. Ðã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm<br />
một lần, cũng may quết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách. Ðã thế<br />
những cái răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho<br />
sự xấu...".<br />
Chắc hẳn, bạn đọc không khỏi rùng mình khi đọc những trang văn miêu tả về một<br />
cô gái. Có lẽ, cũng vì quá hiện thực hóa khi miêu tả mà có một thời, Nam Cao đã bị quy<br />
kết là “chủ nghĩa tự nhiên”. Xưa nay, đôi mắt bồ câu, lông mày lá liễu, cái mũi dọc dừa<br />
vốn là những chuẩn mực về vẻ đẹp người phụ nữ. Nhưng với Thị Nở thì hoàn toàn ngược<br />
<br />
lại, có thể nói, nhân vật trong tác phẩm văn học và cả ngoài đời thực, không một phụ nữ<br />
nào có thể xấu hơn Thị được nữa. Đã thế, run rủi thế nào Thị lại gặp Chí Phèo, một kẻ<br />
cùng đường và là con quái vật của làng Vũ Đại.<br />
Nếu quái vật trong “công chúa và quái vật” có vẻ ngoài xấu xí nhưng tâm hồn là<br />
của một chàng hoàng tử tốt bụng thì Chí Phèo lại là một con quỷ cả về thể xác lẫn linh<br />
hồn. Chí đã bị tha hoá một cách triệt để. Làm sao có thể yêu được một "con quỷ" như thế.<br />
Thế nhưng, Thị Nở đã có tình cảm ấy với Chí Phèo. Đêm trăng định mệnh đã xảy ra. Một<br />
kẻ dở hơi, xấu xí gặp một kẻ cùng đường, lưu manh hóa, và họ “yêu nhau”. Có lẽ, đây là<br />
lần đầu tiên trong đời họ được yêu thương đúng nghĩa con người nhất. Và cũng chính sau<br />
đêm đó, lần đầu tiên, Chí Phèo biết nghĩ vẩn vơ, biết rưng rưng nước mắt. Nghĩa là biết<br />
rung động trước cuộc đời. Điều đó phải chăng có được do bản năng dục tính? Vậy, nếu<br />
như sau đêm trăng đó, Thị Nở biến mất khỏi cuộc đời Chí thì liệu hắn có thức tỉnh như<br />
vậy hay không?<br />
Người đàn bà xấu đó trở về nhà sau đêm trăng và thị nghĩ: “mình bỏ hắn lúc này<br />
thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như vợ chồng. Tiếng<br />
vợ chồng, thấy ngường ngượng mà thinh thích... Thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi hôm<br />
nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được<br />
mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà…”.<br />
Thật kì diệu! một người đàn bà ngẩn ngơ, dở hơi như được lột xác và trở thành<br />
một phụ nữ biết quan tâm, chăm sóc người khác như thế. Không những thế mà ánh mắt,<br />
cử chỉ của Thị khi tự tay mang bát cháo hành sang cho Chí - người mà Thị đã coi như<br />
người đàn ông của đời mình, cũng chứa đầy yêu thương, lo lắng (“Thị Nở thì chỉ nhìn<br />
trộm hắn, rồi lại toe toét cười. Trông thị thế mà có duyên&rdquo . Ai đó đã từng nói rằng<br />
“mọi thứ đều đẹp dưới con mắt của kẻ đang yêu”, quả đúng như thế thật. Chính tình yêu<br />
đã biến Thị thành một người đàn bà có duyên - ít nhất là với Chí Phèo. Đây có lẽ là<br />
khoảnh khắc lung linh nhất trong cuộc đời Thị Nở, khoảnh khắc đẹp nhất của người phụ<br />
nữ khi được yêu. Thị đã yêu và được yêu. Tình yêu đó đánh thức bản năng biết yêu<br />
thương, quan tâm, chăm sóc trong con người Thị.<br />
Chỉ một phút chốc, trái tim “nét hạnh” của ngươì đàn bà ấy “bật sáng”. Những<br />
hành động, cử chỉ, việc làm ấy của Thị Nở khiến chúng ta nao lòng và quên mất Thị là<br />
người thế nào. Phải chăng cái "nét duyên thầm" bấy lâu bị rũ bỏ, bị vùi dập bởi sự hà<br />
khắc, nghiệt ngã từ sự định kiến đối với người đàn bà trong xã hội cũ, nhất là với những<br />
người phụ nữ kém may mắn như Thị.<br />
Nét duyên của Thị Nở không chỉ thể hiện qua cử chỉ nhẹ nhàng, e lệ, cái ánh mắt<br />
tình tứ dành cho Chí Phèo mà còn ngay cả trong suy nghĩ của Thị. Thị nghĩ đến Chí với<br />
hai tiếng “vợ chồng”. Thị đã coi Chí như người yêu, người chồng, Thị thấy mình cần có<br />
<br />
trách nhiệm chăm sóc khi Chí ốm. Đó chính là đức thuỷ chung, lòng hi sinh cao cả của<br />
những người phụ nữ Việt Nam.<br />
Vậy nhưng tình yêu đó đã bị vùi dập không thương tiếc khi bà cô của Thị Nở khi<br />
biết Thị muốn lấy Chí. Thị dở hơi thật nhưng cũng là con người, cũng có những cảm xúc<br />
của một con người. Thị biết yêu, biết cảm nhận được hạnh phúc và cũng biết đau khổ khi<br />
mất đi tình yêu của mình, dù cách thể hiện sự đau khổ ấy có phần “dở hơi”: Thị trút hết<br />
những lời bà cô đã nói lại cho Chí Phèo nghe, rồi ra về.<br />
Khi yêu thì yêu hết mình. Khi giận thì giận không tiếc. Ca dao có câu: “Yêu nhau<br />
cau sáu bổ ba/ Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười”. Khi yêu, tất cả đều đẹp, đều tốt.<br />
Nhưng khi giận thì “cái bé, xé ra to”. Thị đã rất giận người tình, dù cái giận vô duyên, vô<br />
cớ. Dường như, cái giận của Thị như sự đòi hỏi thường tình của bao cô gái: Tại sao anh<br />
không đẹp, không tốt để em được yêu? Đòi hỏi vô lý nhưng có lý khi trong Thị đã từng<br />
mơ màng đến ngôi nhà hạnh phúc lâu dài. Chao ôi, người con gái đáng yêu thương, đáng<br />
trân trọng chính là người biết và muốn vun vén cho hạnh phúc gia đình. Nghĩ như thế, ta<br />
lại thêm thương cảm cho người đàn bà trong Thị. Vậy, ai bảo đó không phải là nét duyên<br />
thầm tiềm ẩn trong đức hạnh của một người phụ nữ?!<br />
Trong cuộc sống ai đó sẽ đặt ra câu hỏi rằng : “Điều gì là quan trọng ở một con<br />
người”? “Vẻ đẹp có ý nghĩa gì trong cuộc sống”. Và Nam Cao đã để cho Thị Nở mang<br />
đến cho Chí Phèo cái ước muốn cao cả, đó là được làm người, sống lương thiện và hạnh<br />
phúc. Còn có vẻ đẹp nào của con người cao cả hơn thế. “Vẻ đẹp là cứu cánh của cuộc<br />
sống”, điều này hoàn toàn đúng với Chí và Thị Nở. với những nét duyên của người phụ<br />
nữ, Thị đã làm được điều đó.<br />
Nam Cao không tô vẽ nhân vật, nhưng ông đã khơi gợi những nét “con người” sâu<br />
thẳm, chân chất, mộc mạc tinh tế nhất trong họ. Đó mới là tinh hoa, mới là vẻ đẹp thật sự.<br />
Biết bao cô gái ngày nay, hình thức đẹp đẽ, học vấn cao nhưng không biết hi sinh như<br />
những người phụ nữ Việt Nam truyền thống xưa nay.<br />
Có oan quá không khi đổ lỗi cho Nam Cao ác cảm và bất công với nhân vật của<br />
mình? Sự cao cả của nhà văn chính là cho nhân vật một đời sống lâu bền trong lòng<br />
người đọc. Nam Cao không chỉ cho Thị Nở sống bằng vẻ ngoài thô ráp mà ông đã thổi<br />
vào nhân vật nữ ngờ nghệch một nét rất duyên – Nét duyên thầm của người phụ nữ./.<br />
<br />
BÀI MẪU SỐ 2:<br />
“Chí Phèo” của Nam Cao là kiệt tác trong nền văn học hiện thực Việt Nam. Tác<br />
giả đã xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình là Chí Phèo. Qua nhân vật<br />
này ông gửi gắm khát vọng rất đỗi bình dị của con người những lại đi vào bế tắc. Nếu<br />
Chí Phèo vừa đáng trách, vừa đáng thương thì Thị Nở lại là nhân vật để lại nhiều ám ảnh<br />
đối với người đọc.<br />
Thị Nở trong từng trang viết của Nam Cao là người con gái xấu xí, ngẩn ngơ đến<br />
nỗi “ma chê quỷ hờn”. Không phải Thị Nở nghiễm nhiên bước vào trang truyện của Nam<br />
Cao, đó chính là dụng ý nghệ thuật cũng là dụng ý nhân văn mang ý nghĩa sâu xa. Đó<br />
cũng chính là tấm lòng của Nam Cao dành cho Chí Phèo. Hắn sinh ra không có ai thân<br />
thiết, bị người đời gạt bỏ; chỉ có Thị Nở đối với hắn tốt như vậy. Thị Nở chính là người<br />
có thể kéo Chí Phèo ra khỏi vũng bùn tăm tối.<br />
Thi Nở được Nam Cao xây dựng rất kì công từ hình thức đến tâm hồn. Đó là một<br />
người đàn bà có ngoại hình xấu xí, vừa xấu vừa ngớ ngẩn. Cái xấu của Thị Nở được Nam<br />
Cao gói gọn trong 4 từ “ma chê quỷ hơn”. CHỉ 4 chữ đó đã có thể khiến người đọc hình<br />
dung ra “dung mạo” người phụ nữ làng Vũ Đại này. Người ta vẫn bảo ở đời ít người vừa<br />
xấu xí, vừa nghèo, vừa ngớ ngẩn. Nhưng thực ra Thị Nở lại mang trong mình cả 3 điều<br />
đó.<br />
Không phải Nam Cao không yêu thương nhân mình của mình, chỉ là ông yêu họ<br />
theo một cách khác, đặc biệt hơn, như chính con người của họ. Chỉ có như thế Thị Nở<br />
mới có thể sánh với CHí Phèo, những người cùng cảnh ngộ.<br />
Thị Nở nghèo, cái nghèo đeo bám. Cả làng Vũ Đại ai cũng biết đến Thị, vì ngoại<br />
hình thô kệch và nghèo. Thị đi gánh nước thuê để kiếm sống qua ngày. Thị cúng như Chí<br />
Phèo, không được ai yêu thương.<br />
Có lẽ đây chính là dụng ý của Nam Cao khi để Chí Phèo và Thị Nở gặp nhau.<br />
Những kẻ cùng đường trong xã hội đến với nhau, yêu thương nhau, có thể chỉ trong phút<br />
chốc nhưng cũng gọi là có được tình yêu.<br />
Thị Nở là người đàn bà nghèo, xấu xí, tính tình ngẩn ngơ nhưng lại có một tấm<br />
lòng trong, rất sáng, là tình yêu thương người. Có lẽ đây chính là điều mà Nam Cao muốn<br />
gửi gắm, nhắn nhủ đến mọi người.<br />
Nhân vật thị nở được khắc họa qua đêm gặp Chí Phèo, qua chi tiết bát cháo hành,<br />
qua từng cử chỉ ân cần và lời hỏi thăm dành cho Chí. Có lẽ đây là đoạn văn thấm đẫm<br />
tình yêu, đoạn văn đẹp giữa những con người cùng cực, bế tắc trong xã hội.<br />
Thị Nở thương Chí Phèo, một tình thương xuất phát từ trái tim, lòng cảm thông<br />
sâu sắc, không vụ lợi, không cá nhân. Chỉ đơn giản đó là tình yêu. Chí Phẻo – con quỷ<br />
<br />
làng Vũ Đại, nhưng hắn cũng là người, cũng cần được yêu thương. Hắn cần Thị, cả cuộc<br />
đời hắn cần thị như thế.<br />
Thị Nở và Chí Phèo đến với nhau trong cái đêm hôm ấy, đêm Chí Phèo say rượu,<br />
họ sống như vợ chồng suốt mấy ngày. Bát cháo hành là động lực, là sợi dây kết nối tình<br />
cảm giữa Thị Nở và Chí Phèo. Có thể nói Thị Nở và bát cháo hành là cứu cánh cho cuộc<br />
đời của Chí Phèo về sau.<br />
Tác giả đã xây dựng thành công nhân vật Thị Nở giữa những trang truyện chỉ toàn<br />
đau thương và oán hận của Chí Phèo. Thị Nở chính là tia sáng, đánh thức và khơi gợi<br />
lương tâm của Chí Phèo những ngày cuối cùng của cuộc đời. Chí ít dù sau này Chí Phèo<br />
có tự kết liễu đời mình thì Chí cũng đã cảm nhận được như thế nào là tình yêu, là tình<br />
người.<br />
Thị Nở là hiện thân của sự khao khát tình yêu lứa đôi bình dị, chân thành, mãnh<br />
liệt, không vụ lời. Đó là tình cảm mà CHí Phèo luôn khát khao nhưng lại không có được.<br />
Nam Cao đã để lại trong lòng người đọc nhiều ám ảnh về nhân vật Thị Nở. Là<br />
người có thể làm thay đổi Chí Phèo, cũng là người mang lại yêu thương nhỏ nhoi, ít ỏi<br />
cho Chí. Đây chính là giá trị nhân văn của truyện ngắn Chí Phèo<br />
<br />