VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI VIỆT HƯNG
PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG THÔN BA LAN TRONG NHỮNG
THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO
VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ
Ngành: Kinh tế quốc tế
Mã số: 9. 31. 01. 06
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Nguyễn An Hà
2. PGS.TS. Đặng Minh Đức
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và chưa từng để
bảo vệ ở bất kỳ học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận án này đều được chỉ
rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày tháng 8 năm 2020
Tác giả luận án
Bùi Việt Hưng
LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận án này, tác giả đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tạo
điều kiện của Học viện Khoa học xã hội, Khoa Kinh tế quốc tế và các Thầy, Cô giáo
đã nhiệt tình chỉ dạy, hướng dẫn
Đặc biệt, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến người
hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn An Hà và PGS.TS. Đặng Minh Đức, Viện
nghiên cứu Châu Âu, các anh, chị, em đồng nghiệp đã tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện
để tôi hoàn thành luận án
Luận án là công trình nghiên cứu độc lập của tác giả nên không thể tránh được
những thiếu sót, rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các nhà khoa học,
của các thầy giáo, cô giáo và các bạn đồng nghiệp để luận án được tốt hơn.
Trân trọng cảm ơn!
Tác giả
Bùi Việt Hưng
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................................... i
DANH MỤC CÁC BẢNG ................................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC HÌNH .....................................................................................................iii
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1:TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ................................................ 8
1.1. Những công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến luận án ..................................... 8
1.1.1.Nghiên cứu lý luận về khu vực nông thôn và thành thị .............................................. 8
1.1.2.Nghiên cứu lý luận về kinh tế nông thôn.................................................................. 10
1.1.3.Những nghiên cứu về phương thức phát triển kinh tế nông thôn ............................. 12
1.1.4. Nghiên cứu các trường hợp cụ thể về phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan ............ 13
1.1.5. Nghiên cứu về phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn của Việt Nam ........... 16
1.2.Một số kết luận được rút ra liên quan đến luận án và khoảng trống cần phải tiếp tục
nghiên cứu trong luận án........................................................................................................ 19
1.2.1.Các vấn đề đã thống nhất: ........................................................................................ 19
1.2.2. Những vấn đề liên quan đến đề tài luận án mà các công trình trên còn bỏ ngỏ cần
tiếp tục nghiên cứu: ........................................................................................................... 21
1.3 Câu hỏi nghiên cứu và khung phân tích phát triển kinh tế nông thôn ............................. 22
1.3.1.Các câu hỏi nghiên cứu ............................................................................................ 22
1.3.2.Khung phân tích của luận án .................................................................................... 23
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG THÔN ............ 25
2.1. Các lý thuyết về phát triển kinh tế nông thôn ................................................................. 25
2.1.1 Lý thuyết hai khu vực ( lý thuyết nhị nguyên)......................................................... 25
2.1.2. Thuyết tăng trưởng nội sinh (hay thuyết tăng trưởng mới) ..................................... 26
2.1.3. Lý thuyết sinh kế bền vững ..................................................................................... 27
2.1.4. Lý thuyết về mô hình nông thôn mới ...................................................................... 28
2.2. Phát triển kinh tế nông thôn ............................................................................................ 32 2.2.1. Các khái niệm về khu vực nông thôn, kinh tế nông thôn và phát triển kinh tế nông
thôn .................................................................................................................................... 32
2.2.2. Đặc điểm phát triển kinh tế nông thôn .................................................................... 37
2.2.3. Nội dung phát triển kinh tế nông thôn ..................................................................... 40
2.3. Các nhân tố tác động đến phát triển kinh tế nông thôn ................................................... 48
2.3.1. Nhân tố tác động bên ngoài ..................................................................................... 48
2.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng bên trong quốc gia ............................................................. 54
2.4. Tiêu chí đánh giá phát triển kinh tế nông thôn ............................................................... 56 2.4.1. Nhóm tiêu chí đánh giá sản xuất nông nghiệp trong khu vực nông thôn ................ 57
2.4. 2. Nhóm tiêu chí đánh giá các hoạt động phi nông nghiệp ........................................ 58
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG THÔN BA LAN
NHỮNG THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI ....................................................................... 60
3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khu vực nông thôn Ba Lan ....................................... 60
3.1.1. Điều kiện tự nhiên ................................................................................................... 60
3.1.2. Điều kiện kinh tế- xã hội . ...................................................................................... 61
3.2. Phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan trong những thập niên đầu thế kỷ XXI ................. 67
3.2.1 Một số nét chính về kinh tế nông thôn Ba Lan ......................................................... 67
3.2.2. Các biện pháp phát triển kinh tế khu vực nông thôn Ba Lan .................................. 75
3.3. Đánh giá thành công và hạn chế về phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan ...................... 98
3.3.1. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan ............ 98
3.3.2. Một số kết quả đạt được trong phát triển kinh tế nông thôn.................................. 101
3.3.3. Những hạn chế và nguyên nhân ............................................................................ 107
3.3.4. Một số đánh giá về những sáng kiến, giải pháp mà Ba Lan đã thực hiện trong phát
triển kinh tế nông thôn ..................................................................................................... 108
CHƯƠNG 4: BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT
NAM .................................................................................................................................... 114
4.1. Tương đồng và khác biệt trong phát triển kinh tế nông thôn giữa Ba Lan và Việt Nam
............................................................................................................................................. 114
4.1.1.Một số điểm tương đồng giữa hai nước ................................................................. 114
4.1.2. Một số điểm khác biệt ........................................................................................... 126
4.2. Bài học kinh nghiệm trong phát triển kinh tế nông thôn .............................................. 131
4.2.1.Một số bài học thành công của Ba Lan mà Việt Nam có thể học hỏi .................... 131
4.2.2. Một số bài học chưa thành công, cần tránh ........................................................... 138
4.3. Hàm ý chính sách trong triển khai phát triển kinh tế nông thôn ở Việt Nam ............... 139
4.3.1 Hoàn thiện khung khổ chính sách phát triển kinh tế nông thôn ............................. 139
4.3.2 Hội nhập khu vực và quốc tê đối với phát triển kinh tế nông thôn. ....................... 142
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 148 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN ........................................................................................................................... 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 152 PHỤ LỤC ............................................................................................................................ 163
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASIF Agricultural Social Insurance Fund Quỹ bảo hiểm xã hội nông nghiệp
CAP Common Agriculture Policy Chính sách nông nghiệp chung
EAFRD European Agricultural Fund for Quỹ nông nghiệp châu Âu đối với
Rural Development phát triển nông thôn
EAGF European Agricultural Guarantee Quỹ bảo đảm nông nghiệp châu
Fund Âu
EC European Commision Uỷ ban Châu Âu
EU Eurpean Union Liên minh châu Âu
EFTA European Free Trade Association Khu vực mậu dịch tự do Châu Âu
FAO Food and Agriculture Organization Tổ chức nông lương Liên hiệp
quốc
FTA Free Trade Agreement Hiệp định Thương mại tư do
GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội
NDS National Development Stratergy Chiến lược phát triển quốc gia
NGO Non-Governmental Organization– Tổ chức phi chính phủ
MARD Ministry of Agriculture and Rural Bộ nông nghiệp và Phát triển nông
Development thôn
LED Local Economic Development Phát triển kinh tế địa phương
PR Predominantly rural Khu vực trung gian nông thôn
RDP Regional Development Programme Chương trình phát triển khu vực
OECD Organization for Economic Tổ chức Hợp tác và Phát triển
Cooperation and Development Kinh tế
SME Small and medium-sized enterprise Doanh nghiệp vừa và nhỏ
SPS Sanitary and Phytosanitary Các biện pháp vệ sinh và kiểm
dịch động vật của WTO
WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1 Dân số Ba Lan theo khu vực giai đoạn 2010- 2018 61
Bảng 3.2 Thị trường lao động Ba Lan qua các năm 64
Bảng 3.3 Tỷ lệ việc làm phân theo trình độ học vấn 65
Bảng 3 4 Khu vực nông thôn Ba Lan năm 2018 72
Bảng 3.5 giá trị sản lượng nông nghiệp Ba Lan 76
Bảng 3.6 Số lao động tự chủ kinh doanh giai đoạn 2012- 2016 87
Bảng 3.7 Phân tích SWOT kinh tế nông thôn Ba Lan 98
Bảng 4.1 Số lượng các thôn xã Việt Nam 118
Bảng 4.2 Tăng trưởng ngành nông nghiệp Việt Nam 2005- 2016 119
Bảng 4.3 Một số hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam năm 2016 120
Bảng 4.4 Số người lao động có khả năng lao động trong khu vực nông 125
thôn phân theo trình độ
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình2.1 Mô hình lý thuyết phát triển nông thôn mới – The New Rural 27
Paradigm
Hình 2.2. Khung phân tích phát triển kinh tế nông thôn 57
Hình 3.1 Quy mô các trang trại sản xuất nông nghiệp Ba Lan 79
Hình 3.2 Số lượng giấy phép cấp cho người nước ngoài mua bất động 81
sản ở Ba Lan
Hình 3.3 Tỷ trọng xuất nhập khẩu hàng nông sản Ba Lan 82
Hình 3.4 Kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nông sản Ba Lan giai 82
đoạn 2004-2017
Hình 3.5 Ngân sách thực hiện các chương trình phát triển nông thôn từ 85
EU chuyển cho Ba Lan giai đoạn 2004-2015
Hình 3.6 Thực trạng khu vực nông thôn Ba Lan đối với việc phát triển 86
mô hình tự kinh doanh ( Self employment)
Hình 3.7 Cơ cấu các trang trại sản xuất phi nông nghiệp Ba Lan năm 89
2014
Hình 3.8 Chỉ số đổi mới Ba Lan giai đoạn 2011- 2018 94
Hình 4.1 Năng suất lao động nông nghiệp của Việt Nam so với một số 120
các quốc gia
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Phát triển kinh tế nông thôn với mục tiêu cải thiện cuộc sống người dân khu
vực nông thôn thông qua việc triển khai các chính sách, hoạt động nhằm đa dạng
hóa kinh tế nông thôn, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, khuyến
khích sự tham gia của người dân, doanh nghiệp vào các hoạt động sản xuất phi
nông nghiệp, gắn kết sản xuất với các vấn đề về an ninh lương thực, nâng cao chất
lượng nguồn lực lao động nông thôn... luôn là những ưu tiên hàng đầu trong chính
sách phát triển kinh tế - xã hội ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Sau khi trở thành thành viên của EU vào ngày 1/5/2004, Chính phủ Ba Lan
đã thực hiện cải cách một cách sâu rộng và toàn diện, đáp ứng nghiêm ngặt các tiêu
chuẩn gia nhập của EU trên tất cả các góc độ: Từ việc cải cách luật pháp, chính trị
đến hoàn thiện khung thể chế kinh tế thị trường với mục tiêu tăng trưởng nhanh và
bền vững, thu hẹp khoảng cách thu nhập đầu người với mức bình quân chung của
EU, thúc đẩy cải cách các vấn đề xã hội...tiến hội nhập toàn diện vào khu vực Liên
minh Châu Âu. Trong bối cảnh như vậy, nông thôn Ba Lan cũng đã từng bước đáp
ứng các tiêu chuẩn chung của EU theo hướng cạnh tranh, hiện đại và phát triển bền
vững. Những kết quả đạt được trong việc triển khai chính sách phát triển kinh tế
nông thôn của Ba Lan trong thời gian qua đã tạo ra những chuyển đổi kinh tế, xã
hội khu vực nông thôn hết sức ấn tượng: Quy mô trang trại nông nghiệp được điều
chỉnh theo hướng tích tụ; cơ sở hạ tầng nông thôn cải thiện rõ rệt, thu nhập của
người nông dân đã tăng nhanh và tiệm cận với thu nhập người dân đô thị; tỷ lệ lao
động qua đào tạo đại học khu vực nông thôn được cải thiện, thất nghiệp khu vực
nông thôn giảm đáng kể. Các vấn đề xã hội như hệ thống an sinh, chăm sóc sức
khỏe, bảo vệ môi trường khu vực nông thôn…đã hướng tới phát triển bền vững.
Việt Nam, qua 30 năm đổi mới, khu vực kinh tế nông thôn đã có những
chuyển biến rõ rệt, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được cải
thiện, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; công tác xóa đói giảm
nghèo đạt kết quả to lớn. Hoạt động sản xuất nông nghiệp đạt mức tăng trưởng
1
nhanh và ổn định trong một thời gian dài, đưa Việt Nam đã trở thành một nước xuất
khẩu nông sản hàng đầu thế giới. Chính sách phát triển nông thôn tiếp cận theo
hướng xây dựng “nông thôn mới” được bắt đầu từ năm 2008 thông qua Nghị quyết
số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn của Ban Chấp
hành Trung ương Khóa X, đã tạo ra những tác động tích cực cải thiện cuộc sống
người dân khu vực nông thôn...
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận, phát triển kinh tế nông
thôn ở Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức và hạn chế, nhiều chỉ số
tăng trưởng đang giảm, các nguồn lực cho việc mở rộng sản xuất như đất canh tác
và nguồn tài nguyên khác đã được sử dụng đến mức tới hạn. Bên cạnh đó, dân số
sống bằng nghề nông hiện vẫn còn chiếm tỷ trọng quá cao song lại đóng góp chưa
đầy 20% GDP, khoảng cách chênh lệch thu nhập giữa nông dân và thị dân ngày
càng cao, diện tích đất nông nghiệp giảm do quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá;
dịch vụ nông thôn kém phát triển; khu vực nông thôn phát triển thiếu quy hoạch…
nông nghiệp, nông dân còn dễ bị tổn thương do tác động của hội nhập quốc tế, của
các tình huống bất thường về tự nhiên và biến đổi khí hậu.
Trong quá trình phát triển, Việt Nam cần học hỏi những nước có nền sản xuất
nông nghiệp tương đồng và những chính sách phát triển kinh tế nông thôn đã thành
công để học hỏi và rút ra bài học kinh nghiệm. Chính vì vậy, việc thực hiện luận án
“Phát triển kinh tế nông thôn ở Ba Lan trong những thập niên đầu thế kỷ XXI và bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam” với việc nghiên cứu và làm rõ khung lý thuyết phát
triển kinh tế nông thôn, phân tích và đánh giá những thành công và hạn chế trong
phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan, trong bối cảnh nước này đang thực hiện quá
trình hội nhập sâu rộng vào Liên minh châu Âu… sẽ là những bài học kinh nghiệm
hết sức quý báu cho Việt Nam trong việc hoạch định chiến lược và triển khai
chương trình phát triển kinh tế nông thôn một cách có hiệu quả trong thời gian tới.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1.Mục đích nghiên cứu:
Luận án đi sâu vào luận giải và làm rõ các vấn đề về lý luận và thực tiễn
phát triển kinh tế nông thôn, phân tích và đánh giá thực trạng phát triển kinh tế nông
2
thôn ở Ba Lan trong những thập niên đầu thế kỷ XXI, đánh giá những nét tương
đồng, sự khác biệt và điều kiện có thể áp dụng vào Việt Nam. Trên cơ sở đó rút ra
một số bài học kinh nghiệm và gợi ý chính sách cho Việt nam trong thời gian tới.
2.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án tập trung thực hiện những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, tổng quan các công trình nghiên cứu về phát triển kinh tế nông thôn đã
công bố có nội dung liên quan trực tiếp đến luận án, chỉ ra những vấn đề lý luận và
thực tiễn mà luận án cần phải tiếp tục nghiên cứu và làm rõ.
Thứ hai, nghiên cứu, đánh giá và phân tích các chính sách phát triển kinh tế nông
thôn ở Ba Lan, thực trạng triển khai các chương trình phát triển kinh tế nông thôn
Ba Lan trong những thập niên đầu thế kỷ XXI.
Thứ ba, trên cơ sở đánh giá những thành công, những điểm còn tồn tại, và thách
thức đặt ra trong phát triển kinh tế nông thôn mà Ba Lan phải tiếp tục giải quyết,
đánh giá những điểm tương đồng và khả năng áp dụng các bài học kinh nghiệm đối
với Việt Nam, luận án đề xuất gợi mở một số giải pháp khuyến nghị chính sách phát
triển kinh tế nông thôn bền vững ở Việt nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Luận án tập trung vào đối tượng phát triển kinh tế nông thôn ở Ba Lan nhìn
từ các góc độ hoạt động sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp trong khu vực
nông thôn, vai trò của chính phủ Ba Lan trong việc ban hành, thực hiện các chính
sách, chương trình phát triển kinh tế nông thôn.
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nội dung: Luận án nghiên cứu các vấn đề phát triển kinh tế nông
thôn trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, trong đó tập trung vào các nội dung
chủ yếu như: Các hoạt động sản xuất nông nghiệp (theo nghĩa hẹp không bao gồm
lâm nghiệp và thủy sản) và các hoạt động phi nông nghiệp tại khu vực nông thôn Ba
Lan.
Phạm vi về không gian: Luận án tập trung sâu vào phân tích, đánh giá tình
3
hình phát triển kinh tế nông thôn ở Ba Lan.
Phạm vi về thời gian: Những thập niên đầu thế kỷ XXI, trong đó tập trung
phân tích sâu từ thời điểm năm 2004 trở lại đây (Sau khi Ba Lan trở thành thành
viên chính chức của Liên minh châu Âu)
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận và cách tiếp cận vấn đề
4.1.1. Phương pháp luận:
Dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong học thuyết Mác- Lênin để xem xét quá
trình phát triển kinh tế nông thôn ở Ba Lan sau khi Ba Lan trở thành thành viên
chính thức của Liên minh châu Âu.
4.1.2. Phương pháp tiếp cận
Tiếp cận lịch sử. Quan điểm lịch sử cụ thể được quán triệt trong quá trình
nghiên cứu, đặc biệt việc xem xét bối cảnh hình thành chính sách phát triển nông
thôn của EU, chính sách phát triển nông thôn Ba Lan và mục tiêu chính sách này
đến chương trình phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan.
Tiếp cận hệ thống : Việc phân tích và đánh giá các vấn đề ở đây được đặt trong
một phức hợp những yếu tố có liên quan với nhau một cách nhân quả, tạo ra một
chỉnh thể thống nhất, từ khuôn khổ qui định, quá trình vận động của chính sách phát
triển nông thôn đến việc triển khai chương trình phát triển kinh tế nông thôn Ba
Lan.
Tiếp cận liên ngành: Phát triển nông thôn cần được xem xét và phân tích theo
hướng tiếp cận liên ngành bao gồm: Kinh tế, xã hội và môi trường, nghiên cứu dưới
nhiều khía cạnh khác nhau và có sự phối hợp của nhiều ngành khoa học xã hội nhân
văn như khoa học lịch sử, chính trị học, kinh tế phát triển, kinh tế nông nghiệp v.v..
Tiếp cận kinh tế quốc tế: cho phép đề tài tiếp cận hoạt động về kinh tế nông
thôn trong sự phụ thuộc về các chính sách phát triển khu vực, cũng như xác định sự
đóng góp của lĩnh vực này đối với Ba Lan. Khoa học kinh tế quốc tế cũng cho phép
đề tài xác định, định tính và định lượng, phân tích các số liệu liên quan về phát triển
kinh tế nông thôn trong bối cảnh Ba Lan đã và đang phát huy những lợi thế so sánh,
4
tận dụng những nguồn lực hỗ trợ từ khu vực để phát triển kinh tế nông thôn.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
Luận án sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp, trong đó các phương pháp được
sử dụng chủ yếu như sau:
4.2.1.Phương pháp thu thập số liệu:
Luận án tiếp cận từ các tài liệu thứ cấp từ các tổ chức quốc tế như: Ủy ban
châu Âu, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn Ba Lan, các công trình nghiên
cứu của các chuyên gia châu Âu và chuyên gia các nước khác, các thông tin trên
sách báo điện tử, các số liệu của các cơ quan hữu quan của một số nước châu Âu và
Việt Nam trên tất cả các khía cạnh liên quan đến phát triển kinh tế nông thôn.
4.2.2. Phương pháp xử lý số liệu
Các tài liệu được tập hợp, dịch (nếu là tài liệu tiếng nước ngoài), sắp xếp, phân
loại theo từng chủ đề nội dung trong khung phân tích. Các số liệu cần xử lý thống
kê được nhập số liệu và xử lý số liệu qua phần mềm Excel để hình thành các bảng
biểu, biểu đồ, đồ thị.
Phương pháp thông kê, phân tích và dự báo: Phân tích các số liệu thống kê về
tình hình phát triển kinh tế xã hội Ba Lan, tính toán tốc độ tăng trưởng kinh tế, tính
tỷ trọng kinh tế khu vực nông thôn trong nền kinh tế quốc dân ở các giai đoạn khác
nhau.
Phương pháp so sánh: được sử dụng để đánh giá mức độ khác nhau giữa các
thời kỳ như tăng giảm trong sản xuất nông nghiệp, lao động nông thôn…
Phương pháp phân tích SWOT: Phương pháp SWOT (còn gọi là ma trận
SWOT) là phương pháp phân tích các điểm mạnh (Strengths), Điểm yếu
(Weaknesses), Cơ hội (Opportunities) và Thách thức(Threats). Phương pháp này sử
dụng, để cho thấy thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng một cách rõ ràng nhất, từ đó
nhìn nhận rõ hơn những giải pháp của Chính phủ Ba Lan trong việc phát huy thế
mạnh, tận dụng cơ hội cũng như khắc phụ điểm yếu trong phát triển kinh tế nông
thôn nhằm đối phó với thách thức đặt ra.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, hoàn thiện khung lý thuyết về phát triển kinh tế nông thôn, thông
5
qua việc:
- Làm rõ những lý thuyết về phát triển kinh tế nông thôn, khái niệm, đặc điểm
và nội dung về khu vực nông thôn và phát triển kinh tế nông thôn.
- Phân tích các yếu tố tác động đến phát triển kinh tế nông thôn ở Ba Lan bao
gồm:
Nhân tố bên ngoài: Bối cảnh khu vực và quốc tế ( Chính sách phát triển nông
thôn của khu vực như cuộc khủng hoảng nợ công, vấn đề di cư, già hóa dân số, sự
kiện Brexit).
Nhân tố bên trong: Điều kiện tự nhiên, bối cảnh kinh tế xã hội Ba Lan, hệ
thống các chính sách, các nguồn lực tài chính, khoa học công nghệ…
Làm rõ các tiêu chí đánh giá sự phát triển kinh tế nông thôn gồm các nhóm
tiêu chí: Nhóm tiêu chí đánh giá sản xuất nông nghiệp và các tiêu chí đánh giá phát
triển phi nông nghiệp.
Thứ hai, phân tích và làm rõ về thực thực trạng phát triển kinh tế nông thôn
Ba Lan, đánh giá những thành công, hạn chế và thách thức đặt ra trong phát triển
kinh tế nông thôn ở Ba Lan những thập niên đầu thế kỷ XXI.
Thứ ba, rút ra những bài học kinh nghiệm và hàm ý chính sách cho Việt Nam
trên cơ sở phân tích và đánh giá những điểm tương đồng, khác biệt giữa Ba Lan.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án:
Bằng cách tiếp cận và sử dụng các phương pháp nghiên cứu một cách logic,
luận án đã chỉ ra phát triển kinh tế nông thôn theo lý thuyết mô hình nông thôn mới
với việc phát triển sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp, khai thác những sáng
kiến ở cấp địa phương đang trở thành xu hướng chính trong phát triển nông thôn ở
các nước phát triển và đang phát triển.
6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn:
Luận án đã chỉ ra ra một số bài học kinh nghiệm cho phát triển kinh tế nông
thôn Việt Nam từ việc đánh giá những thành công và tồn tại, những điểm tương
đồng và điều kiện áp dụng trong triển khai phát triển phát triển kinh tế nông thôn ở
6
Ba Lan. Luận án cũng đã chỉ ra cơ hội và thách thức đặt ra đối với phát triển kinh tế
nông thôn Việt Nam trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng với khu vực
và thế giới.
Kết quả nghiên cứu của luận án là một tài liệu hết sức hữu ích cho công tác
giảng dạy ở các trường đại học, tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước, các nhà hoạch định và thực thi chính sách phát triển kinh tế nông thôn
ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung chính của luận án kết cấu gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu.
Chương 2: Cơ sở lý luận về phát triển kinh tế nông thôn.
Chương 3: Thực trạng phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan những thập niên đầu thế
kỷ XXI.
7
Chương 4. Bài học kinh nghiệm và hàm ý chính sách cho Việt Nam.
CHƯƠNG 1:TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Những công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến luận án
Phát triển nông thôn nói chung và kinh tế nông thôn nói riêng là một chủ đề
nghiên cứu đã và đang thu hút được khá đông các học giả trong và ngoài nước
nghiên cứu. Những quan điểm, kết quả nghiên cứu được công bố còn cho thấy
những bất đồng khó được giải quyết và áp dụng đối với tất cả các quốc gia, thể
hiện: Phương pháp luận, tiêu chí đánh giá hợp lý nào được áp dụng nhằm đo lường
được một khu vực nông thôn rộng lớn và đa dạng trên toàn khu vực? Khái niệm
phát triển kinh tế nông thôn có phải đơn thuần là khái niệm “Phát triển kinh tế” áp
dụng vào khu vực nông thôn? hay trọng tâm của phát triển kinh tế khu vực nông
thôn là gì? các chỉ số đánh giá phát triển kinh tế nông thôn có phải là thu nhập bình
quân của các nông hộ, cấu trúc kinh tế nông thôn, năng suất lao động nông thôn,
quy hoạch phát triển trang trại, cải thiện cơ sở hạ tầng?…Như vậy, để làm rõ được
các nội dung đã được các học giả nghiên cứu, qua tổng quan tài liệu, tác giả nhóm
các công trình tiêu biểu cụ thể theo các vấn đề sau:
1.1.1.Nghiên cứu lý luận về khu vực nông thôn và thành thị
Trong cuốn “How special are rural areas? The economic implications of
location for rural development”của tác giả Wiggins S, Proctor S (2001) [140] cho
rằng cần phải phân biệt khu vực nông thôn, khu vực bán đô thị và khu vực đô thị, để
từ đó xác định và làm rõ hơn những tương tác giữa các khu vực, giữa chính sách với
các hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp.
Trong công trình “ Rural Definitions” của Kathy Miller (2002) [11] đã chỉ
ra những nguyên nhân tại sao lại có nhiều định nghĩa và cách hiểu khác nhau về “
nông thôn” tại Mỹ. Những nguyên nhân này được nhìn nhận ở phạm vi khu vực hay
thẩm quyền của chính quyền các bang cũng như là những dữ liệu về khu vực còn bị
hạn chế... Theo đó, tác giả đã lập luận cho rằng khái niệm “nông thôn” và “đô thị”
cần được xác định dựa vào các tiêu chí chính là mật độ dân số. Tiêu chí này cũng
nên được làm chuẩn cho các cuộc điều tra khu vực nông thôn.
Trong công trình nghiên cứu về phát triển nông thôn “Rural Development
8
and Poverty Reduction: Is Agriculture Still the Key” Của tác giả Gustavo Anríquez
và Kostas Stamoulis (2007) [94] cho thấy: Khái niệm nông thôn đã được các tác giả
phân tích theo trục thời gian từ những thập kỷ 60 của thế kỷ trước để nhấn mạnh:
Khu vực nông thôn là khu vực có đặc trưng mật độ dân số thấp, nghèo nàn, lạc hậu
và chậm phát triển ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Với việc hình thành khái
niệm này, tác giả đã đưa ra những luận điểm khẳng định: Phát triển nông thôn đã
cải thiện cuộc sống cho người dân ở khu vực nông thôn, tạo ra sự phát triển bền
vững, nâng cao mức sống và phúc lợi cho người dân khu vực nông thôn.
Tại khu vực châu Âu, European Commision (2014) [83] cũng đã đưa ra quy
định “khu vực nông thôn” là khu vực có mật độ dân số dưới 150 người trên mỗi
km2. Việc đồng bộ và sử dụng khái niệm “khu vực nông thôn” theo một chuẩn
chung chỉ rõ hơn về mức độ đô thị hóa trên toàn cầu. Song, cách thức làm thế nào
để đồng bộ hóa khung lý thuyết về phát triển nông thôn, để khái niệm này có thể áp
dụng chung cho cả các quốc gia phát triển và đang phát triển thì lại bắt buộc cần
phải có những nghiên cứu sâu hơn, cũng như cách tiếp cận khác mới tìm ra được.
Nhìn nhận về sự phát triển khu vực nông thôn, tác giả Joop de Beer (2014)
[109] cũng đã đưa ra quan điểm cho rằng: Quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh nhất tại
một số khu vực châu Âu vào những năm của thập kỷ 50 và 60 và giảm xuống ở
những thập kỷ gần đây. Mức độ đô thị hóa lại phụ thuộc vào cách phân loại của
từng quốc gia. Do vậy, việc so sánh giữa các quốc gia ở vào các thời điểm đó là rất
khó khăn.
Khái niệm khu vực nông thôn tiếp tục được tác giả Camelia Burja, Vasile
Burja (2014) [74 ] hoàn thiện hơn dựa vào số phần trăm dân số sống tại các khu vực
để hình thành nên khu vực nông thôn, đô thị và khu vực bán đô thị. Khái niệm này
được sử dụng để làm cơ sở phân tích và đánh giá phát triển kinh tế nông thôn đối
với khu vực nông thôn ở một số nước Đông Âu như Rumani và Ba Lan.
Gần đây nhất, tác giả Gustavo Bastos BragaI và các cộng sự, (2016) [95]
một lần nữa khẳng định khái niệm “khu vực nông thôn” đến nay vẫn là một khái
niệm còn gây nhiều tranh cãi trong giới học giả, các nhà nghiên cứu. Do vậy, tác giả
9
đã sự dụng pháp luận của OECD (2009) để đưa ra phương thức tiếp cận và định
hình rõ hơn về khu vực nông thôn làm cơ sở để phân tích các hiện tượng phát triển
kinh tế nông thôn.
Tại Việt Nam, nhằm trang bị cho các sinh viên những nền tảng cơ bản về
kiến thức về phát triển kinh tế nông thôn, một số các trường đại học như Đại học
kinh tế quốc dân, Học viện Nông nghiệp đã xuất bản các giáo trình của tác giả Mai
Thanh Cúc và Quyền Đình Hòa (2005) [10]. Theo khái niệm trong giáo trình thì
khu vực nông thôn ở Việt Nam được xác định dựa trên một số tiêu chí cụ thể:
Thành phần xã hội, các di sản văn hoá, sự phồn thịnh, sự phân hoá xã hội của dân
cư… Sự khác nhau căn bản giữa khu vực nông thôn và đô thị được phản ánh rõ nét
trong những nguyên lí của xã hội học nông thôn - đô thị. Bên cạnh đó, Tác giả
Hoàng Việt (2013)[ 59 ] cũng cho rằng nông thôn là khái niệm dùng để chỉ một địa
bàn mà ở đó sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Nông thôn có thể được xem
xét trên nhiều góc độ: Kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.
1.1.2.Nghiên cứu lý luận về kinh tế nông thôn.
Ngay từ những năm đầu của thế kỷ 20 trong cuốn “ What is Rural
Economics” của tác giả John Ise(1920) [108] đã cho rằng “kinh tế nông thôn” là
chủ đề còn nhiều tranh cãi và được các học giả quốc tế nhìn nhận theo 03 cách.
Nhóm thứ nhất đại diện là Giáo sư Taylor of Wisconsin cho rằng kinh tế nông thôn
không chỉ tập trung vào kinh tế nông nghiệp mà còn bao gồm cả kinh tế trang trại
và quản lý trang trại để từ đó nhìn nhận các vấn đề về nông dân theo cả các góc độ
xã hội. Nhóm thứ hai, đại diện là Giáo sư Carver lại cho rằng kinh tế nông thôn
không bao gồm kinh tế trang trại; và nhóm thứ 3, cho rằng những gì thường được
gọi là kinh tế nông thôn chỉ là kinh tế học đơn thuần với một số đặc trưng cho nông
nghiệp.
Trong công trình "Rural Non agricultural Activities in Development: Theory
and Application” của tác giả Gustav Ranis và Frances Stewart (1993) [93] với việc
phân tích vai trò của các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp, các tác giả đã khẳng
định tầm quan trọng của các hoạt động này trong khu vực nông thôn, đây được xem
là động lực tạo ra sự tăng trưởng khu vực nông thôn. Theo các tác giả nghiên cứu về
10
phát triển kinh tế nông thôn cần phải làm rõ các hoạt động sản xuất nông nghiệp và
phi nông nghiệp đóng góp như thế nào vào tăng trưởng kinh tế khu vực nông thôn
hay quy mô và sự phân bổ không gian của các đơn vị sản xuất và hộ gia đình trong
khu vực nông thôn sẽ tác động đến phát triển kinh tế nông thôn.
Với nhiều bằng chứng thực nghiệm, tác giả Emery N. Castle (2000) “The
Economics of Rural places and Agricultural Economic [82] đã chỉ rõ sự khác biệt
giữa kinh tế nông nghiệp, kinh tế nông thôn và kinh tế đô thị. Theo tác giả, hoạt
động sản xuất nông nghiệp hiện đóng một vai trò trọng yếu trong khu vực nông
thôn ở nhiều khu vực trên thế giới. Trong mối quan hệ giữa khu vực nông thôn và
thành thị, cần phải xác định rõ về mối liên kết, những tác động, từ đó xác định được
phát triển kinh tế nông thôn .
Trong cuốn “A New Rural Economy: A New Role for Public Policy”của các
tác giả Mark Drabenstott và Jason Henderson (2006) [114] cũng cho thấy quá trình
toàn cầu hóa đã tác động đến các hoạt động sản xuất kinh tế nông thôn, từ đó tạo ra
những thay đổi lớn như làm gia tăng nguồn thu của các nông hộ, cải thiện các hoạt
động sản xuất kinh doanh trong khu vực nông thôn, tạo ra sự tăng trưởng về kinh tế
và khả năng tạo việc làm cao. Việc áp dụng các mô hình phát triển kinh tế mới với
động lực đổi mới sáng tạo và kinh doanh sẽ là một thách thức lớn cho khu vực nông
thôn.
Theo tác giả Clack Edward (2011) [75] nền kinh tế khu vực nông thôn và đô
thị có mối liên kết chặt chẽ với nhau. Do vậy, sự thay đổi tăng trưởng và phát triển
của khu vực nông thôn sẽ tác động đến khu vực thành thị và ngược lại. Sự phát triển
mất cân đối giữa khu vực nông thôn và thành thị như thu nhập bình quân đầu người,
cơ sở hạ tầng, hoạt động kinh doanh…vẫn đang còn là thách thức với các nhà hoạch
định chính sách.
Theo Guogang Wang (2015) “Spatio-Temporal Characteristics of Rural
Economic Development in Eastern Coastal China” [96] thì phát triển kinh tế nông
thôn là một nội dung quan trọng trong phát triển nông thôn (kinh tế, xã hội, môi
trường và con người). Phát triển kinh tế được coi là yếu tố chính quyết định sự phát
triển khu vực nông thôn. Cùng với đó, yếu tố về vị trí địa lý từng khu vực khác nhau
11
cũng sẽ tác động đến sự phát triển kinh tế nông thôn khác nhau.
Theo tác giả Daphne Meredith, et, al (2016) “Rural Economic Development
in Canada with an Emphasis on the Western Canadian Landscape” [81] thì 03
nhóm nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế nông thôn Canada là: Đô thị hóa,
thay đổi cấu trúc nền kinh tế và đặc điểm của nhà nước phúc lợi. Trong đó, khu vực
tư nhân tập trung vào sản xuất còn khu vực nhà nước đóng vai trò thiết lập khung
khổ chính sách ( chính sách tài chính, tiền tệ, đầu tư, thuế, vận tải, hạ tầng…) nhằm
tạo động lực khuyến khích khu vực tư nhân phát triển. Phát triển kinh tế nông thôn
được thay đổi theo cách tiếp cận từ dưới lên thay bằng cách tiếp cận từ trên xuống
với việc khai thác và phát huy những sáng kiến của cộng đồng.
Theo Alexandru Pavel (2019) “Determining Local Economic Development in
the Rural Areas of Romania. Exploring the Role of Exogenous” [62] để đánh giá
phát triển kinh tế nông thôn thì cần dựa trên 6 tiêu chí là nhân khẩu học, cơ cấu kinh
tế, thu nhập, dịch vụ, lực lượng lao động, địa phương hóa và quản trị.
Đối với vấn đề này, một số tác giả trong nước như Mai Thanh Cúc, Quyền
Đình Hòa (2005) [10] cũng cho rằng phát triển kinh tế nông thôn cần dựa trên các
nguyên tắc trong phát triển phát triển kinh tế, tính chất và cơ cấu của khu vực nông
thôn, các loại hình doanh nghiệp đóng góp đối với phát triển nông thôn… nhằm
diễn giải những tác động của chính sách, chiến lược phát triển sản xuất công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến và dịch vụ trong kinh tế nông
thôn.
Theo Hoàng Việt (2013) [59] thì kinh tế nông thôn là một khu vực của nền
kinh tế gắn liền với địa bàn nông thôn. Kinh tế nông thôn vừa mang những đặc
trưng chung của nền kinh tế về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, về cơ chế
kinh tế... vừa có những đặc điểm riêng gắn liền với nông nghiệp, nông thôn. Xét về
mặt kinh tế - kỹ thuật, kinh tế nông thôn có thể bao gồm nhiều ngành kinh tế như:
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, dịch vụ.
1.1.3.Những nghiên cứu về phương thức phát triển kinh tế nông thôn
Với việc phân tích các chỉ số phát triển kinh tế nông thôn theo trục thời gian,
tác giả J. Kirk Ring (2005) [106] cho rằng, khu vực nông thôn của Mỹ chịu sự tác
12
động bởi sự suy giảm hay tăng trưởng của nền kinh tế. Việc ban hành các chính
sách đối với khu vực nông thôn chưa đươc chú trọng trong suốt một thời gian dài.
Các công trình nghiên cứu của Falcone, Allen( 1996); Lyons (2002); Henderson &
Novack (2003) cho thấy cần phải có những chính sách đặc thù nhằm phát triển khu
vực nông thôn. Bên cạnh đó, một số tác giả khác như Keeble, Lawson, Moore, &
Wilkinson, 1999; Malecki & Veldhoen, 1993; North & Smallbone, 2006, Keeble,
1997; Murdoch, (2000), đã nhận định phát triển các phương thức kinh doanh theo
chiều “dọc”,“ngang”, “đổi mới sáng tạo”, mô hình ‘cứng”và “mềm”…nhằm tiếp
cận các nguồn lực, chia sẻ rủi ro, tiếp cận thị trường, công nghệ, đẩy nhanh dòng
vốn… trong khu vực nông thôn sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế nông thôn.
Trên cơ sở phân tích chính sách phát triển nông thôn theo những cách tiếp
cận khác nhau, tổ chức OECD (2006) [123] đã đưa ra mô hình nông thôn mới thay
thế cho các mô hình trước đó tức là dựa trên việc tiếp cận đa ngành, xóa bỏ những
trợ cấp của chính phủ đối với khu vực nông thôn, tăng đầu tư nhằm nâng cao khả
năng cạnh tranh của các trang trại sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu nông nghiệp và đa dạng hóa kinh tế khu vực nông thôn.
Theo các tác giả Ian Hodge và Peter Midmore (2007) [98] thì phương thức
phát triển nông thôn khu vực Châu Âu đã có sự chuyển dịch căn bản từ việc tiếp cận
theo ngành - đa ngành - lãnh thổ- địa phương. Phân tích các phương thức phát triển
nông thôn cần sử dụng các bộ tiêu chí đánh giá như: tiêu chí về thu nhập trang trại,
lao động nông nghiệp, giá trị gia tăng…để đánh giá mức độ tăng trưởng và phát
triển các khu vực nông thôn.
1.1.4. Nghiên cứu các trường hợp cụ thể về phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan
Tại Ba Lan, công trình nghiên cứu của Iwona Nurynka (2012) [99] đã nhấn
mạnh chiến lược, chương trình phát triển nông thôn của Ba Lan được thực hiện
thông qua việc ban hành các chính sách phát triển nông thôn theo các trụ cột kinh
tế, xã hội và môi trường. Bên cạnh đó, nghiên cứu này cũng đã chỉ rõ chính sách
nông nghiệp và nông thôn hậu chuyển đổi đã làm thay đổi hình ảnh khu vực nông
thôn Ba Lan như điều kiện sống (cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội) được cải thiện,
tình hình sản xuất nông nghiệp, cơ cấu nông nghiệp và thái độ của dân cư nông thôn
13
liên quan đến hội nhập EU có sự thay đổi.
Tác giả A.Kowalski, M.Wigier, P.Chmieliński (2008) [61] đã đưa ra những
khuyến nghị về phương thức thực hiện của chính phủ Ba Lan đối với phát triển khu
vực nông thôn là: Tăng cường sản xuất nông nghiệp đa chức năng như gắn kết vùng
lãnh thổ với các đặc điểm môi trường tự nhiên, sử dụng các giải pháp gia tăng tác
động tích cực của hoạt động nông nghiệp đối với khu vực nông thôn.
Theo một hướng tiếp cận khác, tác giả Józef Mosiej(2014) [110] đã phân tích
các chương trình phát triển nông thôn theo các góc độ kinh tế, xã hội và môi trường
cho rằng các chính sách phát triển nông thôn cần tập trung giải quyết các vấn đề
như: Việc làm trong nông nghiệp, sự phân mảnh về cấu trúc trang trại, hoạt động
giáo dục khu vực nông thôn, mức độ tiếp cận nguồn lực tài chính của người dân và
sự không hiệu quả về cạnh tranh trong lĩnh vực chế biến cũng như sự tụt hậu về
phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn.
Thông qua việc phân tích các tài liệu thứ cấp tác giả Agnieszka Baer-
Nawrocka et al, (2016)[65] đã phân tích thực trạng khu vực nông thôn Ba Lan trong
tương quan so sánh với các nước xung quanh, đánh giá những thành công trong
hoạt động sản xuất nông nghiệp Ba lan, tình hình nhân khẩu khu vực nông thôn,
những thay đổi trên thị trường lao động nông thôn, thu nhập của các trang trại Ba
Lan, cũng như những tác động từ nguồn ngân sách hỗ trợ của Liên minh châu Âu.
Trong công trình “Self employment as a form of entreprenurship
development in rural area in poland” của tác giả Janina Jędrzejczak-Gas1, Anetta
Barska (2018) [102] cũng cho rằng phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan trong những
năm trở lại đây ghi nhận sự cải thiện rõ rệt thông qua quá trình “ Tự kinh doanh”
Đây được xem là hình thức phi nông nghiệp với số lao động trong lĩnh vực này
ngày càng tăng, giúp cải thiện cuộc sống người dân khu vực nông thôn Ba Lan.
Một số kinh nghiệm trong triển khai phát triển nông thôn của Ba Lan được
tác giả Urszula Budzich-Tabor (2018) [139] đánh giá như: Hệ thống thu thập dữ
liệu trang trại, hoạt động của các cơ quan hỗ trợ phát triển nông thôn, hay các trung
tâm thông tin nông nghiệp được thành lập… nhằm chia sẻ các thông tin về khu vực
nông thôn giữa EU và Ba Lan đang phát huy hiệu quả. Các quy trình sản xuất nông
14
nghiệp và phổ biến thông tin liên quan như: Hướng dẫn về cơ hội nhận tài trợ từ
EU, các dịch vụ đào tạo và tư vấn của các trung tâm, cách thức triển khai các
chương trình tại các khu vực nông thôn trong khuôn khổ các gói tài trợ từ Ủy ban
châu Âu.
Tổ chức OECD (2018), “OECD Rural Policy Reviews: Poland 2018” [129]
đã đánh giá một cách toàn diện khu vực nông thôn Ba Lan tập trung vào 03 vấn đề
chính là: Bức tranh nông thôn Ba Lan trong những năm chuyển đổi, chính sách phát
triển nông thôn và các vấn đề về quản trị trong khu vực nông thôn. Với việc so sánh
giữa Ba Lan với các nước OECD, báo cáo này cũng đã chỉ rõ một số những thành
công và hạn chế trong phát triển nông thôn Ba Lan.
Kể từ năm 2000 trở lại đây, Bộ NN&PTNT Ba Lan đều đặn xuất bản báo cáo
“Kinh tế nông nghiệp và nông thôn”. Các báo cáo này đã cập nhật và thống kê
những biến động khu vực nông nghiệp, nông thôn Ba Lan hàng năm như: Tình hình
sản xuất nông nghiệp, quy mô trang trại, hoạt động lĩnh vực công nghiệp chế biến,
tình hình xuất nhập khẩu hàng nông sản… Đây được xem là những nguồn tư liệu
đáng tin cậy, làm cơ sở cho các học giả, nhà nghiên cứu sử dụng trong các công
trình nghiên cứu.
Như vậy, nhìn chung trong thời gian qua các công trình nghiên cứu của các
học giả nước ngoài đã tập trung luận giải các vấn đề về phát triển kinh tế nông thôn
với việc phân tích những điểm khác biệt về khu vực nông thôn, khái niệm phát triển
kinh tế nông thôn, các chính sách phát triển nông thôn… Điều đó cho thấy sự phong
phú và khó khăn trong việc đồng nhất áp dụng nghĩa “khu vực nông thôn” ở các
nước khác nhau trên thế giới.
Phát triển kinh tế nông thôn trong bối cảnh Ba Lan đã và đang chủ động tích
cực điều chỉnh các thế chế, chính sách để hội nhập vào khu vực, tạo ra những điểm
sáng, những thay đổi đáng kể trong phát triển nông thôn như: Cải thiện thu nhập
người dân khu vực nông thôn, năng suất lao động tăng, mức độ cạnh tranh các mặt
hàng nông sản trên thị trường khu vực đã được cải thiện đáng kể… là những nội
dung chính được các học giả nghiên cứu chỉ ra trong thời gian qua.
Tuy nhiên, theo tác giả luận án thì các công trình nghiên cứu trên còn khá rời
15
rạc, các vấn đề chưa được kết nối với nhau từ việc phân tích làm rõ nội hàm khái
niệm khu vực nông thôn đến việc hình thành khung lý thuyết với các tiêu chí để
đánh giá mức độ thành công, hạn chế, những khiếm khuyến của chính sách phát
triển nông thôn. Đặc biệt trong hầu hết các công trình nghiên cứu, thì chưa có công
trình nào rút ra được những bài học kinh nghiệm từ việc triển khai các chương trình
phát triển kinh tế nông thôn có thể áp dụng cho các quốc gia đang phát triển nói
chung và với Việt Nam nói riêng.
1.1.5. Nghiên cứu về phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn của Việt Nam
Theo nhận định của tác giả Nguyễn Quang Thuấn (2018) [51] thì nông
nghiệp Việt Nam phát triển còn kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng
giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho sản xuất, nghiên
cứu chuyển giao công nghệ đào tạo nguồn còn hạn chế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm…phát triển khu vực
nông thôn Việt Nam còn thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng yếu kém, môi trường
ngày càng ô nhiễm, thu nhập người dân khu vực nông thôn thấp…
Trong công trình “Một số vấn đề cơ bản của kinh tế nông thôn Việt Nam”
của Lưu Đức Khải (2012) [21Tác giả đã chỉ rõ vai trò kinh tế nông thôn Việt Nam
trong đó nông nghiệp đã đóng góp đến 20% GDP, cơ cấu kinh tế nông thôn có sự
chuyển biến tích cực từ thuần nông sang hoạt động tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ,
tăng trưởng xuất khẩu, đảm bảo an ninh lương thực, huy động đáng kể nguồn lực
đầu tư, kết cấu hạ tầng có sự chuyển biến rõ rệt.
Tác giả Vũ Trọng Khải (2015) “Phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam
hiện nay, những trăn trở và suy ngẫm” [20] đã chỉ rõ những bất cập trong các chính
sách vĩ mô về nông nghiệp và phát triển nông thôn, từ đó đưa ra các khuyến nghị về
sửa đổi hoàn thiện chính sách.
World Bank (2016) “Transforming Vietnamese Agriculture: Gaining More
from Less” [ 141]. Công trình nghiên cứu tập trung phân tích vào các vấn đề lao
động trong nông nghiệp và khu vực nông thôn, vấn đề đất đai trong nông nghiệp,
năng suất lao động và vai trò của nhà nước trong phát triển kinh tế nông thôn… Từ
16
đó đưa ra các khuyến nghị như: Tăng cường khả năng cạnh tranh trong nông
nghiệp, đa dạng hóa các hoạt động phi nông nghiệp, hỗ trợ đổi mới, xây dựng chuỗi
giá trị, tăng cường năng lực của các tổ chức công tư…
Trong cuốn “Evolution of Rural Development Strategies and Policies
Lessons from Vietnam” của Jacques Marzin và Agnalys Michaud (2016) [103]. Tác
giả đã phân tích về những đổi mới trong chính sách phát triển nông thôn Việt Nam
cũng như thực trạng phát triển các hoạt động nông nghiệp, phi nông nghiệp Việt
Nam sau đổi mới. Theo tác giả, năm 2007 chính sách phát triển nông thôn Việt
Nam được chuyển dịch từ chính sách nông nghiệp sang phát triển nông thôn. Chính
sách này tạo ra sự cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn, phát triển các loại hình phi
nông nghiệp.
Trong luận án tiến sỹ “ Kinh tế nông thôn phát triển bền vững ở các huyện
phía tây Hà Nội” của Hoàng Mạnh Phú (2016) đã phân tích thực trạng phát triển
kinh tế nông thôn các huyện phía tây Hà Nôi, từ đó tác giả đưa ra các nhóm khuyến
nghị và giải pháp như hoàn thiện công tác quy hoạch, tăng cường áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật, đào tạo sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực để phát triển kinh tế
khu vực nông thôn phía Tây Hà Nội. [32]
Trong công trình nghiên cứu “Characteristics of the Vietnamese rural
economy- Evidence from a 2016 rural household survey in 12 provinces of Viet
Nam” của tác giả Finn Tarp (2017) [44] đã nghiên cứu khảo sát 12 tỉnh ở ba khu
vực Bắc, Trung, Nam để đưa ra bức tranh toàn cảnh khu vực nông thôn như: Thu
nhập người dân, cơ sở hạ tầng nông thôn, các hoạt động phi nông nghiệp. Trong đó,
một số khu vực phía bắc vẫn còn tồn tại khoảng cách lớn giữa hộ giàu, nghèo, hay
vấn đề về thương mại hàng nông sản cũng có sự khác biệt giữa các hộ trong khu
vực nông thôn, quá trình đa dạng hóa khu vực nông thôn diễn ra khá mạnh tạo ra
những thay đổi về thu nhập cho người dân.
Tác giả Phạm Thị Thanh Bình (2017) “Phát triển nông nghiệp Việt Nam:
Thành tựu và hạn chế” cũng đã chỉ rõ những thành công trong phát triển nông
nghiệp Việt Nam như: Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp liên tục tăng, chương trình
xây dựng nông thôn mới được đẩy mạnh, tái cơ cấu nông nghiệp đã đạt được thành
17
công bước đầu… Tuy nhiên, cũng còn nhiều hạn chế như chính sách phát triển nông
nghiệp chưa rõ ràng, môi trường kinh doanh chưa hấp dẫn, đầu tư vào nông nghiệp
nông thôn còn thấp, quy hoạt phát triển chưa đầy đủ[3].
Bộ nông nghiệp &PTNT (2018) “Bản tin ISG” phân tích thực trạng phát triển
nông nghiệp trong quý I/2018 và đưa ra một số khuyến nghị về thị trường nông sản,
đẩy mạnh cơ giới hóa, thúc đẩy chuyển giao tiến bộ KHKT, công nghệ cao vào
chương trình nông thôn mới. [8 ]
Một số công trình nghiên cứu của các học giả Viện nghiên cứu Châu Âu
triển khai nghiên cứu về các nôi dung liên quan đến chính sách nông nghiệp chung
của EU và bài học cho Việt Nam như: Nguyễn Quang Thuấn (2005) “Các nước
Đông Âu gia nhập Liên minh Châu Âu và những tác động tới Việt Nam” [50]. Cuốn
sách tập trung giới thiệu chính sách nông nghiệp chung của EU cho đến 2003, phân
tích những đặc trưng và lịch sử phát triển của chính sách nông nghiệp EU và những
thách thức đối với các nước Đông Âu trong quá trình gia nhập EU.
Tác giả Đặng Minh Đức (2015) “Bảo hiểm nông nghiệp: Chính sách, thách
thức và kinh nghiệm từ châu Âu” đã nghiên cứu và làm rõ những cơ sở lý luận về
chính sách bảo hiểm nông nghiệp tại một số nước thành viên như Pháp, Tây Ban
Nha, Ba Lan và các hàm ý chính sách cho Việt nam. Tuy nhiên, do mục tiêu của đề
tài chỉ tập trung vào bảo hiểm nông nghiệp, do vậy công trình cũng chưa thể đề cập
đến toàn bộ các khía cạnh của phát triển kinh tế nông thôn[12].
Nguyên An Hà (2016)“ Chính sách nông nghiệp bền vững ở Ba Lan và hàm
ý chính sách cho Việt Nam” Công trình nghiên cứu là kết quả của Nghị định thư ký
kết giữa Việt nam và Ba Lan nhằm luận giải những chính sách phát triển nông
nghiệp bền vững của Ba Lan trong các giai đoạn khác nhau và rút ra những hàm ý
chính sách cho Việt Nam[15 ].
Luận án tiến sỹ của tác giả Nguyễn Xuân Khoát (2017) “ Phát triển nông
nghiệp bền vững ở một số nền kinh tế chuyển đổi: Bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam” với việc tổng quan các tài liệu về phát triển nông nghiệp bền vững, tác giả đã
hình thành một khung lý thuyết áp dụng vào phân tích cho trường hợp Ba Lan,
18
Trung Quốc và Nga để từ đó rút ra các khuyến nghị chính sách cho Việt Nam [22].
Như vậy, đối với các công trình, đề tài nghiên cứu về phát triển kinh tế nông
thôn Việt Nam trong thời gian qua đã cho độc giả thấy rõ được những chuyển biến
tích cực trong phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt nam qua các giai đoạn
khác nhau như quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, các
chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp nông thôn của Chính phủ…Tuy
nhiên, theo tác giả luận án thì các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước
vẫn chưa đề cập và phân tích tổng hợp và làm rõ các nội hàm, tiêu chí đánh giá phát
triển kinh tế nông thôn. Đặc biệt, chưa có một công trình cụ thể nào nghiên cứu
khung lý thuyết, thực tiến phát triển kinh tế nông thôn của Ba Lan. Bên cạnh đó, các
công trình trên chưa có sự so sánh và đánh giá những điểm tương đồng và khác biệt
giữa Việt Nam với Ba Lan trong phát triển kinh tế nông thôn để rút ra những bài
học kinh nghiệm cho Việt nam.
1.2.Một số kết luận được rút ra liên quan đến luận án và khoảng trống cần
phải tiếp tục nghiên cứu trong luận án
1.2.1.Các vấn đề đã thống nhất:
Điểm lại các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về
chủ đề phát triển kinh tế nông thôn có thể thấy các điểm chung mà các học giả đã
đồng thuận thể hiện:
Thứ nhất: Trong hầu hết các công trình nghiên cứu, các tác giả cũng đều
khẳng định khái niệm “ khu vực nông thôn” và ‘phát triển kinh tế nông thôn” là
những khái niệm còn gây nhiều tranh cãi và chưa được đồng nhất trong việc áp
dụng giữa các quốc gia trong khu vực. Khái niệm nông thôn và phát triển kinh tế
nông thôn do OECD đưa ra đã được áp dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trong đó có
các thành viên Liên minh châu Âu nói chung và Ba Lan nói riêng.
Thứ hai, các nghiên cứu trên đã cung cấp một phần những luận cứ khoa học
về lý luận phát triển kinh tế nông thôn, tiêu chí đánh giá những thành công và hạn
chế trong các chương trình phát triển nông thôn.
Thứ ba, phát triển kinh tế nông thôn với việc thúc đẩy quá trình hiện đại hoá
cơ sở hạ tầng khu vực nông thôn, đa dạng hóa cơ cấu kinh tế từ đó tạo ra những
19
chuyển đổi để đưa khu vực nông thôn từ một khu vực cách biệt, kém phát triển sang
hội nhập với nền kinh tế và thế giới. Các hoạt động sản xuất nông nghiệp như cung
ứng một khối lượng lớn hàng nông sản cho thị trường đô thị và quốc tế, sẽ tạo ra sự
gắn kết hơn giữa khu vực đô thị với khu vực nông thôn. Chính sách của chính phủ
cần tập trung nhằm khuyến khích cung cấp các yếu tố đầu vào, trong đó tập trung
vào hạ tầng cứng ( hệ thống đường nông thôn, điện, nước, truyền thông), các đầu
vào mang tính xã hội (y tế và cơ sở giáo dục) cũng như xây dựng các đầu mối trợ
giúp hoạt động sản xuất nông nghiệp (thiết lập các cơ sở nghiên cứu nông nghiệp,
các trung tâm khuyến nông và dịch vụ tư vấn phát triển nông thôn) để thúc đẩy phát
triển kinh tế nông thôn.
Thứ tư, các nghiên cứu đều khẳng định, muốn phát triển kinh tế nông thôn
thì cần phải đa dạng hóa kinh tế khu vực nông thôn, trong đó trú trọng phát triển các
doanh nghiệp sản xuất phi nông nghiệp, tập trung nâng cao chất lượng nguồn lực
lao động nông thôn. Các chính sách phát triển nông thôn được xây dựng nhằm hỗ
trợ hoạt động sản xuất cả nông nghiệp và phi nông nghiệp, tạo ra những sản phẩm
hàng hóa chất lượng cao, có tính cạnh trạnh quốc tế.
Các vấn đề còn tranh luận
Thứ nhất, khái niệm phát triển kinh tế nông thôn nên được đồng nhất và áp
dụng đối với tất cả các quốc gia. Việc áp dụng đồng nhất một khái niệm như vậy
mới có cơ sở để so sánh, đánh giá sự phát triển kinh tế nông thôn mỗi một quốc gia
Thứ hai, mâu thuẫn về việc áp dụng các phương thức phát triển kinh tế nông
thôn theo phương thức phát triển nông thôn cũ tập trung vào trợ cấp nông nghiệp,
hay phương thức mới tập trung vào: Đầu tư, nâng cao cạnh tranh khu vực nông thôn
bằng việc khai thác những thế mạnh, đặc trưng từng vùng, khu vực.
Thứ ba, vấn đề thể chế, chính sách phát triển kinh tế nông thôn ( chính sách
tài chính, chính sách đất đai, bảo hiểm nông nghiệp, đầu tư cơ sở hạ tầng…) cần
được cụ thể hóa, tạo ra động lực thúc đẩy các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp
trong khu vực nông thôn.
Cuối cùng, thúc đẩy quá trình phân cấp giữa chính quyền Trung ương với địa
20
phương nhằm tăng tính trách nhiệm và giải trình trong hoạch định và thực thi chính
sách, cũng như nâng cao hơn khả năng gắn kết với các tổ chức tư trong khu vực,
khai thác và phát huy các sáng kiến cộng động trong phát triển kinh tế nông thôn.
1.2.2. Những vấn đề liên quan đến đề tài luận án mà các công trình trên còn bỏ ngỏ
cần tiếp tục nghiên cứu:
Thứ nhất, chưa có một công trình nghiên cứu nào phân tích được đầy đủ luận
cứ khoa học, xây dựng được khung lý thuyết đầy đủ về phát triển kinh tế nông thôn.
Theo đó, đây được xem là nhiệm vụ mà luận án tiếp tục nghiên cứu để hình thành
khung phân tích về phát triển kinh tế nông thôn trên cơ sở làm rõ lý thuyết, khái
niệm, các tiêu chí và nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế nông thôn.
Thứ hai, các nghiên cứu về phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan trong thời
gian qua mới chỉ đề cập theo hướng mô tả về thực trạng phát triển kinh tế nông thôn
theo các chương trình phát triển nông thôn đã được chính phủ Ba Lan thông qua. Vì
vậy, luận án tiếp tục nghiên cứu với việc áp dụng khung lý thuyết để nhìn nhận rõ
hơn những thành công trong phát triển kinh tế nông thôn những thập niên đầu thế
kỷ XXI cũng như những thách thức mà chính phủ Ba Lan cần phải giải quyết trong
thời gian tới như: Cải thiện khả năng cạnh tranh các sản phẩm nông sản trên thị
trường EU, ứng dụng khoa học công nghệ vào trong sản xuất, đa dạng hóa kinh tế
khu vực nông thôn, thúc đẩy phát triển và quản trị chuỗi cung ứng hàng nông sản.
Thứ ba, Ba Lan là quốc gia có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam trong
phát triển kinh tế như: Cùng thực hiện công cuộc chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch tập
trung bao cấp sang kinh tế thị trường và hội nhập với khu vực, cùng có những thay
đổi về thể chế, chính sách trong phát triển kinh tế nông thôn... Vì vậy, luận án tiếp
tục nghiên cứu đánh giá những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai nước, rút ra
những bài học thành công của Ba Lan mà Việt Nam có thể học hỏi, cũng như những
bài học chưa thành công mà Việt Nam cần tránh.
Cuối cùng, các công trình nghiên cứu của các học giả trong nước về phát
triển kinh tế nông thôn Việt Nam đa phần chỉ tập trung phân tích thực trạng, nguyên
nhân mà chưa có kết nối với thế giới, đặc biệt là Ba Lan. Với những bài học kinh
nghiệm được rút ra, trong bối cảnh Ba Lan đang hội nhập sâu rộng với khu vực,
21
luận án sẽ đưa ra những hàm ý về mặt chính sách cho Việt Nam trong phát triển
kinh tế nông thôn thời gian tới khi mà tiến trình hội nhập của Việt Nam vào Cộng
đồng kinh tế ASEAN đã đặt ra những cơ hội và thách thức không nhỏ cho sự phát
triển khu vực nông thôn.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu và khung phân tích phát triển kinh tế nông thôn
1.3.1.Các câu hỏi nghiên cứu
Để giải quyết được mục tiêu nghiên cứu, luận án cần làm sáng tỏ các câu hỏi
nghiên cứu sau: Phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan trong những thập niên đầu thế
kỷ XXI như thế nào?
Các câu hỏi nghiên cứu phụ tiếp tục được đặt ra như sau: Những nhân tố nào
tác động đến phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan trong những thập niên đầu thế kỷ
XXI?Tiêu chí nào để đánh giá sự phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan? Những thành
công, hạn chế và bất cập trong phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan những thập niên
đầu thế kỷ XXI là gì ? Những bài học rút ra từ phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan
22
cho Việt Nam là gì?
1.3.2.Khung phân tích của luận án
Các lý thuyết về phát triển kinh tế nông thôn
-Khái niệm khu vực nông thôn, phát triển kinh tế nông thôn;
-Đặc điểm, nội dung phát triển kinh tế nông thôn
Lý thuyết hai khu vực; Lý thuyết sinh kế bền vững; Lý thuyết tăng trưởng nội sinh, lý thuyết mô hình nông thôn mới
-Các nhân tố tác động, bao gồm nhân tố bên ngoài: Chính sách khu vực, khủng hoảng kinh tế, sự kiện Brexit, già hóa dân số) Nhân tố bên trong (Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, nguồn lực kinh tế, tài chính)
Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả phát triển kinh tế nông thôn
Tăng trưởng GDP trong nông nghiệp; Quy mô trang trại; Giá trị sản xuất nông nghiệp và cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp;
Năng suất lao động nông nghiệp; Tỷ lệ % lao động nông thôn được đào tạo, tỷ lệ hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, doanh nghiệp phi nông nghiệp)
Phân tích thực trạng phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan dựa vào Lý thuyết về tăng trưởng nội sinh, lý thuyết mô hình nông thôn mới
- Phát triển sản xuất nông nghiệp: Nâng cao khả năng cạnh của các trang trại; Thực hiện tích tụ
đất đai, nâng cao năng suất lao động, phát triển thị trường hàng nông sản.
- Đa dạng hóa kinh tế nông thôn: Thu hút các doanh nghiệp vào khu vực nông thôn;Phát triển cơ sở hạ tầng cứng và mềm; tăng cường kết nối khu vực nông thôn- đô thị ; đào tạo phát triển nguồn nhân lực nông thôn; Phát huy các nguồn lực địa phương.
- Hoàn thiện thể chế,chính sách: Thực hiện phân cấp chính quền Trung ương và địa phương, khai
thác các sáng kiến tại cấp cộng đồng.
Só sánh, đánh giá điểm tương đồng, khác biệt giữa Ba Lan và Việt Nam trong phát triển kinh tế nông thôn
23
Bài học kinh nghiệm, hàm ý chính sách cho Việt Nam Hình 2.2. Khung phân tích phát triển kinh tế nông thôn. Nguồn: Tác giả tự xây dựng
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Các công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước xoay quanh
các chủ đề khu vực nông thôn, phát triển kinh tế nông thôn được công bố đến nay
đã phần nào làm rõ hơn bức tranh khu vực nông thôn ở thế giới nói chung và ở Ba
Lan nói riêng. Đa số các học giả đều có chung quan điểm là khái niệm “khu vực
nông thôn” và ‘phát triển kinh tế nông thôn” là khái niệm còn gây nhiều tranh cãi
và chưa được đồng nhất trong việc áp dụng giữa các quốc gia trong khu vực. Trong
các điểm chung này, thì khái niệm nông thôn và phát triển kinh tế nông thôn do
OECD đưa ra được áp dụng phổ biến ở nhiều quốc gia phát triển, trong đó có Ba
Lan. Các công trình nghiên cứu cũng đã khẳng định, chính sách phát triển kinh tế
nông thôn ở các quốc gia nên tập trung vào khuyến khích các yếu tố đầu vào như cơ
sở hạ tầng nông thôn, các dịch vụ nông nghiệp…. nhằm trợ giúp cho các hoạt động
sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế nông
thôn.
Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu nào đưa ra được đầy đủ những
luận cứ khoa học, xây dựng được khung lý thuyết đầy đủ về phát triển kinh tế nông
thôn để làm cơ sở phân tích thực tiễn về phát triển nông thôn. Hay việc xây dưng bộ
tiêu chí đánh giá sự phát triển kinh tế nông thôn ở Ba Lan còn bị thiếu, chưa đầy
24
đủ... là những khoảng trống mà luận án cần phải tập trung làm sáng tỏ.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG THÔN
2.1. Các lý thuyết về phát triển kinh tế nông thôn
2.1.1 Lý thuyết hai khu vực ( lý thuyết nhị nguyên)
Sự phát triển khu vực nông thôn chính thức được các nhà hoạch định chính
sách các nước phát triển (Âu- Mỹ) đưa ra bắt đầu vào những năm đầu của thập niên
1950-60. Ở vào thời điểm này thì phát triển nông thôn không được hình thành một
cách riêng biệt, mà chủ yếu được xem như là một phần trong lý thuyết phát triển
kinh tế chung. Trong thời kỳ này, ngành công nghiệp được coi là động lực của tăng
trưởng, còn nông nghiệp là ngành lạc hậu. Xu hướng chuyển đổi từ nền kinh tế dựa
trên nông nghiệp truyền thống sang nền kinh tế công nghiệp hóa được coi là tính tất
yếu của quá trình phát triển kinh tế, tính theo tỷ lệ tăng trưởng GDP . Một số học
giả nổi tiếng như W Arthur Lewis (1954) [143] với lý thuyết phát triển “Lý thuyết
hai khu vực” đã cho rằng “ phát triển là sự tăng trưởng kinh tế” hay “ Phát triển là
sự hiện đại hóa”. Tiếp đó, lý thuyết tăng trưởng và phát triển của Rostow (1961) lại
cho rằng mỗi một quốc gia cần phải trải qua quá trình chuyển đổi tuyến tính từ xã
hội truyền thống đến xã hội hiện đại thông qua các giai đoạn bứt phá, công nghiệp
hóa và cuối cùng là trưởng thành.
Nhìn nhận về sự phát triển nông thôn trong thời kỳ những năm 50-60, các lý
thuyết trên đã đưa ra luận cứ về phương thức phát triển gồm: Khu vực tư bản chủ
nghĩa hiện đại và khu vực bản địa không tư bản. Phương thức này hoạt động chủ
yếu do sự dịch chuyển lao động từ khu vực tự cấp có năng suất lao động thấp sang
khu vực tư bản chủ nghĩa có khả năng phát triển vì dùng lợi nhuận để tái đầu tư.
Nhìn nhận cụ thể, các nhà kinh tế học quy định, khu vực I là công nghiệp, khu vực
II là nông nghiệp hay chia ra thành hai khu vực là thành thị và nông thôn. Trong đó,
khu vực thành thị mang tính hiện đại, năng động, còn khu vực vùng nông thôn được
mặc định là kém phát triển, với phần lớn người dân sinh sống và phụ thuộc vào nền
nông nghiệp tự cung tự cấp.
Theo lý thuyết này các quốc gia nên ưu tiên tập trung vào phát triển sản xuất
25
công nghiệp hơn là phát triển khu vực nông thôn. Khu vực nông thôn chỉ có chức
năng sản xuất lương thực và cung cấp lao động cho khu vực thành thị (Lewis, 1954;
Rostow, 1961).
2.1.2. Thuyết tăng trưởng nội sinh (hay thuyết tăng trưởng mới)
Thập niên những năm 1980, mục tiêu phát triển nông thôn nhằm cải thiện
cuộc sống người nghèo khu vực nông thôn, khuyến khích khả năng tự phát triển của
nhóm người nghèo, người yếu thế cũng như giải quyết vấn đề huy động và phân bổ
các nguồn lực một cách công bằng thông qua các chính sách phù hợp được áp dụng
ở cấp độ khu vực và quốc gia. Trên cơ sở đó, các nhà kinh tế của trường phái tư
tưởng chủ nghĩa tân tự do (Neo-liberalism) đã đưa quan điểm: Thúc đẩy thị trường
tự do và giảm sự can thiệp của chính phủ. Phát triển nông thôn cần phải kêu gọi sự
tham gia của cộng đồng, tăng cường các cơ hội kinh tế khu vực nông thôn. Dẫn dắt
lý thuyết này là thuyết tăng trưởng nội sinh (hay thuyết tăng trưởng mới (Saraceno,
2014) [136].
Lý thuyết này đánh dấu sự thay đổi căn bản trong điều hành kinh tế vĩ mô,
hoạch định chính sách của chính phủ các nước trong việc giảm bớt sự can thiệp của
nhà nước vào những năm 1980 và 1990. Hai tổ chức Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và
Ngân hàng Thế giới ( WB) đóng vai trò trung tâm trong thúc đẩy các chính sách tân
tự do ở các nước đang phát triển: Các chính sách cần tập trung: (1) Nhà nước cắt
giảm chi tiêu cho lĩnh vực dịch vụ công; (2) Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà
nước; (3) Xóa bỏ rào cản, thúc đẩy sự phát triển thành phần kinh tế tư nhân; và (4)
Tự do hóa thị trường.
Đối với khu vực nông thôn, theo lý thuyết này thì tiếp cận phát triển nông
thôn cần phải được thay đổi từ trên xuống (top-down) đến hướng tiếp cận từ dưới
lên (bottom-up) nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn lực địa phương. Với cách
tiếp cận này, phát triển nông thôn bị ảnh hưởng nhiều bởi các yếu tố ở cấp địa
phương trong việc huy động các nguồn lực tham gia vào các hoạt động kinh tế nông
thôn. Cách tiếp cận này cũng cho rằng phát triển nông thôn là một quá trình có sự
tham gia, nhấn mạnh việc giao quyền cho cư dân nông thôn để họ có thể kiểm soát
26
tiến trình phát triển theo những ưu tiên mà họ lựa chọn. [129].
Dựa vào lý thuyết này, một số quốc gia như Italia, Tây Ban Nha và Đức đã
hình thành phương thức “phát triển kinh tế khu vực” (LED) với mục đích là xây
dựng năng lực kinh tế địa phương để tạo việc làm tại địa phương, thúc đẩy tăng
trưởng bền vững kinh tế địa phương và cải thiện chất lượng cuộc sống. Đó là cách
tiếp cận đa chiều, đa ngành, bao quát và có sự tham gia rộng rãi ở cấp địa phương.
Phương thức này sau đó đã được phổ biến áp dụng sang các nước đang phát triển
bởi tính hiệu quả trong phát triển khu vực cũng như không đòi hỏi nhiều về việc
phải thực hiện công nghiệp hóa. Đồng thời, phương thức này có thể được mở rộng
đến các ngành khác như du lịch, thủ công và dịch vụ. Bên cạnh đó, một loạt các
sáng kiến mới được áp dụng trong phát triển nông thôn như “phương pháp tiếp cận
sinh kế bền vững” nhấn mạnh đến vai trò của vốn xã hội, sự đa dạng trong hỗ trợ
sinh kế, cải thiện mức độ tiếp cận về kinh tế và an sinh xã hội khu vực nông thôn.
Lý thuyết này cũng đã khẳng định nhà nước có vai trò thúc đẩy hình thành
các thể chế, khuyến khích cung cấp các hàng hóa và dịch vụ công như nghiên cứu
và phát triển ( R&D) cho nông nghiệp, cung cấp hệ thống giáo dục cơ bản và cơ sở
hạ tầng kỹ thuật, xã hội, thông tin liên lạc, hỗ trợ hình thành tổ chức nông dân, cung
cấp dịch vụ khuyến nông, trợ cấp tín dụng và các vật tư đầu vào. Nhà nước đóng vai
trò kiến tạo, là người khởi đầu và khuyến khích các nhà cung cấp thực hiện cung
ứng hàng hóa, dịch vụ cho khu vực nông thôn.
2.1.3. Lý thuyết sinh kế bền vững
Theo lý thuyết sinh kế bền vững (Ellis & Biggs, 2001) [19] từ thập niên 2000
cho tới nay, phát triển nông thôn của mỗi một quốc gia không chỉ tính đến hiệu quả
kinh tế mà còn phải gắn với mục tiêu giảm nghèo và phát triển bền vững. Theo lý
thuyết này giảm nghèo khu vực nông thôn đang trở thành vấn đề trọng tâm của các
chương trình phát triển nông thôn ở hầu hết các quốc gia trên toàn thế giới.
Trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế không cùng nhịp với tiến bộ và phát triển
xã hội, trong khi nền kinh tế đạt được sự tăng trưởng thì các vấn đề khác lại nổi lên
như: Công bằng xã hội, bất bình đằng giàu nghèo gia tăng, môi trường bị ô nhiễm
tàn phá…Chính vì vậy, phát triển bền vững đang trở thành yêu cầu bức thiết đối với
27
toàn thế giới. Quan điểm phát triển, cũng như hiểu rõ hơn về một tầm nhìn, một
chiến lược nông nghiệp bền vững, Hội nghị Liên Hiệp Quốc về môi trường và phát
triển (UNCED) hay Hội nghị Trái đất 1992 (UN, 1992a) các nhà hoạch định chính
sách đều chung quan điểm đồng thuận với khái niệm là “sự phát triển có thể đáp
ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả
nãng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”. [18] Tại hội nghị này, phát triển
bền vững khu vực nông thôn được xem là nhân tố trọng tâm để đạt được sự bền
vững trong tăng trưởng kinh tế, bền vững trong an ninh lương thực, tiến đến xóa đói
giảm nghèo bền vững và là cơ sở cải thiện tính bền vững về môi trường.
Nội hàm về phát triển bền vững được bổ sung, hoàn chỉnh tại Hội nghị
Thượng đỉnh thế giới về Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesburg (Cộng hoà
Nam Phi) năm 2002: "Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt
chẽ, hợp lý và hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế (nhất là
tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội;
xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường[18 ].
Trong khi các phương pháp trước đây chú trọng phát triển, đổi mới doanh
nghiệp và đa dạng hóa kinh tế của khu vực nông thôn, thì các phương pháp trong
những năm 2000 lại tập trung vào quá trình chuyển đổi sản xuất cũng như thay đổi
thể chế với mục tiêu xóa đói giảm nghèo và xóa bỏ bất bình đẳng trong khu vực
nông thôn (Schejtman và Berdegué, 2004). Các phương pháp này này chú trọng
vào các phương pháp phát triển kinh tế theo khu vực và sử dụng các lợi thế so sánh
đặc trưng của từng vùng miền làm động lực cho phát triển.
2.1.4. Lý thuyết về mô hình nông thôn mới
Lý thuyết về mô hình nông thôn mới chính thức được áp dụng ở hầu hết các
nước phát triển do OECD thiết lập từ 2006. Với các bằng chứng thực nghiệm được
nghiên cứu ở hầu hết các khu vực trong thập kỷ đầu thế kỷ XXI cho thấy: Những
thay đổi về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội trong bối cảnh có sự hội nhập với khu
vực và thế giới ngày càng tăng, thì sản xuất nông nghiệp không còn là nhân tố chính
đóng góp vào thu nhập của các nông hộ, hay không còn là yếu tố chính để tạo ra
việc làm. Cùng với đó, phát triển kinh tế khu vực nông thôn được chứng minh là
28
gắn liền với sự phát triển của khu vực đô thị. Theo lý thuyết này thì các quốc gia
cần phải thay đổi trong cách tiếp cận truyền thống như trước đây, thậm chí cần phải
kiên quyết xóa bỏ và thay thế bằng các công cụ khác như: Sự hỗ trợ và bao cấp
trong nông nghiệp ở nhiều quốc gia chỉ mang lại một chút tác động tích cực cho
phát triển ngành nông nghiệp nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung. Trong khi
nhiều quốc gia trong OECD, thu nhập của các hộ nông dân lại chủ yếu dựa vào các
hoạt động ngoài nông nghiệp. Do vậy, lý thuyết này đã chứng minh phát triển kinh
tế khu vực nông thôn sẽ phụ thuộc vào việc áp dụng các công cụ kinh tế mới.
Mô hình cũ
Mô hình nông thôn mới
Mục
Tập trung vào thu nhập
Tăng tính cạnh tranh của cả khu vực nông thôn,
tiêu
trang trại, cổ phần hóa
khai thác nguồn lực địa phương, gắn với các vấn
các trang trại.
đề về môi trường và xã hội.
Lĩnh
Tiếp cận theo ngành riêng
Tiếp cận theo mục tiêu đa ngành của kinh tế nông
vực ưu
biết ( chủ yếu tập trung
thôn (du lịch nông thôn, hoạt động sản xuất chế
tiên
vào nông nghiệp)
tạo, công nghệ thông tin truyền thông…)
Công cụ Trợ cấp cho nông nghiệp Tăng cường đầu tư và chuyển giao cho các khu
vực nông thôn có thu nhập thấp hơn là tập trung
cho nông nghiệp.
Các
Chính phủ Trung ương,
Tất cả các thành phần tham gia từ cấp Trung ương
nhân tố
nông dân; các trang trại
xuống địa phương, huy động sự tham gia của mọi
tham gia
sản xuất nông nghiệp.
thành phần trong khu vực nông thôn như: Các tổ
chức phi chính phủ, tổ chức công tư…)
Tiếp cận
Áp dụng thống nhất chính
Áp dụng từ dưới lên (Bottom-up) kết hợp với các
về chính
sách từ trên xuống ( Top-
chiến lược phát triển địa phương.
sách
Down)
Hình 2.1. Mô hình phát triển nông thôn mới
Nguồn: OECD (2006) The New Rural Paradigm; Policies and
Governance[123]
Theo lý thuyết này thì các quốc gia cần phải hướng cách tiếp cận vào khu
vực khi hoạch định các chính sách phát triển nông thôn thay thế cho cách tiếp cận
29
lĩnh vực, làm cho chính sách nông thôn có thể lồng ghép, hòa hợp với các chính
sách ngành khác và cải thiện việc chi tiêu công sao cho có hiệu quả và hợp lý ở các
khu vực nông thôn. Cụ thể hơn, cách tiếp cận dựa vào khu vực tức là dựa vào đầu tư
chiến lược nhằm khuyến khích phát triển các hoạt động đem lại hiệu quả sản xuất
cao nhất cho từng khu vực; Khai thác các đặc trưng của từng khu vực như là một
yếu tố tạo ra sự khác biệt về lợi thế cạnh tranh mới (Ví dụ: yếu tố môi trường, văn
hóa và các sản phẩm địa phương); Tập trung nhiều hơn tới các hàng hóa được coi là
công cộng hoặc các điều kiện khung để hỗ trợ cho các doanh nghiệp một cách gián
tiếp; phân cấp quản lý hành chính và thiết kế chính sách cho từng cấp (cấp Trung
ương, vùng và địa phương) và tăng cường sử dụng cơ chế hợp tác, phối hợp giữa
các khu vực công, tư trong thực hiện các chính sách địa phương. Như vậy, về cơ
bản, chính sách này liên quan tới 2 vấn đề, đó là thay đổi cách tiếp cận chính sách
và điều chỉnh cơ cấu chính quyền (OECD, 2006).
Lý thuyết này cũng đã chứng minh tại Ba Lan cũng như nhiều quốc gia
thành viên EU khi mà khu vực nông thôn hiện nay giữa các quốc gia, hay bản thân
trong cùng một quốc gia ngày càng có sự đa dạng và khác biệt, được thể hiện qua
điều kiện tự nhiên, yếu tố địa hình, nét bản sắc về văn hóa và thái độ của người dân
địa phương… Chính các yếu tố này đã tạo ra những ảnh hưởng, tác động đến tăng
trưởng kinh tế khu vực. Bên cạnh đó, lý thuyết này cũng cho thấy những quan điểm
trước đó về sự yếu kém và tụt hậu về kinh tế gắn liền với khu vực nông thôn đã
được thay đổi. Dựa vào thực chứng, lý thuyết này đã chứng minh nhiều khu vực
nông thôn ở các nước EU thì cơ cấu kinh tế không chỉ bị giới hạn trong lĩnh vực
nông nghiệp mà được mở rộng sang các lĩnh vực công nghịêp và dịch vụ. Các lĩnh
vực du lịch và chế tạo ở khu vực nông thôn EU trong những năm qua có sự tăng
trưởng cao, tạo ra sự tăng trưởng cho cả nền kinh tế nông thôn (Mandl et al, 2007)
[113].
Như vậy, lý thuyết về mô hình nông thôn mới cũng đã chỉ ra những khiếm
khuyến, những hạn chế nhất định trong việc chính phủ chỉ ưu tiên về hiện đại hóa
cơ sở hạ tầng nông thôn, phương thức quản lý thực hiện từ trên xuống cũng như dựa
chủ yếu vào nguồn lực từ bên ngoài trong phát triển kinh tế nông thôn. Thay vào đó,
30
lý thuyết này nhấn mạnh các quốc gia cần phải khai thác (mô hình nội sinh) tức là:
Thực hiện các chương trình phát triển kinh tế nông thôn theo hướng tiếp cận từ dưới
lên, khai thác và phát huy những sáng kiến cộng đồng. Bên cạnh đó, với việc phân
cấp mạnh hơn trách nhiệm và quyền hạn cho khu vực địa phương và tăng cường sự
tham gia của các đối tác xã hội địa phương, các tổ chức phi lợi nhuận … sẽ nâng
cao chất lượng cuộc sống người dân khu vực nông thôn.
Khung lý thuyết về thay đổi trong phương thức tiếp cận sẽ: (1) Nâng cao khả
năng cạnh tranh của từng địa phương bằng việc tập trung khai thác thế mạnh về sự
đa dạng của từng khu vực địa phương và cung cấp các gói trợ cấp phù hợp với đặc
tính của từng khu vực và nhu cầu cụ thể của địa phương; (2) Thực hiện phân cấp sẽ
làm tăng trách nhiệm giải trình của các cấp, phát huy tính hiệu quả trong việc thực
thi các chương trình phát triển nông thôn, thúc đẩy việc gắn kết với các tổ chức
NGOs với người dân trong việc thiết kế và thực hiện các chương trình; (3) Phối hợp
các họat động trong hoạch định chính sách nhằm đảm bảo tính chặt chẽ trong hành
động; (4) Thúc đẩy sự đa dạng hóa kinh tế nông thôn, thay vì tập trung vào nông
nghiệp thông qua quá trình thành lập các doanh nghiệp mới trong khu vực nông
thôn. Cần phát huy tinh thần khởi nghiệp, tự kinh doanh của các doanh nhân cũng
như thúc đẩy hoạt động đầu tư vào cơ sở hạ tầng công cộng, nguồn nhân lực và vốn
xã hội.
Tóm lại: Sự vận hành và chuyển dịch các cơ cấu kinh tế xã hội của mỗi một
quốc gia trên thế giới theo một tiến trình lịch sử, trải qua các giai đoạn biến đổi
khác nhau đều không nằm ngoài quy luật chung của sự phát triển. Ở một góc độ hẹp
hơn, lý thuyết về phát triển kinh tế nông thôn cũng được hình thành theo từng thời
kỳ nhằm luận giải sự phát triển kinh tế khu vực nông thôn với các đặc trưng như
giảm thiểu sự can thiệp của chính phủ vào giá cả hàng nông sản, xóa bỏ trợ cấp, cổ
phần hóa các trang trại nhà nước, đầu tư cơ sở hạ tầng, đào tạo phát triển nguồn
nhân lực…Phát triển kinh tế nông thôn phải đảm bảo xây dựng được một nền tảng
kinh tế vững chắc, mạnh mẽ, tăng trưởng ổn định và bền vững, giảm dần khoảng
cách thu nhập giữa thành thị - nông thôn và giữa những nhóm cư dân nông thôn
31
khác nhau. Những lý thuyết này được làm căn cứ để các nhà hoạch định chính sách
các quốc gia sách xây dựng và hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế nông
thôn theo các cách tiếp cận khác nhau.
Tổng hợp các nguyên lý chung trong các lý thuyết về phát triển kinh tế nông
thôn, tác giả luận án cho rằng để đảm bảo tính bền vững, hiệu quả trong phát triển
kinh tế nông thôn ở bất kỳ quốc gia cần tập trung vào các khía cạnh chính như:
(1)khai thác những tính đăc thù của từng địa phương, tạo ra những lợi thế trong
cạnh tranh; (2) cơ sở hạ tầng kinh tế phải được xây dựng vững chắc làm nền tảng
cho phát triển khu vực nông thôn; (3) thực hiện phân phối nguồn lực sản xuất một
cách có hiệu quả và đảm bảo công bằng; (4) Xây dựng nền nông nghiệp mạnh, bởi
tỷ trọng sản xuất nông nghiệp hiện nay vẫn đang chiếm một tỷ trọng cao, đóng góp
tới ổn định thu nhập và việc làm cho người nông dân; (5) thúc đẩy sự đa dạng trong
kinh tế nông thôn thông qua việc thành lập các doanh nghiệp phi nông nghiệp thay
vì tập trung chính vào nông nghiệp; và (6) chú trọng phát triển các dịch vụ nông
thôn một cách đa dạng và hiệu quả.
2.2. Phát triển kinh tế nông thôn
2.2.1. Các khái niệm về khu vực nông thôn, kinh tế nông thôn và phát triển kinh tế
nông thôn
Sự đa dạng về các điều kiện kinh tế- xã hội, các điều kiện tự nhiên ở mỗi một
quốc gia khác nhau dẫn đến cách hiểu và quan niệm về vùng, khu vực nông thôn
cũng khác nhau. Cho đến nay chưa có một khái niệm nào được chấp nhận và áp
dụng một cách rộng rãi về nông thôn. Với mỗi một cách tiếp cận khác nhau thì khái
niệm về khu vực nông thôn lại được nhìn nhận ở các chiều cạnh khác nhau, nhưng
nhìn chung thì khu vực nông thôn được định hình là khu vực có có mật có mật độ
dân số tương đối thấp so với các thành phố, đây cũng là khu vực với các hoạt động
sản xuất nông nghiệp chiếm ưu thế, và ở đó các vấn đề về truyền thông và phát triển
cơ sở hạ tầng cần phải được hỗ trợ phát triển tạo điều kiện giảm những chi phí cho
hoạt động kinh tế, thương mại.
Dựa vào các chỉ tiêu mật độ dân số và số lượng dân cư để xác định đâu là các
vùng nông thôn, đô thị, tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) đã đưa ra định
32
nghĩa nông thôn theo hai phương pháp: (1) thành thị được xác định bởi luật, là tất cả
các trung tâm của tỉnh, huyện và các vùng còn lại được định nghĩa là nông thôn; (2)
căn cứ vào mức độ mật độ dân số sống thành từng cụm quan sát được để phân định
thành thị và nông thôn [89], hay khu vực nông thôn là khu vực có đặc trưng mật độ
dân số thấp, nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển ở hầu hết các quốc gia trên thế
giới.
Tại khu vực EU (2014) đã nhấn mạnh khái niệm về khu vực nông thôn và đô
thị là hai khái niệm chính được sử dụng phổ biến bởi các nhà hoạch định chính
sách, nhà nghiên cứu, chính quyền quốc gia và các tổ chức quốc tế như Tổ chức
Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD), Liên hợp quốc UN và EU...trong phân tích
mức độ đô thị hóa khu vực nông thôn. Theo đó quy định là khu vực nông thôn là
khu vực có mật độ dân số dưới 150 người trên mỗi km2.
Tại Ba Lan, trong các công trình nghiên cứu của các học giả, cũng như trong
các báo cáo chính thức về phát triển nông nghiệp, nông thôn do Bộ NN&PTNT
công bố hàng năm thì khu vực nông thôn cũng dựa theo mức độ mật độ dân số sống
thành từng cụm quan sát được để phân định thành thị và nông thôn. Việc phân loại
các tiêu chí được áp dụng theo chuẩn chung của liên minh châu Âu, theo đó thì Ba
Lan chia thành 16 khu vực, 314 quận huyện và các huyện và 2479 xã. Khu vực
nông thôn Ba Lan chia thành các khu vực nông thôn hẻo lánh, khu vực giáp ranh đô
thị.[124 ]
Tại Việt Nam, nông thôn là khái niệm dùng để chỉ một địa bàn mà ở đó sản
xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Nông thôn có thể được xem xét trên nhiều góc
độ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội[60]. Theo Quyết định số 132-HÐBT ngày
5/5/1990 của Hội đồng Bộ trưởng quy định nước ta có các loại hình đô thị như đô
thị loại 1: Dân số đạt từ 1 triệu người trở lên, mật độ dân cư từ 15.000 người/km2
trở lên, tỉ lệ lao động ngoài nông nghiệp từ 90 % trở lên…. Khu vực nông thôn
được xác định là những khu vực nằm ngoài các tiêu chí quy định trên[10].
Tổng hợp các quan điểm của các học giả về khái niệm khu vực nông thôn,
luận án cho rằng khái niệm về khu vực nông thôn không chỉ đơn thuần được hiểu là
những giới hạn về mặt không gian, hay mật độ dân số cố định nào đó, mà cần phải
33
nhìn nhận và xem xét ở nhiều góc cạnh về phát triển kinh tế với đặc trưng là sản
xuất nông nghiệp, cơ sở hạ tầng yếu kém hơn so với khu vực thành thị. Áp dụng
đồng nhất chung một khái niệm về khu vực nông thôn cho mọi quốc gia là điều
không khả thi khi mà sự khác biệt giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển
còn đang còn những khoảng cách quá lớn. Việc định hình rõ và phân biệt sự khác
biệt giữa khu vực nông thôn, trong đó lại chia ra khu vực nông thôn hẻo lánh và
khu vực nông thôn giáp đô thị với khu vực thành thị đóng một vai trò quyết định
đến sự thành công, tính hiệu quả của các chính sách nhằm cải thiện cuộc sống cho
người dân ở khu vực nông thôn, tạo ra sự phát triển bền vững, nâng cao mức sống
và phúc lợi cho người dân khu vực nông thôn.
Khái niệm về phát triển, phát triển kinh tế nông thôn
Khái niệm phát triển
Phát triển là một khái niệm tương đối phức tạp bởi nó bao hàm nhiều vấn đề
rộng lớn, khái niệm này được hiểu “là một quá trình thay đổi liên tục làm tăng
trưởng mức sống của con người và phân phối công bằng những thành quả tăng
trưởng trong xã hội” (Raanan Weitz, 1995) [132] . Mục tiêu chung của phát triển là
nâng cao các quyền lợi về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và quyền tự do công
dân của mọi người dân ở các quốc gia khác nhau. Đồng quan điểm về vấn đến này
thì theo quan điểm của Triết học, phát triển là khái niệm chỉ sự thay đổi về quy mô,
trình độ, số lượng và chất lượng của một sự vật, hiện tượng trong thời gian và
không gian nhất định, ở đó sự vật nảy sinh chất mới.
Khái niệm về phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế, là sự thay đổi về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kì
nhất định. Nói đến sự phát triển kinh tế là nói đến tăng và giảm về quy mô sản
lượng, chất lượng của sự thay đổi trong nền kinh tế và cả đến sự tiến bộ của xã hội
[16] hay phát triển kinh tế được hiểu là quá trình thay đổi theo chiều hướng tăng
lên về mọi mặt của nền kinh tế, là quá trình biến đổi cả về lượng và chất, là sự kết
hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện hai vấn đề kinh tế và xã hội của mỗi
quốc gia. Theo đó, phát triển được nhìn nhận theo hai khía cạnh: Phát triển theo
chiều rộng và phát triển theo chiều sâu thể hiện ở sự tăng trưởng quy mô, cơ cấu
34
cũng như ngân cao chất lượng các hoạt động kinh tế, cần đặt phát triển kinh tế trong
mối quan hệ với sự phát triển của xã hội cung như vấn đề môi trường, tạo sự bền
vững lâu dài.
Khái niệm về kinh tế nông thôn
Theo hướng tiếp cận về bản chất phát triển kinh tế nông thôn, một số học giả
đã đưa ra luận điểm cho thấy phát triển kinh tế nông nghiệp là nền tảng thúc đẩy sự
phát triển khu vực nông thôn, các chính sách phát triển bảo hộ thương mại đối với
các loại hàng hóa nông sản cũng gây ra những tác động tích cực hay tiêu cực đối
với phát triển kinh tế nông thôn…hay hoạt động kinh tế phi nông nghiệp đóng vai
trò quan trọng tạo ra động lực tạo ra sự tăng trưởng khu vực nông thôn[94].
Nhìn nhận về vai trò của hoạt động sản xuất nông nghiệp đối với phát triển
kinh tế nông thôn, nhiều học giả cho rằng kinh tế nông nghiệp đóng một vai trò
trọng yếu trong khu vực nông thôn. Tuy nhiên, trong những năm đầu thế kỷ này thì
sản xuất phi nông nghiệp được chứng minh là lĩnh vực đóng góp lớn đối với với
tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm khu vực nông thôn, xóa đói giảm nghèo và tạo ra
sự cân bằng trong phân bổ dân số. Với các kết quả nghiên cứu thực nghiệm tại các
nền kinh tế nông thôn các nước đang phát triển, các học giả cũng đã chứng minh sự
tăng trưởng của các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp đã đóng góp vào tăng trưởng
chung của quốc gia, cải thiện đói nghèo khu vực nông thôn[107]. Cùng với quá
trình toàn cầu hóa, hoạt động sản xuất kinh tế nông thôn đã có sự thay đổi lớn với
sự gia tăng nguồn thu của các nông hộ, hoạt động sản xuất kinh doanh trong khu
vực nông thôn được cải thiện, tăng trưởng việc làm cao… việc áp dụng các mô hình
phát triển kinh tế mới với động lực đổi mới sáng tạo và kinh doanh sẽ là một thách
thức lớn cho khu vực nông thôn[110].
Như vậy thì khái niệm kinh tế nông thôn được nhìn nhận rộng hơn, bao gồm
cả các hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp. Trong sự tương tác của nhiều các
nhân tố như vậy, để có thể hiểu rõ hơn về phát triển kinh tế nông thôn là gì? thì cần
phải xem xét mối tương tác, sự kết nối giữa nền kinh tế khu vực nông thôn với khu
vực đô thị. Bởi lẽ, sự thay đổi tăng trưởng và phát triển của khu vực nông thôn sẽ
tác động đến khu vực thành thị và ngược lại. Sự phát triển mất cân đối giữa khu vực
35
nông thôn và thành thị như thu nhập bình quân đầu người, cơ sở hạ tầng, hoạt động
kinh doanh… vẫn đang còn là thách thức với các nhà hoạch định chính sách[68].
Phân tích và đánh giá về phát triển kinh tế nông thôn cần phải làm rõ các nhân tố
tạo ra sự tăng trưởng kinh tế nông thôn như sự gia tăng nguồn lực, công nghệ tiên
tiến, thị trường mở rộng …
Tại khu vực Liên minh châu Âu, phát triển kinh tế nông thôn nhằm mục tiêu:
(i) Thúc đẩy chuyển giao công nghệ mới trong lĩnh vực nông, lâm và khu vực nông
thôn, (ii) Tăng cường khả năng cạnh tranh của các loại hình sản xuất nông nghiệp;
(iii) Thúc đẩy sản xuất sản phẩm nông nghiệp an toàn, đảm bảo sức khỏe cho người
tiêu dùng. (iv) Thúc đẩy và đảm bảo sự phát triển bền vững về mặt xã hội như giải
quyết các vấn đề nguồn lực lao động nông nghiệp nông thôn, vấn đề về chất lượng
lao động nông nghiệp, các điều kiện trong sản xuất nông nghiệp nông thôn…
Tại Việt Nam, khái niệm kinh tế nông thôn được hiểu “là một tổng
thể những nhân tố cấu thành lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong nông –
lâm – ngư nghiệp cùng với các ngành tiểu thủ công nghiệp truyền thống, các ngành
tiểu thủ công nghiệp chế biến phục vụ nông nghiệp, các ngành thương nghiệp và
dịch vụ; tất cả có quan hệ hữu cơ với nhau trong kinh tế vùng, lãnh thổ cũng
như trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân”[2 ].
Kinh tế nông thôn gồm nhiều ngành kinh tế như: Nông nghiệp, lâm nghiệp,
ngư nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, dịch vụ... trong đó nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư
nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu... [10].
Từ các quan điểm của các học giả, tác giả luận án cho rằng: Khái niệm kinh
tế nông thôn bao hàm các hoạt động gồm sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp
(phát triển cơ sở hạ tầng cứng và mềm khu vực nông thôn, doanh nghiệp khu vực
nông thôn, công nghiệp hóa nông thôn, du lịch nông thôn…) nhằm tạo ra sự tăng
trưởng khu vực nông thôn. Quá trình đa dạng hóa các hoạt động kinh tế trong khu
vực nông thôn, trong đó, tập trung mọi nguồn lực nhằm thu hút và thúc đẩy hoạt
động phi nông nghiệp nhằm tạo việc làm, nâng cao thu nhập người dân... nhằm thúc
đẩy phát triển kinh tế nông thôn được xem là nhân tố chủ đạo ở hầu hết các nước
phát triển. Phương thức tiếp cận trong quản lý và thúc đẩy sự phát triển khu vực
36
nông thôn ở nhiều quốc gia phát triển chính là sự thay đổi theo chiều hướng từ dưới
lên với việc khai thác những sáng kiến cộng động, kết nối và phát huy được sức
mạnh địa phương cũng như thực hiện quá trình phân cấp và giao trách nhiệm giữa
chính quyền Trung ương và địa phương.
2.2.2. Đặc điểm phát triển kinh tế nông thôn
Thứ nhất, phát triển kinh tế nông thôn là một nhân tố trong phát triển nông
thôn
Phát triển nông thôn được hiểu là một chiến lược nhằm cải thiện các điều
kiện sống về kinh tế, xã hội và môi trường của cư dân khu vực nông thôn. Các
chương trình phát triển nông thôn hướng tập trung vào cải thiện sinh kế, nâng cao
phúc lợi cho những người nghèo, những người yếu thế ở nông thôn. Cùng với sự
phát triển của xã hội, các chương trình phát triển nông thôn nhằm nâng cao vị thế về
kinh tế và xã hội cho người dân nông thôn thông qua việc sử dụng có hiệu quả cao
các nguồn nhân lực của địa phương. Sự thay đổi của các lý thuyết về phát triển
kinh tế đã chứng minh phát triển nông thôn chỉ thực sự bền vững khi có sự tham gia
tích cực của người dân trong các quá trình lập kế hoạch, thực hiện và giám sát tính
hiệu quả của các hoạt động triển khai tại khu vực nông thôn.
Phát triển nông thôn là sự phát triển tổng hợp của tất cả các hoạt động có mối
quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, đảm bảo sự phát triển của cả ba nhân tố kinh tế,
xã hội và môi trường khu vực nông thôn. Trong sự tương tác như vậy, nội hàm phát
triển kinh tế nông thôn là một bộ phận cấu thành của phát triển nông thôn, cần phải
đảm bảo kết hợp một cách hài hòa các nhân tố phát triển lực lượng sản xuất, quan
hệ sản xuất được hoàn thiện với việc thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn một cách hợp lý giữa nông công nghiệp và dịch vụ, nâng cao chất lượng nguôn
nhân lực, sáng tạo và đổi mới trong việc áp dụng khoa học công nghệ vào quy trình
sản xuất, chế biến và tiêu thụ hàng hóa nông sản, cải thiện cơ sở hạ tầng cứng và
mềm trong khu vực nông thôn.
Thứ hai, phát triển kinh tế nông thôn tạo ra sự hiện đại hóa khu vực nông
thôn
Lý thuyết phát triển kinh tế phát triển hình thành trong những năm 1950-60
37
nhìn nhận sự phát triển như một quá trình tuyến tính. Ngành công nghiệp được coi
là động lực của tăng trưởng, còn nông nghiệp là ngành lạc hậu. Việc chuyển đổi từ
nền kinh tế dựa trên nông nghiệp truyền thống sang nền kinh tế công nghiệp hóa
được cho là yếu tố cơ bản của quá trình phát triển kinh tế, tính theo tỷ lệ tăng trưởng
GDP. Phát triển kinh tế nông thôn trong mô hình của Rostow ở 5 giai đoạn phát
triển được chuyển đổi từ khu vực tù đọng thành nơi cung cấp thực phẩm thông qua
năng suất lao động cao hơn với việc áp dụng khoa học công nghệ nông nghiệp tiên
tiên và cải thiện hạ tang nông nghiệp tạo ra nền kinh tế quy mô, tăng sản xuất lương
thực và ổn định an ninh lương thực[139]... Các bằng chứng thực chứng cho thấy xu
thế phát triển kinh tế nông thôn giai đoạn này là các cuộc cách mạng xanh về phát
triển nông nghiệp[133] và chương trình phát triển nông thôn tích hợp gắn kết giữa
tăng trưởng sản xuất nông nghiệp với các vấn đề phát triển xã hội.
Thứ ba, phát triển kinh tế nông thôn hướng đến quá trình tự do hóa theo cơ
chế thị trường
Những khiếm khuyết cần phải thay đổi bởi sự can thiệp quá sâu của chính
phủ, gây ra tình trạng tham nhũng, thiếu minh bạch và bất bình đẳng gia tăng, là căn
nguyên của tình trạng chậm phát triển ở hầu hết các quốc gia đang phát triển. Sự
can thiệp quá mức của chính phủ đã phá vỡ nền kinh tế và cản trở sự cân bằng kinh
tế cũng như phát triển kinh tế nông thôn.
Lý thuyết phát triển nông thôn đã chỉ rõ, chính phủ nên bãi bỏ trợ cấp, giảm
chi tiêu công, hoãn trả và xóa nợ, tư nhân hóa các dịch vụ, điều chỉnh giá cả bị bóp
méo và phi điều tiết thị trường. Lý luận này thực chứng cho những thay đổi về mặt
chính sách phát triển kinh tế nông thôn ở hầu hết các nước có nền kinh tế chuyển
đổi như Ba Lan và Việt Nam vào cuối những năm 80.
Thứ tư, phát triển kinh tế nông thôn gắn với quá trình đa dạng hóa kinh tế
nông thôn
Sự thành công trong phát triển kinh tế nông thôn ở hầu hết các nước phát
triển trong những năm gần đây đều tập trung các chính sách nhằm thúc đẩy quá
trình đa dạng hóa các hoạt động kinh tế khu vực nông thôn, trong đó tập trung vào
các hoạt động phi nông nghiệp nhằm tạo việc làm và cải thiện cuộc sống người dân
38
khu vực nông thôn. Ở hầu hết các nước phát triển thuộc OECD thì mức độ phát
triển kinh tế nông thôn đã đạt mức độ cao hơn khi mà các hoạt động như dịch vụ, du
lịch nông thôn ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, trong khi đó, các nước đang phát triển
thì vẫn tập trung vào hoạt động sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Tuy nhiên, xu
hướng dịch chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang các hoạt động phi nông nghiệp
đang trở thành xu hướng chủ đạo ở các nước này.
Thứ năm, phát triển kinh tế nông thôn hướng đến sự phân cấp trong quản lý
Phương thức tiếp cận trong phát triển kinh tế nông thôn đang có sự chuyển
dịch rõ ràng theo hướng tiếp cận mệnh lệnh hành chính từ trên xuống chuyển sang
hướng tiếp cận từ dưới lên với việc phân cấp quản lý cho các chính quyền địa
phương. Xu hướng tập trung các nguồn lực của nhà nước bằng hình thức hỗ trợ
được chuyển sang các hình thức đầu tư cũng như phát huy và thực hiện các sáng
kiến, nguồn lực của người dân khu vực nông thôn trong phát triển kinh tế nông
thôn.
Hoạt động phân cấp trong quản lý theo lý thuyết nông thôn mới cũng chứng
minh tính hiệu quả trong quản lý, tính giải trình, minh bạch trong các hoạt động xây
dựng và phát triển khu vực nông thôn, đồng thời, quá trình phân cấp này sẽ tạo ra sự
chủ động hơn cho cấp địa phương, phát huy được mức độ sáng tạo trong cộng đồng
khu dân cư.
Thứ sáu, phát triển kinh tế nông thôn hướng đến sự bền vững
Một nền nông nghiệp theo hướng bền vững là sản xuất ra các sản phẩm
không những cung cấp lương thực, thực phẩm cho con người, đảm bảo nguồn
nguyên liệu cho các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp chế
biến lương thực, thực phẩm mà còn sản xuất ra những mặt hàng có giá trị xuất khẩu,
tăng thêm nguồn thu ngoại tệ. Hiện tại cũng như trong tương lai, nông nghiệp vẫn
đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội loài người, không ngành nào
có thể thay thế được. Trên 40% số lao động trên thế giới đang tham gia vào hoạt
động nông nghiệp. Đảm bảo an ninh lương thực là mục tiêu phấn đấu của mỗi quốc
gia, góp phần ổn định chính trị, phát triển nền kinh tế. Xã hội càng phát triển thì
phát triển kinh tế nông thôn càng phải đòi hỏi sản xuất và cung ứng những sản
39
phẩm đảm bảo sự an toàn cho người tiêu dùng và không gây ra ô nhiễm môi trường;
đảm bảo đạt được năng suất, chất lượng và sản lượng cao đáp ứng đầy đủ các nhu
cầu nhiều mặt của toàn xã hội về sản phẩm nông nghiệp; tạo ra các sản phẩm nông
nghiệp với chất lượng cao, sạch sẽ, không tồn dư các chất độc; cải thiện nguồn thu
nhập của người nông dân khu vực nông thôn.
Phát triển kinh tế nông thôn đảm bảo được tính bền vững tức là thúc đẩy sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, hoàn thiện các cơ chế nhằm tạo động lực
phát triển các hoạt động phi nông nghiệp, sử dụng một cách hợp lý các nguồn lực
tại địa phương bao gồm các yếu tố về lao động, đất đai và nguyên vật liệu cho sản
xuất.
Tóm lại: Đặc điểm chung của phát triển kinh tế nông thôn là một quá trình
phán ánh sự thay đổi các mối quan hệ kinh tế trong địa bàn khu vực nông thôn. Xu
thế chung của tiến trình này cũng không nằm ngoài các lý thuyết về sự phát triển,
nhưng ở góc độ hẹp hơn tức là gắn liền địa bàn khu vực nông thôn. Phát triển và
phát triển kinh tế nông thôn đều có một điểm chung chính là sự thay đổi, nó đòi hỏi
phải có sự phối hợp một cách đa dạng giữa các nhân tố trong tiến trình của sự phát
triển.
Các nhân tố tham gia và quyết định sự phát triển bền vững kinh tế nông thôn
trong các chính sách chính là: Sự đồng thuận của các tầng lớp cư dân sống trong
khu vực nông thôn, những đóng góp có phản biện của các tổ chức phi chính phủ, tổ
chức xã hội dân sự, những điều chỉnh về mặt chính sách của chính phủ, sự giám sát
có hiệu quả của các cơ quan đoàn thể địa phương, sự đóng góp về mặt tài chính của
các nhà tài trợ, doanh nghiệp tư nhân, các Hiệp hội kinh doanh…
2.2.3. Nội dung phát triển kinh tế nông thôn
Từ những khái niệm, đặc điểm phát triển kinh tế nông thôn được phân tích ở
trên cho thấy, nội hàm của phát triển kinh tế nông thôn bao gồm 05 thành tố cơ bản
sau: (1) Nhiều hơn về số lượng: Phát triển kinh tế nông thôn đảm bảo sự gia tăng về
sản lượng hàng hóa nông sản và hàng hóa mà ngành nông nghiệp, khu vực nông
thôn cung ứng cho xã hội ở trong và ngoài nước; (2) Tốt hơn về chất lượng: Sản
phẩm hàng hóa sản xuất ra ở khu vực nông thôn cần đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
40
về chất lượng sản phẩm, phù hợp với các quy định về chất lượng, vệ sinh an toàn
thực phẩm của quốc gia và thị trường quốc tế; (3) Đa dạng hơn về cơ cấu sản phẩm:
Chủng loại sản phẩm hàng hóa nông sản cung ứng ra ngoài thị trường và xã hội
ngày càng phong phú hơn, đáp ứng nhu cầu của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội
và thị trường quốc tế; (4) Thay đổi về tổ chức và thị trường: Phát triển kinh tế nông
thôn đòi hỏi sự thay đổi về tổ chức, thể chế và thị trường sao cho thích ứng hơn,
phù hợp hơn với yêu cầu phát triển ở mỗi thời kỳ; và (5) Đảm bảo công bằng giữa
các vùng, nhóm dân cư, các thế hệ, nam và nữ. Đây được xem là điều kiện cần và
đủ đối với mỗi chính sách phát triển kinh tế nông thôn, hạn chế đến mức thấp nhất
sự chênh lệch giữa các vùng miền, giữa các tâng lớp dân cư, đảm bảo bình đẳng
giới. Đây cũng là thành tố xã hội quan trọng của công cuộc phát triển kinh tế nông
thôn bền vững.
Nhằm đạt được các nội dung trên, mỗi một quốc gia lại có các chính sách
phát triển nông thôn khác nhau. Nhìn chung, các chính sách này được chia thành 2
loại là chính sách rộng và hẹp. Việc áp dụng chính sách rộng hay hẹp phụ thuộc vào
bản chất của các vùng nông thôn như: Tình hình nhân khẩu học, đặc điểm kinh tế
địa phương…để có chính sách phù hợp.
Theo những lý thuyết mà đã nêu ở trên, phát triển kinh tế nông thôn ở mỗi
vùng, khu vực, quốc gia có những đặc trưng riêng và tương đối đa dạng. Vì vậy, với
việc vận dụng các lý thuyết nêu trên mà mỗi quốc gia có các nội dung và chương
trình phát triển kinh tế nông thôn là khác nhau.Trên thực tế, các nước công nghiệp
phát triển ( Âu, Mỹ ) luôn là những nước tiên phong trong việc áp dụng các lý
thuyết vào chương trình phát triển kinh tế nông thôn, trong khi đó các nước đang và
kém phát triển hiện cũng đang có những thay đổi trong việc tiếp cận khung lý
thuyết để từng bước hoàn thiện hơn cho các chương trình hành động về phát triển
kinh tế nông thôn. Song dù áp dụng chính sách rộng hay hẹp thì mục tiêu của chính
sách phát triển kinh tế nông thôn chính là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khu vực
nông thôn, tạo việc làm từ đó cải thiện cuộc sống khu vực nông thôn. Để đáp ứng
được mục tiêu chung đó, chính sách phát triển kinh tế nông thôn ở cả quốc gia phát
triển và đang phát triển cũng đều có đặc điểm và nội dụng chính sau:
41
Thứ nhất, cải thiện khả năng cạnh tranh của lĩnh vực sản xuất nông nghiệp
Cải thiện khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp được xem
là một trong những trọng tâm trong các chính sách phát triển kinh tế nông thôn.
Nông nghiệp hiện đang giữ vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế ở nhiều
nước phát triển và đang phát triển. Đây vẫn là nguồn việc làm chủ yếu ở nhiều khu
vực đang phát triển. Năm 2015 có đến 23,4% dân số tham gia hoạt động kinh tế ở
vùng cận Sahara châu Phi làm trong lĩnh vực nông nghiệp và 22,7% dân số ở khu
vực Đông Nam Á (FAO, 2015a) tham gia lĩnh vực này. Năm 2014, ngành nông
nghiệp chiếm 10% tổng sản phẩm quốc nội ở châu Á và 14% ở châu Phi, so với
mức trung bình toàn cầu là 4% (FAO, 2015a) [89]. Trong bối cảnh này, nông
nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong việc cải thiện mức sống ở các nước đang
phát triển.
Tại các nước đang phát triển, việc tăng năng suất nông nghiệp cùng với
những cơ hội do công nghệ thông tin truyền thông và hội nhập toàn cầu mang lại có
thể giúp tăng thu nhập nông thôn và nguồn cung lương thực, giá lương thực thấp
hơn, giảm chi tiêu gia đình, tăng tiết kiệm và cải thiện tổng thể an ninh lương thực.
Nâng cao năng suất nông nghiệp cũng có thể đem lại nhiều cơ hội đầu tư hơn và sự
phát triển của các ngành liên quan đến nông nghiệp và nền kinh tế phi nông nghiệp
ở nông thôn. Hay nông nghiệp vẫn tiếp tục là ngành đem lại sinh kế chính, là nguồn
tạo việc làm lớn thứ hai, chỉ sau ngành dịch vụ. Thậm chí, trong một số giai đoạn
nhất định, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, hoạt động sản xuất nông
nghiệp được coi là ngành có thể hấp thụ được một số ít lực lượng lao động bị sa thải
ở các ngành khác (Csaki et al,2000) [77]. Bên cạnh đó, qua nghiên cứu kinh nghiệm
thực tiễn ở một số nước như Ấn Độ, Bangladesh, Kenya, Philippines và Bolivia, các
nhà nghiên cứu đã đi tới một kết luận, đó là việc phát triển, tăng trưởng khu vực
nông thôn sẽ giúp xóa đói giảm nghèo ở không chỉ riêng khu vực nông thôn, mà còn
giảm nghèo ở cả khu vực thành thị, trong khi đó tăng trưởng ở khu vực thành thị
không đủ đảm bảo cho việc xóa đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn (Ashley and
Maxwell, 2001).
Đối với các nước thành viên mới gia nhập vào Liên minh châu Âu thì hoạt
42
động sản xuất nông nghiệp của những nước này hiện vẫn còn đóng vai trò chi phối
chính đến toàn bộ nền kinh tế, đây cũng là lĩnh vực còn quá chênh lệch đối với các
nước thành viên EU 15 khi so sánh về thu nhập bình quân đầu người khu vực nông
thôn, quy mô trang trại, năng suất lao động nông nghiệp, năng lực quản lý các mô
hình trang trại lớn theo tiêu chuẩn chung của cả khối, và đặc biệt ngân sách hỗ trợ
cho các chương trình phát triển kinh tế nông thôn đang chiếm một tỷ trọng cao hơn
rất nhiều so với các nước thành viên EU 15, gây ra sự bất bình trong cơ chế đóng và
hưởng ngân sách giữa các nước thành viên.
Chính vì vậy, một trong những nội dung bắt buộc đối với việc cải thiện khả
năng cạnh tranh sản xuất nông nghiệp của các nước thành viên mới trong đó có Ba
Lan được xem là nội dung bao trùm xuyên suốt trong các chương trình phát triển
kinh tế nông thôn.
Thứ hai, đào tạo phát triển nguồn nhân lực
Lý thuyết về phát triển nông thôn mới đã chứng minh hoạt động sản xuất
nông nghiệp hiện không còn là lĩnh vực chi phối đến sự phát triển khu vực kinh tế
nông thôn, mà thay vào đó, thu nhập của người dân lại dựa chủ yếu vào các hoạt
động phi nông nghiệp. Thúc đẩy sự da dạng, trong đó phát triển mạnh lĩnh vực dịch
vụ nông thôn, thu hút các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ… hiện
đang được xem là một trong những nội dung chính mà các quốc gia cần phải giải
quyết trong những năm gần đây.
Đối với các nước chuyển đổi, các nước thành viên mới khu vực châu Âu như
Ba lan, Hungary, Cộng hòa Séc…thì tỷ lệ thất nghiệp của lao động nông thôn, lao
động không có tay nghề hiện vẫn còn quá cao so với các nước thành viên cũ. Bên
cạnh đó, với nhiều chương trình tài trợ từ Ủy ban Châu Âu đối với việc phát triển
trang trại, nâng cao khả năng quản lý, cạnh tranh của các trang trại nhằm sản xuất
hàng hóa nông nghiệp theo quy mô lớn, ứng dụng khoa học công nghệ tiến tiến, tạo
ra những sản phẩm nông nghiệp đáp ứng yêu cầu khắt khe về dư lượng kháng sinh,
vấn đề môi trường… đã đặt ra những yêu cầu cấp thiết trong chương trình phát triển
kinh tế nông thôn, buộc chính phủ các nước chuyển đổi phải đặt ra mục tiêu cải
thiện năng lực, kỹ năng nguồn nhân lực lao động nông thôn.
43
Thứ ba, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng nông thôn
Hiện đại hóa cơ sở hạ tầng khu vực nông thôn đón vai trò quan trọng trong
việc thúc đẩy sự phát triển khu vực nông thôn, thu hẹp khoảng cách còn chênh lệch
nông thôn-đô thị về cơ sở hạ tầng cứng và mềm. Cơ sở hạ tầng cứng bao gồm các
dịch vụ công cơ bản như nước, vệ sinh môi trường, năng lượng, điện, giao thông
(đường bộ, đường sắt, cầu cống, sân bay, bến cảng,...) và công nghệ thông tin
truyền thông. Cơ sở hạ tầng mềm gồm các tổ chức con người để duy trì các tiêu
chuẩn xã hội và kinh tế cốt lõi trong một quốc gia, chẳng hạn như y tế, giáo dục,
vốn xã hội, và các hệ thống tài chính, quy định, luật pháp và chính trị. Cơ sở hạ tầng
cứng và mềm cùng nhau tạo thành nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Cơ sở hạ tầng nông thôn bền vững và phân phối đồng đều làm tăng năng suất
bằng cách giúp các hộ gia đình tiết kiệm thời gian và năng lượng vào việc sở hữu
các dịch vụ thiết yếu cơ bản và cải thiện nguồn nhân lực thông qua y tế và giáo dục.
Việc cung cấp các dịch vụ cơ bản thường có lợi cho phụ nữ, giúp họ giảm bớt các
công việc như kiếm nước hay nhiên liệu, thay vào đó họ sẽ có thể theo đuổi các
hoạt động tạo ra thu nhập.
Đầu tư vào cơ sở hạ tầng cũng tạo ra các việc làm phi nông nghiệp cho người
dân nông thôn, tạo ra nhu cầu cho đầu vào và sản phẩm trung gian, thúc đẩy nhu
cầu về lao động trong các lĩnh vực này, và thúc đẩy tăng trưởng theo nhiều cách
như : tạo điều kiện cho việc tiếp thị và bán các mặt hàng nông nghiệp, cho phép các
nhà máy mở rộng sản xuất với nguồn cung năng lượng đáng tin cậy
Đối với các nước Đông Âu, trong giai đoạn đầu của tiến trình hội nhập vào
ngôi nhà chung châu Âu, cách tiếp cận nhằm phát triển kinh tế khu vực nông thôn ở
các nước này được bắt đầu từ mô hình hiện đại hóa hạ tầng nông thôn, nghĩa là cố
gắng hiện đại hóa tất cả các mặt của cuộc sống vùng nông thôn, từ sản xuất nông
nghiệp đến cơ sở hạ tầng văn hóa và tự nhiên (Nemes, 2005; Arnalte và Ortiz,
2003). Việc sản xuất thâm canh, chuyên môn hóa và tăng trưởng kinh tế có một vai
trò hết sức quan trọng đối với khu vực nông thôn và để đạt được điều này chủ yếu
thông qua cơ chế can thiệp từ bên ngoài (lý thuyết về mô hình ngoại sinh).
Cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn của các nước này trong những năm đầu hội
44
nhập luôn ở vào tình trạng kém phát triển hơn so với khu vực đô thị, khả năng tiếp
cận các nguồn lực thấp và duy trì hệ thống văn hóa và kinh tế xã hội theo chủ nghĩa
truyền thống (ở thời kỳ bùng nổ hiện đại hóa ở các nền kinh tế Châu Âu, lối sống
truyền thống nông dân và văn hóa bị coi là một trong những trở ngại chính cho việc
cải thiện cuộc sống vùng nông thôn và quá trình hiện đại hóa).
Để cải thiện tình hình này, khu vực nông thôn cần phải được hiện đại hóa và
kết nối chặt chẽ với các trung tâm năng động và mở rộng các ngành, lĩnh vực sản
xuất, cùng với việc khuyến khích chuyển giao khoa học kỹ thuật, đưa khoa học kỹ
thuật vào phục vụ sản xuất. Tất cả điều này có thể đạt được thông qua các can thiệp
từ bên ngoài[ 105].
Thứ tư, phát triển kinh tế nông thôn dựa trên nguồn lực địa phương
Nội dung này được cụ thể hóa trong khung lý thuyết về phát triển mô hình
nông thôn mới do OECD khởi xướng được thực hiện bắt đầu vào năm 2006 áp dụng
bắt buộc đối với toàn bộ các nước thành viên OECD. Tính hiệu quả trong việc khai
thác những sáng kiến và phát huy nguồn lực địa phương đã được minh chứng bằng
thực nghiệm. Chính vì vậy, phát triển kinh tế nông thôn ở các quốc gia với ( lý
thuyết mô hình ngoại sinh) kết thúc tức là sau khi hoàn thiện về cơ bản các chương
trình hiện đại hóa cơ sở hạ tầng nông thôn, tiếp nhận nguồn lực tài chính từ bên
ngoài, bức tranh chung về khu vực nông thôn đã có những bước tăng trưởng mạnh,
song trong bối cảnh nguồn lực hạn chế, sức tăng trưởng kinh tế nông thôn dường
như tới hạn. Vì vậy, việc chuyển hướng khai thác các nguồn lực bên trong cộng
đồng ( Lý thuyết mô hình nông thôn mới- mô hình nội sinh) với việc thúc đẩy khả
năng quản trị, cơ chế tham gia, lập kế hoạch có sự tham gia, phối hợp của người dân
( bottom up), thực hiện phân cấp quản lý Trung ương, địa phương… nhằm nâng cao
khả năng cạnh tranh của các khu vực nông thôn thông qua việc chú trọng hơn tới
tính đa dạng của các khu vực này, cũng như đảm bảo sự minh bạch hơn trong các
khâu lập kế hoạch phát triển kinh tễ xã hội địa phương, thúc đẩy sự phát triên khu
vực nông thôn thông qua việc thu hút ngày càng nhiều các doanh nghiệp đầu tư vào
khu vực nông thôn, từ đó tạo ra sự đa dạng hơn trong phát triển thay vì chỉ tập trung
vào nông nghiệp[ 88].
45
Thứ năm, hoàn thiên hệ thống chuỗi cung ứng hàng nông sản
Trước những biến đổi trong bối cảnh trong và ngoài nước, cuộc khủng hoảng
kinh tế tài chính toàn cầu tạo nên nhiều hệ lụy mà mỗi một quốc gia phải đối mặt và
giải quyết. Trong bối cảnh như vậy, đảm bảo an ninh lương thực được xem là một
thách thức nổi lên trong chiến lược phát triển kinh tế nông thôn ở các hầu hết các
nước phát triển và đang phát triển bởi: Sản xuất nông nghiệp, nhân tố chính trong
phát triển kinh tế nông thôn với mục tiêu cung cấp lương thực nhằm đáp ứng cho
nhu cầu ngày càng tăng trong nước cũng như quốc tế. Chính vì vậy, những mục tiêu
về xây dựng hệ thông chuỗi cung ứng nông sản, gắn kết trách nhiệm và tính giải
trình của các nhà sản xuất với người tiêu dùng, duy trì và nâng cao về năng lực sản
xuất nông nghiệp trong khi phải đảm bảo và tôn trọng những cam kết của mình
trong chính sách đồng nhất và phát triển thương mại quốc tế.
Đặc biệt, yêu cầu về phát triển kinh tế nông thôn gắn với phát triển bền vững
với việc đáp ứng các nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng về chất lượng cao
về sản phẩm thực phẩm, các tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh dịch tễ cao, chất lượng và
phúc lợi xã hội ... đang đòi hỏi các chính sách phát triển kinh tế nông thôn phải đáp
ứng được những yêu cầu đặt ra theo các chuẩn chuỗi cung ứng toàn cầu.
Tại khu vực các nước thành viên EU, định hướng chính sách phát triển kinh
tế nông thôn nhằm tập trung vào việc hoàn thiện chuỗi cung ứng hàng nông sản, đặc
biệt là chuối cung ứng thực phẩm ngắn đang được gấp rút triển khai, cụ thể, hội
thảo về “chuỗi cung ứng ngắn và nông sản địa phương” do EU tổ chức tại Brusell
ngày 20/4/2012 với mục đích tìm kiếm những giải pháp huy động tốt hơn tiềm năng
kinh tế, xã hội và môi trường của chuỗi[ 87], tài trợ các dự án chuỗi cung ứng ngắn,
kinh nghiệm của Italia, dự án Foodlink[ 87]. Thông điệp được đưa ra từ EU là
“Chuỗi cung ứng ngắn là động lực của sự thay đối hướng đến phát triển bền vững ở
cả hệ thống nông nghiệp và phát triển nông thôn”. Trong quy định 1305/2013 của
chính sách phát triển nông thôn giai đoạn 2007-2013 của EU với 06 mục tiêu ưu
tiên thì đã đề ra “ Cải thiện tính cạnh tranh của các trang trại bằng việc thúc đẩy
các trang trại hội nhập tốt hơn vào chuỗi nông sản thông qua kế hoạch chất lượng,
gia tăng giá trị gia tăng đối với các sản phẩm nông nghiệp, thúc đẩy thị trường địa
46
phương và chuỗi cung ứng nông sản ngắn.” [ 87]
Khung khổ chính sách phát triển nông thôn giai đoạn 2014-2020 của Liên
minh châu Âu với định hướng phát triển mô hình chuỗi cũng đã được chính thức
thể chế trong các quy định hướng dẫn các nước thành viên thực hiện. Nhằm bổ trợ
cho các hoạt động của chuỗi, các chính sách về xúc tiến sản phẩm nông sản, quy
định về hệ thống nông sản địa phương, quy định về dán nhãn, đăng ký thương hiệu
sản phẩm địa phương, quy định về công bố thông tin sản phẩm, chất lượng sản
phẩm, chức năng của chuỗi cung ứng cũng chính thức được chỉnh sửa và thông qua
ở cấp nghị viện châu Âu.
Thứ sáu, đa dạng hóa các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp
Đa dạng hóa các hoạt động trong phát triển kinh tế nông thôn ở hầu hết các
nước phát triển trong những năm gần đây khi mà lý thuyết về “ mô hình nông thôn
mới” chính thức được áp dụng. Theo lý thuyết này thì các quốc gia cần tăng đầu tư
vào khu vực nông thôn hơn là trú trọng vào bao cấp, nhằm khuyến khích phát triển
các hoạt động đem lại hiệu quả sản xuất cao nhất cho từng khu vực.
Thực hiện phân cấp quản lý hành chính và thiết kế chính sách cho từng cấp
(cấp trung ương, vùng và địa phương) và tăng cường sử dụng cơ chế hợp tác, phối
hợp giữa các khu vực công, tư và tự nguyện cho việc phát triển và thực hiện các
chính sách địa phương và khu vực [110]. Nhiều công trình nghiên cứu của các học
giả đã chỉ ra các nước có nền công nghiệp phát triển (nhóm nước OECD) thì thu
nhập của các hộ nông dân lại chủ yếu dựa vào các hoạt động ngoài nông nghiệp,
chính vì vậy việc phát triển khu vực kinh tế nông thôn sẽ phụ thuộc vào sự phát
triển của nhiều công cụ kinh tế mới.
Báo cáo OECD cũng đã chứng minh, cơ cấu kinh tế khu vực nông thôn
không chỉ bị giới hạn trong lĩnh vực nông nghiệp mà còn bị chi phối bới các lĩnh
vực công nghịêp và dịch vụ, như du lịch và chế tạo (Mandl et al, 2007) . Vì vậy, đa
dạng hóa với các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp, tạo cơ hội việc làm cho lao
động nông thôn, thu hẹp khoảng cách nông thôn với đô thị, giảm thiểu sự di cư lao
động nông thôn ra thành phố… là một trong những nội dung mà các nước phát triển
nói chung và các nước đang phát triển nói riêng cần tập trung giải quyết.
47
Thứ bảy, hoàn thiện hệ thống chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế nông thôn
Nhìn chung, các chính sách phát triển kinh tế nông thôn của các nước chuyển
đổi, các nước thành viên mới EU được điều chỉnh theo hướng cải cách kinh tế thị
trường, tư nhân hóa, tự do hóa thị trường nông nghiệp, và thực thi các yêu cầu của
hội nhập vào Liên minh châu Âu. Bên cạnh đó, nhằm đạt được các mục tiêu đã đề
ra trong chiến lược phát triển kinh tế chung, các chính sách này còn hướng đến giải
quyết những vấn đề mang tính đặc thù của các khu vực nông thôn trong việc thiết
lập các cơ chế về phát triển thị trường hàng nông sản, chính sách xúc tiến các hoạt
động đầu tư phi nông nghiệp trong khu vực nông thôn cũng như hướng hoạt động
sản xuất nông nghiệp và nông thôn theo hướng bền vững và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng hiện đại. Một số các chính sách cần phải hoàn thiện, tạo cơ chế
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế khu vực nông thôn như (1) Chính sách
thương mại; (2) Chính sách giá cả; (3) Chính sách tài chính nông thôn; (4) Chính
sách đất đai; (5) Chính sách Tư nhân hóa trong nông nghiệp.
2.3. Các nhân tố tác động đến phát triển kinh tế nông thôn
2.3.1. Nhân tố tác động bên ngoài
Trong bối cảnh hiện nay, tiến trình hội nhập nền kinh tế quốc gia với khu vực
và thế giới đang trở thành một xu hướng chủ đạo diễn ra trên khắp các châu lục.
Tuy theo các mức độ hội nhập, mà mỗi một khu vực hay các nhóm liên kết lại hình
thành lên các chính sách chung để quản lý và điều tiết các hoạt động của khu vực
nói chung và quốc gia nói riêng. Như vậy, tùy vào mức độ hội nhập của quốc gia
với khu vực và thế giới mà mức độ ảnh hưởng của các nhân tố bên ngoài đến phát
triển kinh tế nông thôn là khác nhau.
Là một thành viên của Liên minh châu âu, chính vì vậy, việc triển khai các
chương trình phát triển kinh tế của Ba Lan chịu sự ràng buộc bởi các quy định,
chính sách ở cấp khu vực EU. Trong những thập niên đầu thế kỷ XXI, những biến
động nổi bật của khu vực đã và đang tác động đến việc triển khai các chương trình
phát triển kinh tế nông thôn ở các nước thành viên cụ thể như:
Chính sách phát triển nông thôn của khu vực
Mặc dù chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ với 19% dân số trên 44% diện tích khu vực
48
EU và đóng góp chưa đến 13% GDP khu vực (EC,2018), song cải thiện cuộc sống
người dân khu vực nông thôn luôn được xem là một trong những trọng tâm ưu tiên
trong các chính sách của Liên minh châu Âu. Những năm đầu thập niên thế kỷ XXI,
khu vực nông thôn EU đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức ngày
càng lớn, đó là sự suy giảm dân số ngày càng tăng ( giai đọan 2013- 2017, đã có
500 nghìn người dân nông thôn rời bỏ khu vực nông thôn)(EC,2018), hay xu hướng
già hóa dân số với tỷ lệ người già ở khu vực nông thôn ngày càng cao. Bên cạnh đó,
chênh lệch về thu nhập giữa người dân khu vực nông thôn và thành thị ngày càng
tăng (GDP trên mỗi người dân ở khu vực nông thôn tương ứng với 66% mức trung
bình của EU-28 so với 118% ở thành thị), và đặc biệt mức chênh lệch này còn lớn
hơn ở các quốc gia là thành viên mới của EU… Hơn nữa, tại nhiều vùng nông thôn
hẻo lánh, biệt lập thì khả năng tiếp cận các dịch vụ chung ( trường học, chăm sóc
sức khỏe y tế) còn rất thấp bởi sự thiếu hụt, khó khăn trong vấn đề kết nối về cơ sở
hạ tầng ( Hạ tầng cứng: giao thông, thủy lợi và hạ tầng mềm: dich vụ thông tin, khả
năng truy cập internet, băng thông rộng).
Nhằm cải thiện cuộc sống người dân khu vực nông thôn EU, tại chương trình
nghị sự năm 2000, Ủy ban châu Âu đã chính thức thông qua việc điều chỉnh chính
sách nông nghiệp chung nông thôn ( Common Agricultural Policy– CAP) thành hai
trụ cột chính: (1) Trụ cột thứ nhất- tập trung vào các cơ chế hỗ trợ tiêu thụ hàng hóa
nông sản cho người nông dân và (2) Trụ cột thứ hai - hay chương trình phát triển
nông thôn (Francesco,2010). Các mục tiêu cơ bản trong chính sách phát triển nông
thôn của EU đặt ra nhằm:
- Thúc đẩy sản xuất sản phẩm nông nghiệp an toàn, đảm bảo sức khỏe cho người
tiêu dùng. Các trang trại nông nghiệp trong khu vực đạt hiệu quả cao về chất lượng
sản phẩm gắn với việc đảm bảo an toàn thực phẩm.
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong khu vực nông thôn, giải quyết các vấn đề
bất bình đẳng trong phát triển vùng, khu vực.
- Thúc đẩy và đảm bảo sự phát triển bền vững về mặt xã hội như giải quyết các
vấn đề nguồn lực lao động nông nghiệp nông thôn, vấn đề về chất lượng lao động
49
nông nghiệp, các điều kiện trong sản xuất nông nghiệp nông thôn…
- Sử dụng nguồn lực, công nghệ phương thức sản xuất nông nghiệp, khai thác
nguồn nước, tài nguyên hướng đến bảo vệ môi trường.
Các hoạt động được triển khai trong chính sách này được thực hiện thông qua
các chương trình phát triển nông thôn ở cấp khu vực, và cấp quốc gia. Mỗi một
chương trình sẽ kéo dài 07 năm được thực hiện với ngân sách từ khu vực, quốc gia
và các nguồn tài trợ từ khu vực tư nhân.
Về mặt lý thuyết, đối với chương trình phát triển nông thôn, các quốc gia
thành viên, trong đó có Ba Lan có thể quyết định và vận hành chính sách phát triển
nông thôn hoàn toàn độc lập. Tuy nhiên, phương thức tiếp cận như vậy sẽ dẫn đến
sự không hiệu quả và thiếu thực tiễn. Bởi lẽ, không phải tất cả các nước thành viên
trong khối sẽ có thể đủ nguồn lực và khả năng tài chính để thực hiện các chương
trình. Bên cạnh đó, nhiều vấn đề ở khu vực nông thôn không chỉ giới hạn ở biên
giới mỗi quốc gia hay khu vực, vì vậy, các vấn đề này cần được giải quyết thông
qua một chính sách chung về phát triển nông thôn (Ví dụ, vấn đề ô nhiễm, tiêu thụ
hàng nông sản, hay sự phát triển bền vững của cả khu vực…). Hơn thế nữa, chính
sách phát triển nông thôn của EU có sự liên kết đến các chính sách khác được thiết
lập ở cấp EU, do vậy, việc yêu cầu các nước thành viên tuân thủ thực hiện một
chính sách chung-Chính sách phát triển nông thôn với sự điều phối và kiểm soát
được đặt ở cấp khu vực sẽ mang lại hiệu quả tốt nhất, để đảm bảo những mục tiêu
chung mà khu vực đã đề ra (Francesco,2010).
Như vậy, với việc vận hành một chính sách phát triển nông thôn ở cấp khu
vực, đòi hỏi Ba Lan, cũng như nhiều nước thành viên EU cần phải tuân thủ thực
hiện theo những yêu cầu đề ra. Những điều chỉnh về mặt chính sách ở cấp khu vực
như: Tăng giảm về ngân sách tài trợ thực hiện các dự án, chương trình phát triển
nông thôn nông thôn (Cơ chế hỗ trợ tài chính được thực hiện qua các kênh như:Quỹ
bảo đảm nông nghiệp châu Âu (EAGF); Quỹ phát triển nông thôn (EAFRD); Quỹ
phát triển khu vực (ERDF); Quỹ phát triển xã hội (ESF)), đào tạo tập huấn nâng cao
năng lực, hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp khu vực nông thôn, thay đổi các quy
50
định về phát triển thị trường hàng nông sản với việc phát triển các chuỗi cung ứng
an toàn thực phẩm…sẽ tác động mạnh đến kết quả thực hiện các chương trình phát
triển nông thôn ở Ba Lan.
Với mục tiêu chung của chính sách phát triển nông thôn EU, trong những
năm đầu thập niên thế kỷ XXI, Ba Lan cũng tập trung vào “chính sách phát triển
nông thôn hẹp” đó là việc thiết lập các chương trình phát triển nông thôn quốc gia
theo từng giai đoạn (Chương trình giai đoạn 2004-2006; 2007-2013; 2014-2020)
nhằm tập trung giải quyết vào các mục tiêu cụ thể như: (1) Cải thiện khả năng cạnh
tranh của lĩnh vực sản xuất nông nghiệp; (2) Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
nông thôn; (3) Hiện đại hóa cơ sở hạ tầng nông thôn; (4) Đa dạng hóa kinh tế nông
thôn…Để đáp ứng các tiêu chuẩn gia nhập Liên minh châu Âu cũng như tận dụng
được các cơ hội từ chính sách nông nghiệp, chính sách phát triển nông thôn, Ba Lan
cũng đã nhanh chóng thực thi chuyển đổi từ kinh tế tập trung sang kinh tế thị
trường, chủ động hội nhập vào EU. Tích cực có những thay đổi khung khổ thể chế,
lồng ghép và điều chỉnh chính sách theo những quy định của khu vực như chính
sách thương mại, tài chính nông thôn, chính sách đất đai, tư nhân hóa... Những
chính sách này được thực thi cùng với sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà
nước nhằm thúc đẩy quá trình tự do hóa thương mại, cổ phần hóa các trang trại sản
xuất nông nghiệp.
Cuộc khủng hoảng nợ công
Khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu bùng phát vào năm 2008 tại Mỹ đã
lan sang khu vực châu Âu với điểm đầu tiên tại Hy Lạp sau đó đến Ai-len và tiếp
tục lan ra hầu hết các quốc gia khác trong khu vực đồng Euro. Mức nợ công ở Hy
Lạp đã lên tới 115% GDP và mức thâm hụt ngân sách 12,7% GDP, cao gấp 4 lần
mức cho phép của khu vực đồng tiền chung châu Âu, các nước khác trong khu vực
cũng như Đức, Pháp, Bồ Đào Nha lại tăng lên khá mạnh (Đức: từ mức 59,6% GDP
năm 2001 lên tới 69,2% năm 2007; Pháp: từ 56,8% GDP lên 67% GDP năm 2007;
Bồ Đào Nha: từ 53,6% năm 2001 lên tới 70,6% năm 2007…) ( Muhammad ,2011).
Tính chung giai đoạn 2007- 2012 tỷ lệ nợ công của khu vực đồng Euro đã tăng
51
22.3%, đưa mức nợ công từ 66.2% to 88.5% GDP( ECB, 2011).
Cuộc khủng hoảng tài chính đã làm tổn thất hàng nghìn tỷ USD thu nhập tài
chính của các nước thành viên EU, tác động tiêu cực đổ vỡ hàng loạt các ngân hàng,
doanh nghiệp trong khu vực. Sự suy giảm trong tăng trưởng kinh tế, mức độ cạnh
tranh của nền kinh tế thành viên yếu ớt, tình trạng thất nghiệp gia tăng đã gây ra
những xung đột về mặt chính trị ở hầu hết các quốc gia ( ECB, 2011).
Những bất ổn về hệ thống tài chính, tăng trưởng kinh tế chung của cả khu
vực đã gây ra những thiếu hụt về ngân sách chung của cả khu vực, cũng như những
điều chỉnh ở cấp khu vực nhằm giải quyết vấn đề này đã tác động trực tiếp đến các
chương trình phát triển kinh tế các nước thành viên EU nói chung và Ba Lan nói
riêng.
Vấn đề di cư trong khu vực
Trong những năm gần đây, Liên minh châu Âu đang phải gồng mình với
những thách thức mới đó chính là khủng hoảng nhập cư, chủ nghĩa khủng bố, chủ
nghĩa ly khai gia tăng và Brexit. Vấn đề nhập cư đang trở nên cấp bách đối với hầu
hết các nước khu vực châu Âu khi mà dòng người di cư từ khu vực Trung Ðông, Bắc
Phi có xu hướng ngày càng gia tăng, đã và đang tạo ra những bất đồng ngày càng lớn
trong nội bộ giữa các nước thành viên trong khu vực. Cụ thể, dòng người di cư từ các
nước Trung Đông và Bắc Phi đổ về EU tăng đột biến trong năm 2015 và trở thành
cuộc khủng hoảng di cư nghiêm trọng nhất kể từ Thế chiến 2. Chỉ tính riêng 9 tháng
đầu năm 2015, số người nhập cư đã lên đến 487,000 người , tăng gấp đôi so với năm
2014, và cũng là con số nhập cư cao nhất từ trước đến giờ ( Natalia,2015)
Trong bối cảnh như vậy, Liên minh châu Âu nói chung và các quốc gia thành
viên nói riêng phải thực hiện các chính sách cắt giảm chi tiêu công, giải quyết tình
trạng thất nghiệp, thúc đẩy cạnh tranh, tăng trưởng kinh tế…Chính vì vậy, việc dành
ra các khoản ngân sách tài chính khổng lồ nhằm hỗ trợ cho những người nhập cư
cũng là một trong những nguyên nhân gián tiếp tác động đến phát triển kinh tế nông
thôn Ba Lan.
Tình trạng già hóa dân số: Già hóa dân số đang được xem là một trong
những nguy cơ tác động đến sự phát triển kinh tế khu vực nông thôn ở hầu hết các
52
nước phát triển nói chung và Liên minh châu Âu nói riêng. Mức độ già hóa dân số
cũng đồng nghĩa với sự suy giảm về nguồn lực lao động, năng suất lao động và sự
thiếu hụt nguồn cung lao động trong nông nghiệp. Số liệu thống kê tại khu vực EU
cho thây, năm 2018 tỷ lệ người già trên 65 tuổi chiếm đến 19% dân số, tỷ lệ người
già trên 80 tuổi cũng tiến đến 14,6%, tăng gấp 2 lần so với năm 2010 ( Eurostat,
2018)
Như vậy, nhằm giải quyết các vấn đề phát triển bởi những tác động do già
hóa dân số, trong thời gian qua, ở cấp độ khu vực, Liên minh châu Âu đã có những
động thái trong việc điều chỉnh chính sách về việc làm và an sinh xã hội, tăng các
nguồn lực tài chính nhằm hỗ trợ và đảm bảo sinh kế bền vững…
Tăng các nguồn lực tài chính, chia sẽ hoặc giảm bớt ngân sách từ các chương
trình phát triển nông thôn của EU cũng đang là những nhân tố tác động mạnh đến
việc triển khai các chương trình phát triển kinh tế của các thành viên trong khu vực.
Ảnh hưởng Brexit
Sự kiện Brexit với việc người dân Anh quyết định từ bỏ tư cách thành viên
EU đã gây ra những tác động lớn chính sách nông nghiệp chung, tới thâm hụt ngân
sách EU, vấn đề về liên kết khu vực…. Năm 2014, Anh đã đóng góp vào ngân sách
EU tổng cộng 11,341 tỷ Euro (chiếm 9.73% trong tổng ngân sách trị giá 116,531 tỷ
Euro); đứng thứ thứ tư về giá trị đóng góp chỉ sau Đức, Pháp và Ý. Con số này
trong năm 2015 (trước thời điểm Brexit thống kê) đã tăng lên gấp rưỡi, đạt 18,209
tỷ Euro (chiếm 15.35% trong tổng ngân sách trị giá 118,604 tỷ Euro); đứng thứ ba
về giá trị đóng góp chỉ sau Đức và Pháp. Ngược lại, Anh chỉ đứng thứ sáu trong số
Số liệu năm 2016 cho thấy, mức đóng góp ngân sách của Anh là 12,2 tỉ bảng
những quốc gia nhận lại hỗ trợ từ EU ( Amaro, S. 2017).
sau khi đã được EU trừ đi mức giảm ( Rebate) là 4,8 tỉ bảng và nhận được ngân
sách hỗ trợ 4,1 tỉ bảng năm 2016, do đó thâm hụt trong đóng góp ngân sách giữa
Anh vào EU là 8,1 tỉ bảng. Mức thâm hụt đặc biệt cao trong các năm 2013 là 10,2 tỉ
bảng, năm 2015 là 10,7 tỉ bảng. Năm 2017, Anh là nước đứng thứ hai (sau Đức) có
mức đóng ngân sách nhiều hơn mức nhận lại hỗ trợ từ EU là 5.3 tỷ bảng Anh.
Những nước nhận được hỗ trợ lớn hơn giá trị đóng góp chủ yếu là các quốc gia
53
Trung và Đông Âu, bao gồm Ba Lan (8,6 tỷ bảng), Hungary (3,1 tỷ bảng), Romani
(3,4 tỷ bảng), Cộng hòa Séc (2,5 tỷ bảng), Bulgaria (1,5 tỷ bảng), Slovakia (1 tỷ
bảng) (Matthew Keep, 2016).
Hàng loạt các quan ngại đã được đặt ra về tương lai của khu vực, khi mà hiệu
ứng domino về việc rời bỏ EU có xu hướng ngày càng tăng. Nhiều quốc gia thành
viên cũng muốn có những cuộc trưng cầu dân ý về việc rời đi hay ở lại EU, như ở
Đan Mạch hay Hà Lan cũng đang gây ra những xáo trộn, những điều chỉnh về mặt
thể chế,chính sách nhằm duy trì sự tăng trưởng và phát triển bền vững cho cả khu
vực. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự bùng phát chủ nghĩa dân túy chính
là việc người dân ở nhiều quốc gia đang nhận thấy sự không công bằng trong vấn đề
đóng và hưởng ngân sách, trong đó có vấn đề về ngân sách EU dành quá nhiều cho
các nước thành viên mới trong đó có Ba Lan.
2.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng bên trong quốc gia
Điều kiện tự nhiên
Các hoạt động trong phát triển kinh tế nông thôn, đặc biệt là sản xuất nông
nghiệp chịu sự tác động và ảnh hưởng trực tiếp bởi sự thuận lợi của các yếu tố về
điều kiện tự nhiên. Ví dụ, yếu tố thổ nhưỡng, khí hậu tạo ra những sản phẩm nông
nghiệp đặc thù, yếu tố địa hình tạo sự thuận lợi trong sản xuất nông nghiệp, tạo ra
sự chuyên canh, tích tụ ruộng đất, cơ sở áp dụng khoa học công nghệ trong sản xuất
lớn, thuận lợi trong thúc đẩy sự thông thương hàng hóa nông sản... Chính vì vậy,
các yếu tố về điều kiện tự nhiên được xem là một trong những nhân tố tạo ra những
lợi thế so sánh và sức cạnh tranh của các mặt hàng quốc gia này so với quốc gia
khác trong khu vực.
Các nguồn lực phát triển kinh tế nông thôn
Các nguồn lực dành cho phát triển kinh tế khu vực nông thôn được phân
chia theo các dạng thức như: (1) các yếu tố nguồn lực có thể tồn tại dưới hình thái
vật chất, bao gồm: đất đai, máy móc, thiết bị, kho tàng, nguyên nhiên vật liệu, giống
cây trồng, vật nuôi, phân bón, thức ăn gia súc; (2) các nguồn lực về tài nguyên thiên
nhiên; (3) nguồn lực về vốn xã hội con người như tỷ lệ già hóa dân số, giới tính,
54
kinh nghiệm phát triển sản xuất nông nghiệp, quan hệ cộng đồng làng xã…là những
nhân tố đặc biệt lưu tâm của bất kỳ quốc gia nào trong việc hoạch định các chương
trình phát triển nông thôn.
Do đặc điểm của đầu tư trong sản xuất nông nghiệp, phát triển nông thôn là
khả năng thu hồi vốn chậm hoặc không có khả năng thu hồi vốn, rủi ro cao bởi các
yếu tố thời tiết, biến đổi khí hậu… hoạt động đầu tư vào khu vực nông thôn hiện
vẫn chiếm một tỷ trọng nhỏ hơn so với khu vực đô thị dẫn đến việc cải thiện môi
trường khu vực nông thôn thường diễn ra chậm, khó thu hút các nhà đầu tư tư nhân
vào lĩnh vực này. Chính vì vậy, nguồn lực tài trợ trực tiếp, gián tiếp từ bên ngoài,
kết hợp với các nguồn lực tài chính từ chính phủ, nguồn lực đầu tư tư nhân… là
những nhân tố tạo ra sự cải thiện về cơ sở hạ tầng cứng và mềm khu vực nông thôn,
phát triển nguồn nhân lực, cải thiện khả năng canh, thúc đẩy sự phát triển kinh tế
khu vực nông thôn.
Chất lượng nguồn nhân lực nông thôn
Xu hướng đa dạng hóa kinh tế nông thôn theo mô hình nông thôn mới ngày
càng trở nên phổ biến. Hoạt động nông nghiệp không còn là yếu tố chi phối đến
tăng trưởng khu vực nông thôn ở nhiều quốc gia. Thay vào đó, đa dạng hóa, phát
triển dịch vụ, du lịch khu vực nông thôn đang trở thành một xu hướng chủ đạo
nhằm cải thiện thu nhập, phát triển kinh tế nông thôn ở hầu hết các quốc gia trên thế
giới. Ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực thông qua các khóa đào tạo về kỹ năng quản
lý các mô hình trang trại, kỹ năng hợp tác trong phát triển chuỗi giá trị hàng nông
sản, kỹ năng ứng dụng khoa học công nghệ vào trong sản xuất nông nghiệp…Như
vậy, phát triển kinh tế nông thôn ở bất kỳ quốc gia nào sẽ không thể thành công khi
công tác này được trú trọng và đầu tư đúng mức.
Ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ
Ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến được xem là những
bước đi tắt, đón đầu giúp các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh ở cả khu vực đô thị
cũng như nông thôn giảm thiểu các chi phí, gia tăng lợi nhuận, tạo ra những sản
phẩm đặc thù trong sản xuất kinh doanh.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực như hiện nay, sự cạnh tranh ngày
55
càng gia tăng thì bất cứ một quốc gia nào có khả năng nắm bắt và ứng dụng nhanh
khoa học công nghệ vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong khu vực nông
thôn sẽ quyết định được mức độ thành công cao, tạo ra được những lợi thế so sánh
so với các quốc gia còn lại.
Hệ thống các chính sách
Chính sách kinh tế của nhà nước là hệ thống các giải pháp được thể chế hóa
thành công cụ để nhà nước thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế theo mục tiêu
đã lựa chọn. Đây là một yếu tố quan trọng hàng đầu để tạo lập môi trường kinh
doanh cũng như tạo động lực lâu dài cho phát triển kinh tế, xã hội nói chung và kinh
tế nông thôn nói riêng.
Đối với các quốc gia thành viên khu vực Liên minh châu Âu, các chương
trình phát triển kinh tế nông thôn quốc gia được tài trợ phần lớn ngân sách từ EU.
Chính vì vậy, việc thiết kế và hoàn thiện các khung khổ chính sách quốc gia đảm
bảo vừa phù hợp với một khung khổ chung của khu vực, vừa mang tính đặc thù
quốc gia, tạo ra công cụ, lợi thế riêng sẽ quyết định sự thành công, hiệu quả trong
việc triển khai các chương trình này.
2.4. Tiêu chí đánh giá phát triển kinh tế nông thôn
Cho đến nay, có khá nhiều quan điểm và tranh cãi của các nhà khoa học khi
đưa ra các chỉ tiêu cũng như phương thức để đánh giá sự phát triển kinh tế nông
thôn. Căn cứ vào các nội dung cơ bản về phát triển kinh tế nông thôn, trong khi
Alexandru Pavel (2019) đã sử dụng các chỉ số REDI để đánh giá phát triển kinh tế
nông thôn dựa trên 6 tiêu chí là: (1) nhân khẩu học;(2) cơ cấu kinh tế;(3) thu
nhập;(4) dịch vụ;(5) lực lượng lao động, địa phương hóa và (6) quản trị để đánh giá
phát triển kinh tế nông thôn; thì tác giả Daphne Meredith, et, al (2016) lại sử dụng
các bộ chỉ số như: (1) nhân khẩu học; (2) thất nghiệp; (3) tăng trưởng kinh tế GDP;
(4) tác động chính sách tài chính, tiền tệ, đầu tư, thuế để đánh giá phát triển kinh tế
nông thôn[81].
Tổ chức ngân hàng thế giới (World Bank) cũng đã đề xuất các nhóm yếu tố
(1) sự cải thiện của kinh tế nông thôn; 2) nền tảng tài nguyên tự nhiên bền vững; 3)
thúc đẩy sự hoạt động của một môi trường vĩ mô phù hợp cho tăng trưởng nông
56
thôn bền vững; và 4) cải thiện phúc lợi xã hội, quản lý và giảm thiểu rủi ro và giảm
tính dễ tổn thương[146]. Tổ chức lương thực thế giới (FAO) khuyến nghị áp dụng
hệ thống tiêu chí đánh giá phát triển nông thôn bao gồm xóa nghèo công bằng; thu
nhập, tiêu dùng; dinh dưỡng; sức khỏe; giáo dục; nhà ở; tiếp cận đến dịch vụ cộng
đồng [89].
Trong luận án này, tác giả luận án dựa vào một số tiêu chí của EU để đánh
giá, cụ thể:
2.4.1. Nhóm tiêu chí đánh giá sản xuất nông nghiệp trong khu vực nông thôn
GDP nông nghiệp và tỷ trọng GDP nông nghiệp trong GDP toàn nền kinh
tế: Tiêu chí này phản ánh sự đóng góp của ngành nông nghiệp trong cơ cấu toàn bộ
nền kinh tế của một vùng, quốc gia hay khu vực.
Quy mô trang trại: Đánh giá sự tăng giảm về quy mô, số lượng các trang trại
trong khu vực nông thôn. Trong luận án, tiêu chí này sẽ đánh giá mức độ tích tụ
ruộng đất, tạo ra sự hợp nhất về trang trại với diện tích lớn hơn. Mức độ tích tụ
ruộng đất cao sẽ đánh giá tính hiệu quả của các chương trình phát triển nông thôn
Ba Lan trong những năm hội nhập với khu vực EU. Bên cạnh đó, mức độ tích tụ đất
đai lớn sẽ tạo ra sự thuận lợi trong việc áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật,
thiết bị máy móc để thực thi sản xuất lớn, tạo ra những lợi thế cạnh tranh trong sản
xuất với chi phí vốn ngày càng thấp.
Năng suất lao động nông nghiệp: Năng suất lao động nông nghiệp là tiêu chí
phản ánh hiệu quả của việc sử dụng lao động và khả năng áp dụng khoa học kỹ
thuật trong sản xuất nông nghiệp. Năng suất lao động cao sẽ tạo ra nhiều sản phẩm
hàng hóa nông nghiệp, đặc biệt, với cơ chế hỗ trợ thu nhập dựa trên số lượng sản
lượng hàng nông sản được sản xuất, thì việc tăng năng suất lao động trong lĩnh vực
sản xuất nông nghiệp sẽ góp phần đáng kể trong việc cải thiện cuộc sống người dân
khu vực nông thôn.
Với các tiêu chí đánh giá trên, luận án sẽ phân tích và đánh giá được hoạt
động sản xuất nông nghiệp Ba Lan trong những thập niên đầu thế kỷ XXI có phải là
hoạt động chi phối trong phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan hay không? hay sự
57
phát triển kinh tế khu vực nông thôn dựa vào các hoạt động phi nông nghiệp.
2.4. 2. Nhóm tiêu chí đánh giá các hoạt động phi nông nghiệp
Thu nhập bình quân trên đầu người dân: Là tiêu chí phản ánh thu nhập và
mức sống dân cư, thu nhập trên đầu người cao là điều kiện nâng cao mức tiêu dùng
cá nhân cả về vật chất và tinh thần. Trong luận án tiêu chí này để tính mức thu nhập
người dân ở các khu vực nông thôn Ba Lan qua các thời kỳ, từ đó đánh giá sự phát
triển kinh tế nông thôn theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực.
Việc làm lao động khu vực nông thôn: Tiêu chí này được đo bằng số lượng
lao động khu vực nông thôn có việc làm trong tổng số lao động khu vực nông thôn,
nhằm đo lường sự biến động về lao động trong khu vực nông thôn.Tiêu chí này
cũng được tác giả đánh giá các nhóm giải pháp về đào tạo nghề cho lao động nông
thôn ở Ba Lan có mang lại sự thành công không?
Tiêu chí đo lướng mức độ dịch chuyển lao động khu vực nông thôn: đánh giá
mức độ dịch chuyển lao đông khu vực nông thôn ra thành phố. Tỷ lệ nhập cư lao
động từ khu vực đô thị vào khu vực nông thôn cao hơn tỷ lệ dịch chuyển lao động
từ nông thôn ra thành phố sẽ chứng minh những tác động tích cực, thành công trong
chính sách phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan trong những thập niên đầu thế kỷ
XXI
Hiện đại hóa cơ sở hạ tầng nông thôn: Tỷ lệ % tiếp cận người dân đối với cơ
sở hạ tầng nông thôn, dịch vụ internet, hệ thông nước sạch, hạ tầng kỹ thuật số,
thương mại điện tử. Tiêu chí này cho thấy mức độ cải thiện cuộc sống người dân
khu vực nông thôn.
Chi tiêu cho hoạt động đổi mới, sáng tạo (R&D): Tỷ lệ % tổng mức đầu tư
cho nghiên cứu và phát triển trong khu vực nông thôn. Hoạt động đổi mới, sáng tạo
trong nền kinh tế nói chung và khu vực nông thôn nói riêng đóng vai trò quyết định
tạo ra giá trị gia tăng đối với việc sản xuất, chế biến và tiêu thụ hàng nông sản do
người dân sản xuất.
Số lượng các doanh nghiệp hoạt động sản xuất phi nông nghiệp trong khu
vực nông thôn: Chỉ tiêu này đánh giá mức độ đa dạng hóa kinh tế nông thôn. Số
lượng các doanh nghiệp được thành lập trong khu vực nông thôn cao sẽ đóng góp
58
giảm tỷ lệ thất nghiệp lao động nông thôn, cải thiện thu nhập người dân nông thôn,
do vậy, đây cũng là tiêu chí dùng để đánh giá mức độ đa dạng hóa kinh tế nông
thôn.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Khung lý thuyết về phát triển kinh tế nông thôn được xây dựng trên cơ sở làm
rõ một số quan điểm, khái niệm như: Khu vực nông thôn, phát kinh tế nông thôn.
Theo đó, khu vực nông thôn cần được nhìn nhận và xem xét trên nhiều góc cạnh cả
về phát triển kinh tế và xã hội, các điều kiện đặc trưng mỗi quốc gia để phân chia
thành các khu vực thuần nông, khu vực trung gian hay đô thị. Từ việc làm rõ hơn về
khu vực nông thôn cho thấy phát triển kinh tế nông thôn là một quá trình phán ánh
sự thay đổi các mối quan hệ kinh tế trong địa bàn khu vực nông thôn bao gồm các
hoạt động sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp.
Phát triển kinh tế nông thôn với nội hàm đảm bảo sự tăng lên về số lượng hàng
hóa nông sản được sản xuất trong khu vực nông thôn, đảm bảo tốt hơn về chất
lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về vệ sinh an toàn thực phẩm
không chỉ cho tiêu dùng trong nước mà còn phục vụ cho mục tiêu xuất khẩu, cơ cấu
kinh tế khu vực nông thôn ngày càng được đa dạng với sự đan xen của các hình
thức phi nông nghiệp, nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông thôn...Những
nội dung đó cần được thực hiện bởi các chính sách nhằm thúc đẩy khả năng cạnh
tranh của các trang trại sản xuất nông nghiệp, chính sách hỗ trợ tài chính tín dụng,
chính sách đào tạo nguồn nhân lực.
Tùy thuộc vào mức độ hội nhập của quốc gia với khu vực và thế giới mà cần
xem xét các nhân tố tác động đến sự phát triển kinh tế nông thôn ở cả trong ( các
điều kiện về tự nhiên, kinh tế xã hội) và ngoài quốc gia đó ( các chính sách của khu
vực).
Để đánh giá được sự thay đổi trong phát triển kinh tế nông thôn ở các quốc gia
cần xem xét những điều kiện cụ thể để áp dụng những tiêu chí thích hợp nhằm đánh
giá sự thay đổi trong sản xuất nông nghiệp, phi nông nghiệp cũng như các tiêu chí
đánh giá về mặt xã hội như sự dịch chuyển lao động, sự thay đổi cơ sở hạ tầng khu
59
vực nông thôn.
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG THÔN BA
LAN NHỮNG THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI
3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khu vực nông thôn Ba Lan
3.1.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1.1. Vị trí địa hình Ba Lan
Ba Lan là một quốc gia nằm ở khu vực Trung Âu, tiếp giáp với 4 nước thành
viên châu Âu ( Đức, Slovakia, Cộng hòa Séc, Ukraina) và 3 nước Belarus, Nga và
Ukraina. Ba Lan có tổng diện tích 3,127,000 km² với dân số 38,56 triệu, đứng vị trí
thứ 6 trong khối Liên minh châu Âu xét cả về dân số và diện tích. Là một quốc gia
đặc trưng bởi sự đa dạng về môi trường và tự nhiên với 23 vườn quốc gia, chiếm
gần 314,77 ha và 1481 khu bảo tồn thiên nhiên chiếm tổng cộng 165,77 ha, 122
công viên cảnh quan chiếm diện tích gần 2606 nghìn ha, và 36.4 nghìn di tích tự
nhiên. Tỷ lệ rừng trong tổng diện tích đất của cả nước lớn hơn 30%. Hơn 75% diện
tích lãnh thổ Ba Lan nằm thấp hơn mực nước biển[117] .
3.1.1.2. Điều kiện khí hậu
Khí hậu Ba Lan có sự biến động đáng kể về độ dài của từng mùa riêng lẻ.
Nhiệt độ không khí trung bình trong giai đoạn 2010- 2018 dao động từ 7.5°C đến
9.6°C và lượng mưa có sự giao động lớn từ 576 mm đến 830 mm. Nhiệt độ trong
năm ở Ba Lan lớn nhất vào tháng 7 và thấp nhất vào các tháng 11 và 12. Nguồn tài
nguyên ở Ba Lan được đánh giá là nghèo khi mà lượng nước cung cấp trung bình
mỗi năm chỉ đạt 1.200 m3 trên mỗi người dân, rất thấp khi so với con số trung bình
4.600 m3 của các nước Châu Âu. [117]
3.1.1.3. Khu vực nông thôn
Ba Lan chia thành 16 khu vực (voivodeships or regions) 314 quận huyện và
các huyện và 2479 xã. Khu vực nông thôn Ba Lan chia thành các khu vực nông
thôn hẻo lánh, khu vực giáp ranh đô thị. Theo tiêu chí phân loại khu vực nông thôn
và đô thị của OECD thì đến 31/12/2015, 63% xã của Ba Lan là khu vực nông thôn
và 25% là khu vực hỗn hợp, khu vực đô thị chỉ chiếm 12%.[127 ]
Trong quá trình hội nhập sâu rộng với EU, các tiêu chí phân loại khu vực
60
nông thôn Ba Lan tương đồng với các quốc gia trong khu vực. Theo đó, có 03 hình
thức khu vực chủ yếu là: (1) vùng thuần nông (predominantly rural (PR); (2) vùng
trung gian (intermediate (IN) và (3) đô thị (predominantly urban (PU) [108]. Ngoài
ra, trong báo cáo đánh giá chương trình phát triển nông thôn Ba Lan, các vùng nông
thôn còn được chia theo vùng nông nghiệp truyền thống, vùng nông nghiệp quy mô
lớn, vùng phi nông nghiệp[79].
Khu vực nông thôn Ba Lan với diện tích 291.4 nghìn Km2, chiếm đến 93%
diện tích lãnh thổ với hơn 40% dân số. Mật độ dân số ở Ba Lan cũng khá cao với 83
người/km2 so với mức bình quân trung nhóm OECD là 11 người/km2, khu vực
trung gian là 581 người/km2. Cơ cấu nhân khẩu phân theo khu vực nông thôn với
15% khu vực có số dân nhỏ hơn 100 người, 66% khu vực có số dân 100- 500 người,
13% khu vực có dân số từ 500-1000 người và chỉ 6% khu vực nông thôn có số dân
lớn hơn 1000 người. [124]
3.1.2. Điều kiện kinh tế- xã hội .
3.1.2.1. Tình trạng dân số
Sự biến động dân số Ba Lan là không nhiều, trong khi năm 2000 dân số Ba
Lan ở mức 38.250 nghìn, thì năm 2018, dân số Ba Lan cũng mới chỉ đạt 38,41 triệu
người, tương ứng với biên độ tăng giảm giữa các năm trung bình 0,2%/ năm. Cơ
cấu dân số được phân bổ với khu vực thành phố là 23,06 triệu người và khu vực
nông thôn là 15,35 triệu người ( Bảng 3.1).
Trong khi hầu hết các nước trong Liên minh châu Âu có sự dịch chuyển lao
động từ nông thôn ra thành phố, thì ngược lại dân số khu vực nông thôn Ba Lan lại
ngày một tăng. Số liệu bảng 3.1 cũng cho thấy, nếu như năm 2000, số người di cư
ra thành phố 99 nghìn, trong khi đó số người từ thành phố đổ về khu nông thôn
103,2 nghìn người, thì gần đây năm 2018, con số thống kê cho thấy tỷ lệ này tương
ứng với 98.6 nghìn người từ nông thôn ra và 127.5 nghìn từ đô thị về nông thôn.
Tại khu vực nông thôn, dân số khu vực nông thôn Ba Lan tăng 547 nghìn
người trong năm 2018 so với năm 2000, tương ứng dân số khu vực đô thị Ba Lan
giảm 603 nghìn[79]. Tuy nhiên, trong một vài năm gần đây, mức tăng dân số không
61
có gì khác biệt, cụ thể, so với năm 2016 thì năm 2018 mức tăng dân số khu vực
nông thôn không có sự khác biệt đáng kể với mức tăng chỉ là 40 người ( CSO,
2019).
Sự gia tăng này được giải thích bởi hai nguyên nhân chính là: (1) Có sự gia
tăng tự nhiên về tỷ lệ sinh và (2) lượng di cư ra khu vực thành phố nhỏ hơn lượng
nhập cư vào vùng nông thôn, (3) tình trạng thất nghiệp tại các khu vực thành phố;
(4) khoảng cách đi lại từ khu vực nông thôn ra thành thị thuận lợi; (5) điều kiện
sống khu vực nông thôn ngày được cải thiện [64]. Một số vùng của Ba lan có mức
dân số nông thôn tăng cao như Dolnosakie (0,8%) Pomoskile (2%) Wielkopókie (
1,5%), trong khi đó, mức giảm xuất hiện ở một số khu vực như Lubeskie (-0,5%)
Podalskie (-0,9%)[66].
Bảng 3.1 : Dân số Ba Lan theo khu vực giai đoạn 2000- 2018
Nội dung Đơn vị 2000 2014 2016 2018
Tổng dân số Nam Nữ Mật độ dân số 38.254 18.537,4 19.716,6 122 38.478,6 18.619,8 19.858,8 123 38.433 18.593,2 19.839,8 123 38.411.1 18.581,9 19.829,3 123
Tỷ lệ nữ 106,4 106,7 106,7 106,7
Nghìn Nghìn Nghìn 1 km2 tỷ lệ nữ / nam giới Nghìn 23.067.3 23.216,4 23.129,5 23.067.2
Nghìn 15.186,7 15.262 15.304 15.343,9
Nghìn 99 93.8 92.2 98.6
Nghìn 103,2 139,7 127,6 127,5
Dân số khu vực đô thị Dân số khu vực nông thôn Dân số di cư từ nông thôn ra thành phố Từ nông thôn ra thành phố Từ thành phố về nông thôn Di cư dòng Nghìn -4.2 -46 -35.4 -28.9
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên các số lệu từ Agnieszka Baer-Nawrocka et al
(2016) Rural Poland 2016 [63]; FDPA (2018) Rural Poland 2018[88]; CSO (2019)
62
Population statistics [80]
Cũng như nhiều quốc gia khác, phân bổ dân số khu vực nông thôn không
đồng đều giữa các vùng miền, điển hình khu vực Podkarpackie dân số khu vực nông
thôn chiếm đến 58% thì vùng Dolnośląskie chỉ chiếm 30,1% (CSO (2019) [80]
Dự báo nhân khẩu học cho thấy số dân cư nông thôn sẽ tăng nhẹ lên mức
15,6 triệu người (tức là hơn 2% so với năm 2016) cho đến năm 2030, sau đó sẽ
giảm dần và năm 2050 đạt mức tương đương với năm 2016[63]. Theo ước tính vào
năm 2050 dân số Ba Lan sẽ giảm từ 38,4 triệu xuống 33,9 triệu dân. Mức giảm này
lớn hơn mức bình quân trung của EU là 3% nhưng lại thấp hơn một số các nước
Đông Âu khác như Bulgaria and Ukraine[88]. Đây được xem là một trong những
thách thức chung ở hầu hết các nước khu vực châu Âu về tình trạng già hóa dân số
và tỷ lệ sinh giảm, sẽ làm gia tăng nguồn ngân sách cho vấn đề an sinh xã hội, thiếu
hụt nguồn cung về lao động ở cả khu vực thành phố và nông thôn.
3.1.2.2.Tình hình lao động khu vực nông thôn
Tỷ lệ việc làm là một chỉ tiêu quan trọng đo lường sự biến động về lao động
trong nền kinh tế quốc dân. Theo số liệu bảng 3.2 cho thấy tỷ lệ lao động có việc
làm tại Ba Lan trong những thập niên đầu thế kỷ 21 đã có sự cải thiện đáng kể với
mức tăng từ 14,1 triệu năm 2004 lên 14,5 triệu năm 2014, và tăng lên là 15,9 triệu
lao động năm 2018.
Trong khu vực nông thôn, xu hướng biến động việc làm đối nhóm lao động
có độ tuổi từ 15 – 24 tuổi cũng đã tăng từ 50.4 lên 50.9 % trong giai đoạn 2014-
2018 ( khu vực thành phố có tỷ lệ tăng tương ứng là 51,4-52,9%). Tỷ lệ có việc làm
theo của nhóm lao động nhiều tuổi ( nam 55-64, nữ 55-59) cũng có tỷ lệ tăng khá
cao ở khu vực nông thôn với mức tăng 49,4-54%, còn đối với nhóm lao động trẻ
(18-24 ) thì tỷ lệ này tăng nhẹ hơn ở mức 36-37%. [88]
Tình trạng già hóa dân số ở Ba Lan gia tăng mạnh với tỷ lệ nhóm dân số có
độ tuổi từ 60/65 tuổi trở lên đã tăng từ 15,3% năm 2004 lên 16,8% năm 2010 và
21,4% năm 2018. Trong khi đó, nhóm lao động có độ tuổi từ 18-60 tuổi lại giảm
63
63,5% năm 2010 xuống 60,6% năm 2018. [78]
Mức độ già hóa dân số xuất hiện không chỉ ở Ba Lan, mà đây được xem là
xu hướng nổi cộm ở hầu hết các nước trong khối EU, đang đặt ra những thách thức
không nhỏ trong việc triển khai các chương trình phát triển kinh tế nông thôn.
Tỷ lệ thất nghiệp: Gia nhập vào ngôi nhà chung châu Âu cũng đồng nghĩa Ba
Lan được hưởng các nguồn lực tài chính từ các Quỹ cơ cấu, Quỹ phát triển vùng
thông qua Chính sách phát triển nông thôn của EU với mục tiêu cải thiện điều kiện
sống, cơ sở hạ tầng… khu vực nông thôn. Trong ngân sách mà Ba Lan nhận được
hàng năm, thì một phần lớn ngân sách được sử dụng cho các chương trình đào tạo
nghề tập trung vào các đối tượng là các lao động trẻ, chủ các trang trại sản xuất
nông nghiệp. Mục tiêu của các chương trình này chính là nhằm thúc đẩy khả năng
chuyển dịch lao động trong khu vực nông thôn từ sản xuất nông nghiệp sang phi
nông nghiệp.
Kết quả của các chương trình đào tạo, hỗ trợ lao động nông thôn chuyển đổi
tay nghề trong giai đoạn 2004- 2018 đã tạo ra sự chuyển hướng tích cực về việc
giảm tỷ lệ thất nghiệp trong khu vực nông thôn. Theo số liệu bảng 3.2 cho thấy tỷ lệ
thất nghiệp khu vực nông thôn đã giảm đáng kể từ mức 17,6% năm 2004 xuống
8,5% năm 2014 và hiện nay, tỷ lệ này chỉ còn 4,2% năm 2018.
Thị trường lao động khu vực nông thôn Ba Lan trong những năm chuyển đổi
có sự thay đổi khác nhau. Đối với các khu vực nông thôn nằm ở phía Bắc và phía
Tây như vùng (Warmińsko-Mazurskie, Zachodniopomorskie, Pomorskie và
Lubuskie) bị chi phối bởi các trang trại nhà nước, chính vì vậy, trong những giai
đoạn Ba Lan có những điều chỉnh về chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn,
cổ phần hóa các trang trại, thì tỷ lệ thất nghiệp ở các khu vực này cao hơn rất nhiều
khu vực khác.
Trong khi các quốc gia khác đang phải vật lộn nhằm giảm tỷ lệ thất nghiệp,
thì đây được xem là những thành công lớn mà Ba Lan có được so với các thành viên
64
khác trong khối liên minh châu Âu.
Bảng 3.2: Thị trường lao động Ba Lan giai đoạn 2004-2018
2016
Thị trường lao động Đơn vị Nghìn Tổng lao động Số lao động thất nghiệp Nghìn Nghìn Nghin Nam Nữ 2004 14.106.9 1.954.7 939.9 1.014.8 2014 14.563.4 15.293.3 1.335.2 1.825.2 622.9 885.5 712.2 939.6 2018 15.950 968.9 426.3 542.6
Tỷ lệ lao động thất nghiệp
Nam Nữ % % % 13.8 6.6 7.2 12.5 6.1 6.4 8.7 4.1 4.6 6.1 2.6 3.4
% 12.4 23.6 22.0 15.9
% 5.9 2.8 7.3 3.9
% 17,6 8.5 6.1
Lao động có độ tuổi 15- 24 Lao động có độ tuổi lớn hơn 50 Tỷ lệ lao động thất nghiệp khu vực nông thôn 4.2 Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên các số lệu từ Agnieszka Baer-Nawrocka et al
(2016) Rural Poland 2016 [63]; FDPA (2018) Rural Poland 2018[88]; CSO (2019)
Population statistics [80]
Mặc dù có sự cải thiện đáng kể về thất nghiệp khu vực nông thôn, song theo
đánh giá của tổ chức OECD, thì thất nghiệp của Ba Lan trong thời gian qua bị ảnh
hưởng bởi các nhân tố:
(1) Sự di cư lao động khu vực đô thị và khu vực trung gian vào khu vực nông
thôn tăng; (2) tỷ lệ nhập cư lao động quốc tế không có tay nghề ngày càng tăng; (3)
lao động nông thôn Ba Lan chưa chuyển đổi được tay nghề, đáp ứng được yêu cầu
của lĩnh vực phi nông nghiệp; (4) Mức lương thấp dẫn đến một số lớn lao động
nông thôn thờ ơ trong việc tìm kiếm việc; và (5) quá trình cổ phần hóa các trang trại
65
nhà nước diễn ra mạnh ( OECD, 2018) [125].
Bảng 3.3: Tỷ lệ việc làm phân theo trình độ học vấn
Mức độ giáo dục
Giáo dục cơ sở Năm Tổng
Nghề cơ bản Đào tạo bậc thấp Tổng Giáo dục bậc cao Đào tạo nghề Đào tạo chung
Khu vực đô thị
2010 2014 2018 50.1 51.3 52.9 75.1 76 77.3 55.8 55.6 66.8 40.5 41.7 43.1 47 47.2 47.9 11.1 11.2 11.6
50.7 51.1 56 Khu vực nông thôn
2010 2014 2018 50.3 50.9 52.6 61.6 61.8 62.7 67.4 66.8 66.8 46.2 47.8 43.1 62.4 61.1 47.9 76.5 78.2 79.4
19.1 17.1 11.6 Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên các số lệu từ Agnieszka Baer-Nawrocka et al
(2016) Rural Poland 2016 [63]; FDPA (2018) Rural Poland 2018[88]; CSO (2019)
Population statistics [80]
Theo số liệu bảng 3.3 ở trên cho thấy cả khu vực thành thị và nông thôn thì
lao động có trình độ bậc cao đều chiếm tỷ trọng cao hơn so với lao động phổ thông
hay lao động có trình độ tay nghề thấp. Đối với khu vực thành phố, tỷ lệ việc làm
tăng từ 50.1% năm 2010 lên 52.9 năm 2018, đối với khu vực nông thôn, tỷ lệ cũng
tăng ở mức tương tự, song tỷ lệ việc làm ở nhóm lao động bậc cao có mức tăng
trưởng ấn tượng hơn từ 76.5 năm 2010 lên mức 79.4 năm 2018.
Bên cạnh đó, tỷ lệ việc làm của lao động được đào tạo từ nghề cơ bản, bậc
thấp đến bậc cao giữa các vùng, khu vực của Ba Lan không có sự khác biệt lớn với
mức chênh lệch năm 2018 từ mức 47,8% vùng Zacodniopomoskie đến 54,9% vùng
Donolaskie.
Xu hướng dịch chuyển lao động khu vực nông thôn Ba Lan: Lao động nhập
cư quốc tế vào khu vực nông thôn Ba Lan trong những năm qua tăng từ 38.500 năm
2006 lên 86.000 năm 2018 ( OECD, 2017), chủ yếu là những lao động không có tay
nghề đến từ Ukraina. Đặc biệt cuộc khủng hoảng về chính trị vừa qua tại Ukraina
vừa qua cũng dẫn đến làn sóng di cư ngày càng lớn đến Ba Lan.
Sự gia tăng lao động nhập cư một mặt tạo ra hiệu ứng tích cực trong việc lấp
66
những khoảng trống thiêu hụt lao động tại khu vực nông thôn do tình trạng già hóa
dân số, hay sự thờ ơ tìm kiếm việc làm với mức lương thấp ở đa số lao động Ba
Lan. Tuy nhiên, áp lực giải quyết tình trạng thất nghiệp cao khu vực nông thôn buộc
Ba Lan phải có những đối sách điều chỉnh trong chiến lược phát tiển kinh tế nông
thôn.
Trong khi các quốc gia khác trong khu vực phải giải quyết bài toán về dịch
chuyển lao động từ nông thôn ra thành phố, thì ở Ba Lan lại có sự di cư ngược, tức
là từ khu vực đô thị về khu vực nông thôn tăng cao qua các năm.
Sự di cư ngược từ thành phố về nông thôn trong thời gian qua cũng chứng
minh những thành công trong phát triển kinh tế Ba Lan, hay khu vực nông thôn ở
Ba Lan đã có những thay đổi hết sức mạnh mẽ. Điều này được thấy rõ hơn khi mà
mức thu nhập bình quân người dân nông thôn đang dần được cải thiện với 82% mức
bình quân chung của cả nước cũng như là cơ hội tìm kiếm việc làm dễ hơn, thời
gian di chuyển từ khu nông thôn ra đô thị nhanh bởi sự phát triển cơ sở hạ tầng[78].
Tóm lại, trong bối cảnh dự báo nhân khẩu học của Ba Lan có xu hướng
giảm, tình trạng già hóa có dấu hiệu gia tăng, đây được xem là những thách thức đặt
ra mà Ba Lan phải tính đến trong các chương trình phát triển nông thôn. Bên cạnh
đó, sự cải thiện khu vực nông thôn về cơ sở hạ tầng, cơ hội có được việc làm đã tạo
ra xu hướng dịch chuyển ngày càng tăng lao động từ khu vực đô thị về nông thôn,
đây được xem là những thành công qua các chương trình phát triển nông thôn sau
khi Ba Lan trở thành thành viên chính thức của Liên minh châu Âu.
3.2. Phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan trong những thập niên đầu thế kỷ
XXI
3.2.1 Một số nét chính về kinh tế nông thôn Ba Lan
Phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng bền vững luôn là mục tiêu
được ưu tiên hàng đầu trong các chiến lược phát triển của Ba Lan. Cũng như nhiều
nước thành viên EU, chính sách phát triển nông thôn của Ba Lan tập trung vào
“chính sách hẹp” đó là việc thiết lập các chương trình phát triển nông thôn quốc gia
theo từng giai đoạn (chương trình giai đoạn 2004-2006; 2007-2013; 2014-2020) kết
hợp với các chiến lược phát triển khu vực (chương trình mục tiêu khu vực phía
67
đông) nhằm tập trung giải quyết vào các mục tiêu cụ thể như: (1) Cải thiện khả năng
cạnh tranh của lĩnh vực sản xuất nông nghiệp; (2) Đào tạo và phát triển nguồn nhân
lực nông thôn; (3) Hiện đại hóa cơ sở hạ tầng nông thôn; (4) Đa dạng hóa kinh tế
nông thôn…
3.2.1.1. Giai đoạn chuyển đổi 1993-2004
Trong giai đoạn này, để đáp ứng các tiêu chuẩn gia nhập Liên minh châu Âu,
Ba Lan đã thực thi chuyển đổi từ kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường, chủ động
hội nhập EU. Trong lĩnh vực phát triển nông nghiệp, nông thôn, chủ trương thúc
đẩy quá trình tự do hóa thương mại, cổ phần hóa các trang trại sản xuất nông nghiệp
thúc đẩy quá trình đa dạng hóa kinh tế nông thôn, Ba Lan đã có những điều chỉnh
mạnh “Chính sách phát triển nông thôn”. Theo đó, ngay từ những năm đầu thực
hiện công cuộc đổi mới của đất nước, từ trọng tâm ban đầu tập trung cho sản xuất
nông nghiệp là chính, chính sách phát triển nông thôn đã chuyển dần sang công
nhận sự đa dạng hóa kinh tế, văn hóa và môi trường khu vực nông thôn (OECD,
2016) [123].
Cũng như nhiều nước liên minh châu Âu, Ba Lan thực thi chính sách nông
thôn hẹp (narrow rural policy) với các chương trình phát triển nông thôn theo từng
giai đoạn, được bổ trợ với các chính sách rộng (broader policies) chẳng hạn như:
Các chiến lược phát triển khu vực và quốc gia, các chương trình hoạt động (Chương
trình mục tiêu khu vực phía đông Ba Lan có tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, có sự
phân tán và tỷ lệ nghèo cao hơn) [86]. Bên cạnh đó, hàng loạt các chính sách khác
cũng được điều chỉnh như: Chính sách thương mại, tự do hóa giá cả, tài chính nông
thôn, chính sách đất đai, tư nhân hóa... Những chính sách này được thực thi cùng
với sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước:
Cơ quan tiếp thị nông nghiệp (ARR) có trách nhiệm ổn định thị trường nông
sản, thực phẩm và bảo vệ thu nhập của nông dân; và việc mua lại, quản lý, xử lý và
dự trữ lương thực cho đất nước.
Cơ quan Tái thiết và hiện đại hóa nông nghiệp (ARMA), thúc đẩy phát triển
nông thôn bằng cách cung cấp hỗ trợ tài chính để đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn,
các tổ chức nông thôn, tạo việc làm và đào tạo; cung cấp vốn và đầu tư làm việc cho
68
trang trại, nông nghiệp chế biến và dịch vụ nông nghiệp;
Cơ quan quản lý tài sản nông nghiệp (APA) có trách nhiệm quản lý tài sản
nông nghiệp từ nhà nước sang khu vực tư nhân;
Quỹ an sinh xã hội nông dân (KRUS) cung cấp bảo hiểm xã hội theo hình
thức như nghỉ hưu, trợ cấp hưu trí, khuyết tật và tai nạn, bệnh tật và bảo hiểm thai
sản cho người dân nông thôn.
Về các cải cách tập trung vào những chính sách chính:
- Chính sách thương mại hàng nông sản: Nhằm hướng về quản lý nhập khẩu
nhiều hơn nhằm bảo hộ thị trường trong nước, bảo vệ người nông dân Ba Lan và
mặt khác để thúc đẩy xuất khẩu. Ngoài ra, do khủng hoảng những năm đầu chuyển
đổi làm cho sản xuất đình trệ, lĩnh vực nông nghiệp Ba Lan đã chuyển từ một nước
xuất khẩu ròng trước khi cải cách sang một nước nhập khẩu ròng. Sau việc cắt giảm
các hàng rào trong quá trình cải cách, bảo hộ nhập khẩu đối với nông nghiệp sau đó
đã được phục hồi vào năm 1991. Các chính sách thương mại nông sản của Ba Lan
cũng phải tuân thủ theo các quy định thành viên của WTO và các hiệp định thương
mại song phương với Liên minh Châu Âu.
Chính sách giá cả: Nhằm đáp ứng các yêu cầu về tự do hóa giá cả, xóa bỏ
bao cấp trong nền kinh tế, hướng đến xác định giá cả sản phẩm do thị trường quyết
định, Ba Lan đã có những điều chỉnh về mặt chính sách về giá nhắm ổn định thị
trường hàng nông sản cngx như hỗ trợ thu nhập cho người nông dân. Cơ quan tiếp
thị nông nghiệp (ARR) chịu trách nhiệm quản lý nhằm bình ổn giá cả theo biến
động của thị trường bằng cách mua tích trữ hàng hóa nhiều hơn với giá thấp (thấp
hơn giá tối thiểu), và sau đó bán ra nhiều hơn khi giá cao hơn (cao hơn mức giá tối
đa). Biến động giá trong khu vực cũng được giảm thiểu bằng cách làm cho giá ở
mức tối thiểu, tối đa và can thiệp trực tiếp tới từng khu vực. Để cho mức giá cả luôn
ổn định, ARR cũng có quyền nhập khẩu hoặc xuất khẩu hàng hóa có liên quan trong
trường hợp giá vượt quá định mức theo mùa vụ do tác động từ sự biến đổi trên thị
trường thế giới. Mức độ và hệ thống can thiệp thay đổi theo hàng hóa và theo vụ
mùa. Nhìn chung chính sách này khá giống với trợ giá trong chính sách nông
69
nghiệp chung của EU giai đoạn đầu.
- Chính sách tài chính nông thôn: Can thiệp vào thị trường tài chính được
thực hiện thông qua việc sử dụng tín dụng ưu đãi (ví dụ, hỗ trợ lãi suất) và bảo lãnh
vốn vay và là hình thứ chủ yếu của chính phủ hỗ trợ cho khu vực nông thôn. Hỗ trợ
này được dành cho các ngân hàng hợp tác và thương mại thông qua các ARMA (Cơ
quan tái thiết và hiện đại hóa nông nghiệp), các ARR và APA (Cơ quan quản lý tài
sản nông nghiệp). Bảo lãnh vay vốn và bảo lãnh các cơ sở được cung cấp bởi
ARMA, ARR và APA, mặc dù các nghĩa vụ bảo lãnh tín dụng bắt buộc thường nhỏ
so với tổng số tiền tín dụng nông nghiệp còn nợ. Chương trình hỗ trợ lớn nhất được
thực hiện bởi ARR gắn với các hoạt động bình ổn giá, trong đó bảo lãnh tín dụng
được mở rộng cho các doanh nghiệp tham gia vào việc mua sản phẩm và cho nhập
khẩu lương thực và các mặt hàng nông nghiệp thiết yếu.
- Chính sách tư nhân hóa trong nông nghiệp: nhằm mục đích tái cơ cấu và
hiện đại hóa hướng tới mô hình "trang trại hữu hiệu và các công ty có khả năng
cạnh tranh trên thị trường quốc tế và trong nước". Tư nhân hóa đất đai bắt đầu vào
tháng 01 năm 1992 và được thực thị bởi APA. Cơ quan này có trách nhiệm quản lý,
tái cơ cấu và tư nhân hóa các tài sản và nợ tích lũy của 1667 nông trường quốc
doanh trước đây và tổng diện tích đất lên đến 4.480.000 ha. Khu vực tư nhân chiếm
ưu thế về sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là do di sản của các trang trại tư nhân với
quy mô nhỏ chiếm 75% quyền sở hữu đất đai và 80% sản xuất từ trước khi bắt đầu
cải cách kinh tế thị trường ở Ba Lan.
Tóm lại, cho đến trước khi gia nhập EU năm 2004, các chính sách trong phát
triển nông nghiệp nông thôn của Ba Lan đã có những điều chỉnh theo quy định của
khu vực, nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn hội nhập cũng như mục tiêu chung về phát
triển khu vực nông thôn. Trọng tâm điều chỉnh của các chính sách nhằm đến việc
cải cách mạnh mẽ nền kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường bằng các hình thức
thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tư nhân hóa ruộng đất, xóa bỏ trợ cấp đầu vào và tự do
giá cả hàng hóa nông sản, thực thi các chính sách thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ
70
cấu kinh tế nông thôn, đa dạng hóa các hoạt động sản xuất trong khu vực nông thôn.
3.2.1.2. Giai đoạn hội nhập EU từ 2004 đến nay
Ngày 1/5/2004 Ba Lan đã chính thức trở thành thành viên Liên minh Châu
Âu, điều này cũng đồng nghĩa Ba Lan đã đáp ứng những yêu cầu cao của EU như
(1) Ổn định thể chế, đảm bảo dân chủ, tuân thủ pháp luật, quyền con người, tôn
trọng và bảo vệ các nhóm thiểu số; (2) Hình thành một nền kinh tế vận hành theo cơ
chế thị trường, có thể chịu được áp lực cạnh tranh trong Liên minh; và (3) Có khả
năng thực hiện các nghĩa vụ của các nước thành viên, tuân thủ các mục tiêu của
Liên minh trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế và tiền tệ, thực thi các luật pháp hay
các tiêu chuẩn (acquis) của Cộng đồng[65].
Giai đoạn sau khi gia nhập từ năm 2004 đến nay là giai đoạn Ba Lan thực
hiện chiến lược “bắt kịp” tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, hội nhập
toàn diện vào Liên minh Châu Âu, tăng trưởng nhanh và bền vững, thu hẹp khoảng
cách thu nhập đầu người với mức bình quân của EU. Đồng thời, Ba Lan vẫn phải
tiếp tục thực hiện những chương trình đáp ứng các yêu cầu chung về đầu tư cho
phát triển hạ tầng giao thông, viễn thông, ngân hàng tài chính, thực hiện hàng loạt
các cải cách nhằm hội nhập toàn diện vào EU trong đó có lĩnh vực nông nghiệp và
nông thôn. Chương trình phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan trong giai đoạn này
tập trung giải quyết một số thách thức:
Thứ nhất, Ba Lan phải "chuyển đổi" mô hình tăng trưởng cho phát triển bền
vững, đáp ứng các tiêu chí gia nhập của EU. Các chính sách phát triển kinh tế nông
thôn Ba Lan như chính sách hỗ trợ thu nhập cho người nông dân, chính sách phát
triển thị trường nông sản, chính sách đất đai… chịu sự chi phối bởi chính sách khu
vực
Thứ hai, gia nhập ngôi nhà chung châu Âu cũng đồng nghĩa Ba cũng ứng
phó với những thách thức tiêu cực từ tình trạng già hóa dân số, sự thiếu hụt nguồn
lực lao động có tay nghề, trình độ cao do sự di cư từ Ba Lan sang các nước Tây Âu
có mức thu nhập hấp dẫn hơn, hay phải giải quyết tình trạng nhập cư lao động phổ
71
thông từ các nước lân cận như Ukraina[65]..
Thứ ba, những cam kết ngày càng cao của EU với vấn đề biến đổi khí hậu
đang đặt ra những thách thức không nhỏ cho các nước thành viên mới trong việc
thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế nói chung và kinh tế nông thôn nói riêng.
3.2.1.3.Sự chuyển dịch kinh tế nông thôn Ba Lan.
Tác động về mặt điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô nói chung và chính
sách phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng đã tạo ra sự tăng trưởng thần kỳ
đối với khu vực nông thôn Ba Lan, cụ thể:
Thứ nhất, tăng trưởng GDP khu vực nông thôn cao nhất trong khối các nước
OECD, đặc biệt mức tăng trưởng này được ghi nhận khi Ba Lan chính thức trở
thành thành viên Liên minh châu Âu
Trong cả giai đoạn 2000-2018 tăng trưởng GDP khu vực nông thôn đã tăng
60% với giá trị đạt được là 92.841 triệu Euro [88]. Đây được coi là điểm sáng nhất
mà Ba Lan đạt được so với toàn bộ các nước trong khối OECD. Đặc biệt trong giai
đoạn 2004-2007, tăng trưởng khu vực nông thôn Ba Lan ghi nhận được với mức
tăng 5% cao hơn rất nhiều so với giai đoạn trươc đó 2000-2003 là 2,17% và cao hơn
mức trung bình của cả giai đoạn từ 2000-2014 là 3,3%. (OECD, 2018) [124].
Thứ hai, tỷ lệ đóng góp GDP khu vực nông thôn Ba Lan thay đổi theo từng
giai đoạn, mức đóng góp chiếm tỷ trọng cao so với các khu vực đô thị và khu vực
trung gian
So với khu vực trung gian và khu vực đô thị, thì giá trị đóng góp của khu vực
nông thôn vào GDP quốc gia đã có sự thay đổi đáng kể trong cả giai đoạn từ 2000-
2018. Trong những năm đầu thập niên, tỷ lệ này là 26,3% vào năm 2000, giảm
xuống 25,5% năm 2009 (năm mà Ba Lan cũng gặp khó khăn với khủng hoảng tài
chính toàn cầu) và có mức tăng cao hơn vào những năm gần đây với xấp xỉ
30%[88].
Thứ ba, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn cao và có sự khác
biệt giữa các khu vực
Tăng trưởng GDP khu vực nông thôn cao, tạo ra thu nhập bình quân đầu
người khu vực nông thôn Ba Lan tăng đáng kể từ mức 10.556 USD năm 2000 lên
72
17.035 USD 2018[88]. Tuy nhiên, tăng trưởng GDP giữa các khu vực khác nhau
dẫn đến thu nhập bình quân đầu người khác nhau. Năm 2000 bình quân đầu người
khu vực Warszawa là 39.584 USD gấp 4.6 lần so với khu vực Krakowski. Năm
2018 khu vực này đã đạt USD 63.537 so với 12.686 của vùng Przemyski[88]. Tỷ lệ
thu nhập bình quân đầu người một sô khu vực nông thôn Ba Lan đã tiệm cận với
mức bình quân chung của quốc gia như vùng Leszczyńsk với tỷ lệ 98,06% năm
2018, khu vực Kaliski với 95,08%.
Nhìn nhận những tăng trưởng khu vực nông thôn Ba Lan qua hai giai đoạn
cơ bản năm 2000 ( Năm trước khi Ba Lan trở thành thành viên và năm 2014, năm
Ba Lan hoàn thiện chương trình phát triển kinh tế nông thôn giai đoạn 2007-2013)
cho thấy thu nhập bình quân đầu người nhiều khu vực đã có những tăng trưởng
mạnh. Cụ thể khu vực Rzeszowsk đã có mức tăng trưởng GDP đạt 4,41%, khu vực
Płocki có mức tăng đạt 5,17%... thậm chí một số khu vực nông thôn Ba Lan đã có
mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn mức bình quân chung của quốc gia như
khu vực Płocki với 163,32%; khu vực Piotrkowski 104,73%[88].
Bảng 3.4: Khu vực nông thôn Ba Lan năm 2018
Dân số ( % tổng GVA ( Việc làm Diện
tích người) dân số triệu
(km2) euro)
Khu vực nông thôn 163.062 13. 294 .294 35,01 92. 841 5. 501. 900
Khu vực trung gian 134. 193 15. 007. 364 39,52 125. 043 6 .070. 400
Khu vực đô thị 15. 424 9. 665. 551 25,45 146. 559 4 .329. 600
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên các số lệu từ Agnieszka Baer-Nawrocka et al
(2016) Rural Poland 2016 [63]; FDPA (2018) Rural Poland 2018[88]; CSO (2019)
Population statistics [80]
Theo số liệu bảng 3.4 cho thấy, khu vực nông thôn chiếm 35,01% dân số
đóng góp vào tăng trưởng tính theo giá trị gia tăng GVA ( Gross Value Added) năm
2018 chiếm 25,47% tương ứng với 92,84 tỷ euro so với khu vực trung gian là 34,31
73
% ( 125,043 triệu euro) và khu vực thành phố là 40,21% ( 146,559 triệu euro).
Tỷ lệ tăng trưởng GDP khu vực nông thôn giai đoạn từ 2000-2018 là 3,3%
thấp nhất so với khu vực trung gian (3,6%) khu vực thành phố 3,5%. Tuy nhiên,
khu vực này lại ghi nhận tỷ lệ tăng trưởng bình quân nhanh nhất trong thời kỳ
khủng hoảng tài chính khu vực EU (giai đoạn 2011- 2014). Điều này cũng cho thấy,
các chương trình phát triển kinh tế nông thôn của Ba Lan đã tạo ra sự chuyển hướng
tích cực, tạo ra những tiềm năng tăng trưởng trong tương lại.
Thứ tư, tăng trưởng khu vực nông thôn tạo ra tỷ lệ thất nghiệp giảm ở khu
vực nông thôn
So sánh về tỷ trọng việc làm được tạo ra cũng cho thấy khu vực nông thôn
đang ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong việc thu hút lao động cả khu vực
trung gian và khu vực thành phố. Số liệu mới nhất năm 2018 ở bảng 3.5 thì khu vực
này đã thu hút được 5.501.900 việc làm so với 4.329.600 việc làm ở khu vực đô thị.
Thứ năm, năng suất lao động khu vực nông thôn tăng và dần bắt kịp với mức
bình quân chung của quốc gia
Chỉ số này được tính toán theo GDP/ lao động đối với từng khu vực. Tại khu
vực nông thôn, trong thời gian qua, năng suất lao động ở Ba Lan đã sự thay đổi
đáng kể. Mức năng suất được ghi nhận sự hội tụ ngang với mức bình quân chung
quốc gia từ mức 81% năm 2000 lên 87% năm 2014 [124].
Mức độ cải thiện về năng suất lao động ở Ba Lan trong thời gian qua không
chỉ được ghi nhận ở những khu vực nông thôn phát triển, mà được mở rộng ở hầu
hết các khu vực nông thôn khác. Đây cũng được coi là điểm sáng, những thành
công mà Ba Lan đạt được trong việc thực thi các chính sách và chương trình phát
triển kinh tế nông thôn.
Cũng như nhiều quốc gia khac, Ba Lan cũng đang phải đối mặt với “ nghịch
lý nông thôn- rural paradox) tức năng suất lao động tăng thì tỷ lệ việc làm giảm hay
thị trường lao động không được mở rộng. Đây cũng là một thách thức mà Ba Lan
phải giải quyết trong chính sách phát triển kinh tế nông thôn bền vững những năm
tới.
Thứ sáu, cơ cấu kinh tế nông thôn Ba Lan bao gồm hai hợp phần cơ bản là
74
sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp
Cơ cấu kinh tế nông thôn Ba Lan bao gồm hai hợp phần hoạt động song song
là nông nghiệp (hoạt động sơ cấp- Primary activities) và phi nông nghiệp ( hoạt
động thứ cấp – Secondary activities). Các hoạt động sản xuất nông nghiệp được
nhìn nhận là các hoạt động của các trang trại trong khu vực nông thôn. So với các
quốc gia thành viên khác, thì hoạt động nông nghiệp của Ba Lan hiện vẫn chiếm tỷ
trọng lớn trong nền kinh tế nông thôn, đây cũng là khu vực thâm dụng lao động với
1.866.450 lao động nông nghiệp, tương ứng với 11%, cao hơn mức bình quân
chung của EU là 5% năm 2015[124].
Các hoạt động phi nông nghiệp trong khu vực nông thôn được biểu hiện và
thống kê qua các loại hình chủ yếu là: Hoạt động sản xuất, kinh doanh, xây dựng,
dịch vụ và du lịch nông thôn của các doanh nghiệp và các trang trại chuyển đổi.
Bức tranh đa đạng hóa kinh tế nông thôn của Ba Lan trong thời gian qua được
khẳng định khi mà số lượng các doanh nghiệp, các trang trại xin chuyển đổi mục
đích sang thực hiện các hoạt động kinh doanh, du lịch có sự tăng trưởng mạnh.
Tuy nhiên, một điểm yếu còn tồn tại, đang được coi là những thách thức mà
Ba Lan phải giải quyết chính là sự kết nối giữa các hoạt động sản xuất nông nghiệp
và phi nông nghiệp. Thực tiễn chứng minh cho thấy, nhiều khu vực nông thôn Ba
Lan vẫn còn duy trì các hoạt động nông nghiệp là chủ yếu, các doanh nghiệp phi
nông nghiệp cũng chưa có sự kết dính với sản xuất nông nghiệp địa phương. Điều
này cũng phản ánh hai phân đoạn thị trường lao động nông thôn riêng biệt là lao
động nông nghiệp và phi nông nghiệp.
Để đưa ra được những nhận xét, đánh giá những thành công và hạn chế và
rút ra bài học trong phát kinh tế Ba Lan, NCS tập trung phân tích sâu các hợp phần
trong cơ cấu kinh tế nông thôn Ba Lan ( Bao gồm: Hoạt động sản xuất nông nghiệp
và phi nông nghiệp) theo từng giai đoạn và theo từng khu vực.
3.2.2. Các biện pháp phát triển kinh tế khu vực nông thôn Ba Lan
3.2.2.1.Thực trạng phát triển sản xuất nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp luôn đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng
cả về kinh tế, chính trị và xã hội khu vực nông thôn. Phân tích về dịch chuyển trong
75
các hoạt động sản xuất nông nghiệp, đóng góp đối với nền kinh tế quốc dân, khả
năng cạnh tranh và tạo việc làm cho lao động khu vực nông thôn, xu hướng dịch
chuyển và các trang trại sản xuất nông nghiệp Ba Lan trong những thập niên đầu thế
kỷ XX mang một số đặc trưng chủ yếu sau:
Tỷ lệ đóng góp sản xuất nông nghiệp ngày càng giảm trong tổng GDP quốc
gia
Cùng với quá trình hội nhập và chuyển dịch cơ cấu, sản xuất nông nghiệp
của Ba Lan đã có sự tăng trưởng và phát triển mạnh nhất trong khối các nước gia
nhập EU. Ba Lan hiện đang trở thành trung tâm cho hoạt động sản xuất nông nghiệp
và chế biến lương thực thực phẩm của cả khu vực EU.
Nhìn nhận về đóng góp giá trị của sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế
quốc dân cho thấy tỷ lệ sản xuất nông nghiệp trong GDP của Ba Lan giảm dần từ
mức 4,5% năm 2004 xuống 3,3% năm 2010, 2,6% năm 2014 xuống 2,3% năm 2015
và 2,4% năm 2016[88]
Giá trị sản lượng nông nghiệp trong những năm gần đây đạt giá trị cao, đưa
Ba Lan trở thành những nước xuất khẩu lớn trong khu vực
Theo số liệu bảng 3.5 cho thấy giá trị sản lượng nông nghiệp năm 2018 đạt
23.206 triệu euro. Trong đó, sản lượng cây trồng đạt 10.377,4 triệu euro, giá trị sản
lượng vật nuôi đạt 12.829 triệu euro. So với năm 2016, tổng sản lượng nông nghiệp
của Ba Lan đã tăng lên 1.031 triệu euro tương ứng với mức tăng 4,65%.
Lĩnh vực thực phẩm là một trong những lĩnh vực phát triển nhanh nhất trong
kinh tế Ba Lan trong giai đoạn vừa qua. Tỷ trọng lĩnh vực này trong nền công
nghiệp trong nước chiếm 24% năm 2011, cao hơn mức trung bình của EU 9%.
Nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm chiếm từ 6-7% GDP của Ba Lan. Trong
giai đoạn 2007-2016, giá trị xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp và thực phẩm của
76
Ba Lan đã tăng từ 38.277 triệu PLN lên 105.781 triệu PLN.
Bảng 3.5: giá trị sản lượng nông nghiệp Ba Lan
Đơn vị : Triệu euro
Giá trị sản lượng 2016 2017 2018
A. Tổng sản lượng cây trồng 10.698,9 11.240,7 10.377,4
3583 3914 3413 Ngũ cốc
1662 1718 1524 Cây công nghiệp
863.9 837.6 841.0 Cây cỏ
2232.7 2562.4 2629.7 Rau và
sản phẩm làm vườn
869.6 856.9 769.9 Khoai tây
1464.1 1309.8 1158.8 Hoa quả
11 476 13 083 12 829 B. Tổng sản lượng vật nuôi
22 175 24 324 23 206 Tổng sản lượng nông nghiệp
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên các số lệu từ Agnieszka Baer-Nawrocka et al
(2016) Rural Poland 2016 [63]; FDPA (2018) Rural Poland 2018[88]; CSO (2019)
Population statistics [80]
Mô hình trang trại trong sản xuất nông nghiệp được phát triển theo hướng
tích tụ ruộng đất
Giai đoạn 1989-2003: Trong giai đoạn này, hình thức sở hữu đất đai nông
nghiệp Ba Lan có sự thay đổi mạnh với sự gia tăng hình thức sở hữu tư nhân và
giảm thiểu sở hữu nhà nước ( Cổ phần hóa các trang trại thuộc sở hữu nhà nước).
Theo số liệu cơ cấu sở hữu đất nông nghiệp năm 2002[104] cho thấy: 77,7% diện
tích đất nông nghiệp thuộc về sở hữu tư nhân, khu vực sở hữu còn lại thuộc Cơ
quan Quản lý tài sản nông nghiệp (APA - Cơ quan này được thành lập theo Luật
Đất đai năm 1991) với 4.723.100 ha, trong đó 3,7 triệu ha thuộc đất các trang trại
nhà nước, 600.000 ha thuộc quỹ đất quốc gia và các quỹ đất khác[130].
Những nhân tố chính tác động đến sự dịch chuyển các hình thức sở hữu đất
đai nông nghiệp Ba Lan trong giai đoạn này là:
Thứ nhất, ngay trong những năm đầu thực hiện chương trình chuyển đổi nền
77
kinh tế, Chính phủ Ba Lan đã sửa đổi và ban hành Luật Đất đai năm 1991. Trong đó
quy định cụ thể về các hình thức mua bán đất nông nghiệp như: Người dân có thể
mua bán đất nông nghiệp và phi nông nghiệp sẽ không bị giới hạn và được coi là
hợp pháp. Điều này cũng có nghĩa người dân Ba Lan có thể mua đất nông nghiệp,
trang trại theo khả năng tài chính của mỗi người;
Thứ hai, hạn chế người nước ngoài mua bán đất nông nghiệp. Trong trường
hợp người nước ngoài muốn mua đất nông nghiệp, họ phải nhận được sự chấp thuận
của Bộ Nội địa với sự thống nhất của Bộ Nông nghiệp Ba Lan. Các giới hạn sự mua
bán đối với người nước ngoài chỉ thực sự được dỡ bỏ trong thời gian chuyển tiếp là
12 năm kể từ khi Ba Lan trở thành thành viên chính thức của EU[102].
Thứ ba, về hình thức sở hữu tư nhân đất trang trại ở Ba Lan cũng mang một
điểm khá đặc thù, chính là thừa kế đất nông nghiệp. Theo nghiên cứu của Lukasz
Jarock [122] về xu hướng dịch chuyển đất thuộc sở hữu tư nhân trong suốt từ những
năm 2000 trở lại đây, các trang trại sản xuất nông nghiệp tư nhân được chuyển dịch
từ đời ông bà cho thế hệ cháu chiếm 84,84%. Nghiên cứu của Marks-Bielska (2013)
cũng cho thấy 80,34% số người được hỏi cho rằng họ sẽ chuyển đất trang trại đang
quản lý cho các thế hệ con và cháu. Số người sẵn sàng bán chỉ chiếm 7,95%, một số
khác mong muốn được mua và mở rộng diện tích đất trang trại của mình[122].
Giai đoạn 2004 đến nay: Quá trình tích tụ, mua bán, sáp nhập các trang trại ở
Ba Lan trở lên sôi động hơn khi Ba Lan chính thức trở thành thành viên EU năm
2004. Điều này có nghĩa là sự dịch chuyển các hình thức sở hữu diễn ra mạnh hơn,
quá trình mua bán, sáp nhập các trang trại nhỏ mạnh mẽ hơn so với giai đoạn trước
đó. Theo số liệu cho thấy năm 2005, sau một năm Ba Lan trở thành thành viên EU,
trong tổng số 2.733.363 trang trại, khu vực tư nhân chiếm 99,9%, tương ứng
2.732.270 trang trại, khu vực nhà nước chỉ chiếm một tỉ trọng rất nhỏ với 1.094
trang trại. Năm 2018, Ba Lan có hơn 1,4 triệu trang trại chiếm 14.7 ha đất nông
nghiệp[65].
Năm 2016, tức sau 12 năm Ba Lan buộc phải dỡ bỏ các quy định hạn chế
người nước ngoài mua đất. Tuy nhiên, nhằm tránh hiện tượng đầu cơ về đất đai, hay
thôn tính của người nước ngoài, chính phủ Ba Lan tiếp tục có những điều chỉnh về
78
Luật Mua bán đất nông nghiệp, trong đó đưa ra các quy định ràng buộc người mua
các trang trại đất đai nông nghiệp phải có trình độ học vấn, cũng như năng lực quản
lý trang trại nhất định mới được được phép mua. Bên cạnh đó, một số các quy định
về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp cũng
được điều chỉnh theo hướng người muốn chuyển đổi phải có đơn xin phép và được
các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Phân tích về những điều chỉnh của luật này, chúng tôi nhận thấy mặc dù các
quy định trên được xem là một trong những rào cản kỹ thuật trong tự do hóa thương
mại đất nông nghiệp, song tác động của Luật sẽ giảm hiện tượng đầu cơ, thôn tính
đất đai, trục lợi buôn bán đất nông nghiệp, trang trại của các thương nhân. Yêu cầu
người mua đất có một trình độ học vấn nhất định cũng sẽ góp phần đảm bảo các
trang trại được mua bán sẽ sử dụng đúng mục đích cho sản xuất nông nghiệp hơn là
việc thu lời từ hoạt động mua bán.
Tích tụ ruộng đất được biểu hiện bởi xu hướng dịch chuyển về quy mô trang
trại cũng như quá trình chuyển đổi mục đích đất nông nghiệp sang phi nông nghiệp
Như vậy, với việc thực thi các đạo luật về chuyển đổi, mua bán đất nông
nghiệp, hạn chế người nước ngoài mua đất, quy mô và cơ cấu trang trại nông nghiệp
tại Ba Lan đã có sự thay đổi, cụ thể:
Thứ nhất, số lượng các trang trại có diện tích nhỏ giảm xuống, thay vào đó
các trang trại có diện tích lớn tăng lên. Số lượng các trang trại diện tích 1-2 ha đã
giảm từ 644 nghìn năm 2000 xuống 637 nghìn trang trại năm 2005, 300 nghìn trang
trại năm 2010, 271 nghìn trang trại năm 2016 với mức giảm tương ứng là 1,08%, và
36,57%. Xu hướng này cũng tương tự đối với các trang trại có diện tích từ 2-3 ha
với mức giảm từ 213 nghìn trang trại xuống 201nghìn trang trại năm 2016. Trong
khi đó số lượng các trang trại có diện tích từ 20- 50 ha đã tăng từ 97 nghìn trang
trại năm 2010 lên 102 nghìn trang trại năm 2016 và số trang trại lớn hơn 50 ha cũng
79
tăng từ 27-34 nghìn trang trại năm 2016.
Hình 3.1: Quy mô các trang trại sản xuất nông nghiệp Ba Lan
Đơn vị: nghìn
Nguồn: Łukasz Abramczuk et.al (2018) “Agricultural company and
agricultural holding towards climate and agricultural policy changes”[122]
Thứ hai, quá trình tích tụ ruộng có sự biến động khá lớn giữa các khu vực.
Mức độ thay đổi số lượng các trang trại giữa các vùng ở Ba Lan cũng khác nhau, cụ
thể, số trang trại 1-2 ha giảm lớn nhất xuất hiện ở miền Nam Ba Lan như tỉnh Opole
(32%), Śląsk (30%), Subcarpathia (26,9%) và Lubuska Land (26,6%), khu vực ít có
sự thay đổi được ghi nhận ở Wielkopolska (11,3%), Podlasie (13,8%) và Kujavia-
Pomerania (14,7%).[70].
Bên cạnh đó, việc điều chỉnh mạnh quy mô các trang trại nông nghiệp của
Ba Lan trong thời gian qua thấy được rõ hơn khi Ba Lan chính thức trở thành thành
viên EU với việc hỗ trợ các khoản ngân sách tài chính nhằm tái thiết lại trang trại,
đào tạo nghề cho cho các chủ trang trại, hỗ trợ thu nhập cho các nông hộ của Chính
sách nông nghiệp chung (CAP). Trong giai đoạn 2004-2015, Ba Lan là quốc gia
thành viên nhận được các khoản tài chính hỗ trợ phát triển nông nghiệp cao hơn so
với mức đóng góp ngân sách của nước này vào quỹ chung của EU. Cụ thể, tổng số
tiền giải ngân của CAP thông qua các quỹ đầu tư, tái thiết, đào tạo nghề là 122,45 tỉ
Euro trong khi số tiền Ba Lan đóng góp vào quỹ chung của EU là 38,7 tỉ Euro[105].
Thứ ba, quá trình tích tụ đất đai cũng bị ảnh hưởng bởi sự chuyển dịch đất
nông nghiệp sang phi nông nghiệp.
Sự bùng nổ các khu công nghiệp, khu chế xuất, hay quá trình đa dạng hóa
80
kinh tế khu vực nông thôn với việc thúc đẩy việc tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp,
phát triển các lĩnh vực phi nông nghiệp, đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn…Theo số
liệu thống kê cho thấy, diện tích đất nông nghiệp của Ba Lan vào những năm 1990
tương ứng 18,7 triệu ha, chiếm 61,2%, diện tích đất rừng với 9,338 triệu ha chiếm
29,9% còn lại là đất đô thị (diện tích lãnh thổ Ba Lan 31,268 triệu ha), trong đó đất
nông nghiệp có khả năng trồng trọt chiếm 77%. Cụ thể, trong giai đoạn 1990-2014,
diện tích đất nông nghiệp Ba Lan đã giảm từ 18,7 triệu ha năm 1990 xuống 14,5
triệu ha năm 2014, tương ứng với mức giảm 22,4%[135].
Tích tụ đất nông nghiệp dẫn đến sự biến động lớn về giá đất nông nghiệp,
đặc biệt sau khi Ba Lan trở thành thành viên EU
Như đã đề cập ở trên, Chính phủ Ba Lan đã thực hiện phân loại đánh giá
chất lượng đất nông nghiệp, trang trại theo quy mô 6 mức và chia làm 4 khu vực.
Việc phân loại như vậy ngoài mục đích quản lý cũng được xem là nhân tố tạo ra các
mức giá đất nông nghiệp khác nhau trên thị trường. Cùng với đó, những điều chỉnh
trong các chính sách tài chính nông thôn, chính sách tự do hóa thương mại, đất đai
đã tạo ra sự bùng nổ trong mua bán, chuyển nhượng đất đai trong nông nghiệp Ba
Lan với mức giá tăng lên 4 lần trong giai đoạn 2004-2013[135].
Làn sóng mua bán đất nông nghiệp của các nhà đầu tư đến từ các nước
thành viên EU15. Mặc dù có nhiều hạn chế quy định người nước ngoài mua bất
động sản, và sự hạn chế này phải được dỡ bỏ vào năm 2016, song theo đồ thị dưới
cho thấy số giấy phép mà chính phủ Ba Lan cấp cho người nước ngoài năm 2004 là
786 giấy phép mua bất động sản và 279 giấy phép mua đất nông nghiệp, năm 2016
con số này giảm xuông là 200 và 51 giấy phép mua đất nông nghiệp. Tính trung
bình giai đoạn 2005-2016, chính phủ Ba Lan đã cấp 220 giấy phép mua bán bất
động sản cho người nước ngoài và các nhà đầu tư nước ngoài đến chủ yếu từ Đức,
81
Hà Lan và Đan Mạch.
Hình 3.2. Số lượng giấy phép cấp cho người nước ngoài mua bất động sản ở Ba
Lan
Nguồn: Agnieszka Stacherzak et.al, (2019), State Interventionism in
Agricultural Land Turnover in Poland. [64]
Hoạt động sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn của Ba Lan nhận
được nguồn tài chính lớn từ khu vực
Nâng cao khả năng cạnh tranh sản xuất nông nghiệp trong chương trình phát
triển nông thôn bao gồm tổng thể các chương trình hành động như đào tạo nguồn
nhân lực nông thôn, phát triển cơ sở hạ tầng…[92] Ngân sách hỗ trợ của EU dành
cho lĩnh vực này giai đoạn 2004-2006 chiếm 61%; giai đoạn 2007- 2013 46% và
giai đoạn 2014-2020 là 54% . Trong cơ cấu chi tiêu này thì Ba Lan tập trung cho chi
tiêu nông nghiệp lên đến 46% cao hơn mức bình quân của EU là 32%.[92 ]
Tỷ trọng một số sản phẩm nông sản của Ba Lan trong EU 28 ngày càng cao:
Việc áp dụng các chính sách hỗ trợ sản xuất, chính sách xúc tiến xuất khẩu, chính
sách tài chính… đến nay, giá trị nông nghiệp Ba Lan đứng thứ 7 trong EU (Pháp
Đức, Italy, Tây Ban Nha, Vương Quốc Anh, và Hà Lan). Một số sản phẩm nông
nghiệp Ba Lan chiếm tỷ trọng lớn nhất trong EU 28 là táo 26,4%, thịt gia cầm
15,1%, bắp cải trắng 31,4% , tiếp đó là các sản phẩm như lúa mạch, yến mạch và
đứng thứ 3 trong EU là củ cải đường, lúa mỳ và khoai tây ( MARD, 2015)
Các chính sách hỗ trợ tài chính, chính sách cổ phần hóa các trang trại, chính
82
sách thúc đẩy năng lực cạnh tranh … đã tạo ra sự nhảy vọt trong xuất nhập khẩu
hàng nông sản. Tỷ trọng xuất nhập khẩu hàng nông sản trong tổng kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa của Ba Lan ngày càng tăng, trong đó, xuất khẩu tăng từ 8,9% năm
2004 lên 13,4% năm 2017; nhập khẩu từ 6,1% lên 9,6% năm 2016.
Hình 3.3: Tỷ trọng xuất nhập khẩu hàng nông sản Ba Lan
Đơn vị: %
Nguồn: Czytaj również (2018) Polish agri-food exports in 2017[76]
Xét về giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu, năm 2017, tổng giá trị thương mại
các sản phẩm thực phẩm nông nghiệp của Ba Lan vượt quá 46,2 tỷ EUR, trong đó
xuất khẩu đạt mức 27,3 tỷ EUR, nhập khẩu chiếm 18,9 tỷ EUR. So với năm 2004,
điều này cho thấy thương mại đã tăng hơn 4,5 lần, trong khi đó chỉ riêng xuất khẩu
đã tăng hơn năm lần và mức tăng nhập khẩu là hơn bốn lần.
Hình 3.4 : Kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nông sản Ba Lan giai đoạn
2004-2017
Đơn vị: Tỷ Euro
83
Nguồn: Czytaj również (2018) Polish agri-food exports in 2017[76]
Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng nông sản cũng có sự thay đổi đáng kể, các
sản phẩm nông sản xuất khẩu của Ba Lan không chỉ xuất nhập khẩu từ thị trường
các nước trong khu vực mà đã mở rộng ra nhóm các quốc gia độc lập, nhóm các
nước EFTA ( Iceland, Thụy Sỹ) nhóm nước NafTA ( Canada, Mexico, Mỹ)…
Phân tích và đánh giá về vai trò của nông nghiệp trong phát triển kinh tế
nông thôn Ba Lan, tác giả luận án cho rằng, Chính phủ Ba Lan tiếp tục đặt ra các ưu
tiên phát triển nông nghiệp bởi một số nguyên nhân chính sau:
Thứ nhất, tiến trình chuyển đổi sản xuất nông nghiệp Ba Lan vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu đòi hỏi EU trên các góc độ từ quá trình hợp nhất trang trại, đến
nâng cao năng lực cho lao động sản xuất nông thôn, ứng dụng khoa học kỹ thuật…
Chính vì vậy, xuyên suốt trong tiến trình phát triển kinh tế nông thôn, thì nông
nghiệp vẫn được coi là một trong những mục tiêu quan trọng.
Thứ hai, nông nghiệp Ba Lan vẫn bị coi là lĩnh vực thâm dụng lao động khi
mà tỷ lệ lao động trong sản xuất nông nghiệp chiếm 11% song đóng góp vào GDP
chỉ chiếm 2,4%. Vì vậy, phát triển nông nghiệp với việc ứng dụng các thành quả
khoa học kỹ thuật, nhằm nâng cao giá trị gia tăng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cầu kinh
tế nông thôn cũng là một nhân tố quan trọng mà chính phủ Ba Lan cần phải cân
nhắc trong quá trình phát triển kinh tế nông thôn.
Thứ ba, quá trình chuyển đổi, tích tụ đất đai đã đạt được một số thành công
nhất định, song tỷ lệ các trang trại nhỏ vẫn cao hơn mức bình quân khu vực. Điều
này gây ra những hạn chế đối với Ba Lan khi áp dụng khoa học công nghệ vào
trong sản xuất, gia tăng chi phí sản xuất, giảm lợi thế cạnh tranh. Vì vậy, mục tiêu
đặt ra nhằm thúc đẩy quá trình tích tụ ruộng đất, từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh
sản xuất nông nghiệp Ba Lan với các quốc gia khác trong khu vực.
Thứ tư, thu nhập phần lớn người dân khu vực nông thôn dựa vào hoạt động
sản xuất nông nghiệp là chính, dẫn đến tỷ lệ nghèo đói trong nông thôn Ba Lan cao.
Thứ năm, thiếu hụt trong đầu tư về hạ tầng sản xuất và manh mún của các
84
trang trại dẫn tới hiệu quả sản xuất hiện còn thấp so với các nước EU 15.
Với thực trạng như vậy, NCS cho rằng thúc đẩy khả năng cạnh tranh sản
xuất nông nghiệp tiếp tục được xem là một trong những trọng tâm mà Ba Lan cần
phải giải quyết trong phát triển kinh tế nông thôn.
3.2.2.2. Phát triển các hoạt động phi nông nghiệp khu vực nông thôn
Việc thực thi chuyển đổi từ nền kế hoạch tập trung bao cấp sang nền kinh tế
thị trường đã mở ra các cơ hội cho hoạt động sản xuất phi nông nghiệp ở khu vực
nông thôn Ba Lan. Tuy nhiên, các hoạt động phi nông nghiệp ở Ba Lan vẫn còn
thấp, dẫn đến mức độ đa dạng hóa kinh tế khu vực nông thôn chưa thực sự cao.
Những đặc trưng chính trong phát triển các hoạt động phi nông nghiệp thể hiện:
Tỷ lệ lao động nông thôn tham gia vào các hoạt động phi nông nghiệp còn
thấp
Trong những năm đầu thực hiện chuyển đổi nền kinh tế, Ba Lan phải đối mặt
với những khó khăn về nguồn lực tài chính, dẫn đến cơ sở hạ tầng, dịch vụ giao
thông khu vực nông thôn còn nhiều hạn chế, các hoạt động sản xuất kinh doanh
trong khu vực nông thôn chưa được phát triển mạnh. Số lượng cư dân nông thôn
tham gia vào các hoạt động phi nông nghiệp trong giai đoạn 1989 còn rất thấp với
tỷ lệ 6%[79].
Phân tích sự tham gia lao động khu vực nông thôn vào các hình thức phi
nông nghiệp ở khu vực nông thôn năm 2001, cho thấy 69% dân cư nông thôn tham
gia vào các hoạt động dịch vụ, 25,2% tham gia trong lĩnh vực công nghiệp, số
lượng tham gia vào nông nghiệp chỉ chiếm đến 5,7%[119]. Các hoạt động phi nông
nghiệp trong khu vực nông thôn Ba Lan bao gồm: Hoạt động của các doanh nghiệp,
các trang trại chuyển đổi mục đích sang các lĩnh vực như sản xuất chế tạo, xây
dựng, dịch vụ và du lịch nông thôn.
Hoạt động phi nông nghiệp trong khu vực nông thôn Ba Lan được cải thiện
với các nguồn lực hỗ trợ tài chính từ EU
Với các nguồn lực tài chính được hỗ trợ từ EU cho các chương trình phát
triển kinh tế nông thôn, chương trình phát triển kinh tế địa phương khu vực phía
đông… khu vực kinh tế nông thôn Ba Lan đã có sự thay đổi mạnh với sự đóng góp
85
của các lĩnh vực phi nông nghiệp. Ngay sau khi gia nhập EU, khuyến khích các
doanh nghiệp chuyển từ khu đô thị về nông thôn, khuyến khích tinh thần khởi
nghiệp trong khu vực nông thôn ( Lý thuyết phát triển nội sinh) được coi là một
chiến lược quan trọng và cấp thiết mà Ba Lan cẩn phải thực hiện. Đây được xem là
nhân tố giúp cải thiện thu nhập cho người dân nông thôn, cũng như tạo việc làm cho
những nhóm đối tượng có nguy cơ thất nghiệp cao.
Chương trình hỗ trợ cộng đồng và quản lý tài chính phù hợp với các yêu cầu
của EU là hai điều kiện chính mà một quốc gia thành viên phải đáp ứng để nhận
tiền từ ngân sách EU để thực hiện các dự án phát triên nông thôn. Như đã phân tích
ở trên, ngay trong giai đoạn tiền gia nhập, Ba Lan đã có những điều chỉnh, cải cách
về mặt chính sách để đáp ứng các điều kiện mà EU đưa ra. Chính vì vậy, việc thực
hiện các dự án, chương trình được ghi nhận đã tác động lớn đến hoạt động đa dạng
hóa kinh tế khu vực nông thôn Ba Lan trong suốt thời gian qua. Tính từ 1/5/2004
đến 30/11/2015, Ba Lan đã nhận được 122,45 tỷ Euro, và chuyển lại phần đóng góp
theo quy định thành viên là 38,7 tỷ Euro, số tiền còn lại tương ứng với 83,57 tỷ
Euro thông qua các quỹ như Quỹ phát triển khu vực, Quỹ đầu tư ( Hình 3.5).
Hình 3.5: Ngân sách thực hiện các chương trình phát triển nông thôn từ
EU chuyển cho Ba Lan giai đoạn 2004-2015
Nguồn: Agnieszka Baer-Nawrocka et al (2016) Rural Poland 2016 [65];
FDPA (2018) Rural Poland 2018[88]
Thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, tự kinh doanh trong khu vực nông thôn được
86
thực hiện mạnh khi Ba Lan trở thành thành viên EU
Để đạt được mục tiêu này, ngay trong những năm đầu thực hiện ban hành
chính sách nhằm thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp trong khu vực nông thôn, các yếu
tố về địa phương đã được Ba Lan triển khai đánh giá như: Tiềm năng nhân khẩu
học, khả năng hấp thụ thị trường lao động địa phương, quy mô và loại hình thất
nghiệp, nguồn vốn của dân số, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tình trạng môi trường tự
nhiên, nguyện vọng của cộng đồng địa phương, năng lực và khả năng của chính
quyền địa phương, …Bên cạnh đó, một số rào cản trong việc phát triển tinh thần
kinh doanh khu vực nông thôn Ba Lan trong thời gian qua là: (1) Điểm yếu trong
môi trường kinh doanh – sự thiếu hiệu quả trong đào tạo, tư vấn, thông tin, tài
chính, nghiên cứu và phát triển, quản trị địa phương; (2) mức độ hội nhập của các
khu vực nông thôn còn thấp và khả năng điều phối các chương trình hỗ trợ còn yếu;
(3) vẫn còn các hình thức quan liêu; (4) thiếu hụt cơ chế khơi thông tiềm năng trong
khu vực nông thôn.
Hình 3.6: Thực trạng khu vực nông thôn Ba Lan đối với việc phát triển
mô hình tự kinh doanh ( Self employment)
Nguồn: OECD 2006 “New Rural Paradigm: Policies and Governance,
OECD Publishing” [123].
Nhìn nhận được các điểm yếu, các rào cản, điểm nghẽn trong chính sách, từ
đó tập trung giai quyết nhằm thúc đẩy tinh thần kinh doanh, tự làm chủ ( Self
employment) đối với người dân nông thôn… Đây chính là những nội dung chính
mà các chương trình phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan cần phải thực hiện trong
87
thời gian qua.
Sự phát triển các loại hình tự kinh doanh, hoạt động sản xuất trong khu vực
nông thôn đã thu hút được lực lượng lớn lao động
Một số kết quả được thực hiện đóng góp sự thay đổi lớn trong khu vực nông
thôn Ba Lan trong thời gian qua. Theo số liệu bảng 3.6 cho thấy năm 2012, cả Ba
Lan có tổng số người tham gia hình thức này là 980.000; trong số đó 219.000 người
là cư dân nông thôn, tương ứng 22,3% thì năm 2016 con số này đã tăng lên là
1.118.000 tương ứng với mức tăng 89.000 người (40,6%), trong đó 308.000 là cư
dân nông thôn chiếm 27,5%.
Nếu phân theo lĩnh vực việc làm thì mức tăng trưởng mạnh nhất trong khu
vực nông thôn Ba Lan giai đoạn 2012-2016 tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế
biến (52%). So với khu vực đô thị, thì tự chủ kinh doanh ở khu vực nông thôn cao
hơn tập trung vào 04 lĩnh vực là công nghiệp, xây dựng, thương mại và vận tải, lưu
trữ hàng hóa.
Bảng3.6 : Số lao động tự chủ kinh doanh giai đoạn 2012- 2016
Đơn vị: Nghìn
Mô tả 2012 2013 2014 2015 2016
Tổng việc làm 13728 13863 14175 14454 14664
Khu vực đô thị 9367 9416 9609 9790 9726
Khu vực nông thôn 4361 4447 4566 4664 4938
Tổng số lao động tự 980 967 1023 1036 1118
chủ kinh doanh
Khu vực đô thị 761 752 779 780 810
Khu vực nông thôn 219 215 244 256 308
Nguồn: Janina Jędrzejczak-Gas, Anetta Barska (2018) Self-employment as a
Form of Entrepreneurship Development in Rural Areas in Poland. [102]
Cùng với việc phân tích những rào cản về thu hút doanh nghiệp đầu tư vào
khu vự nông thôn, trong việc ban hành các chính sách, chính phủ Ba Lan cũng đã
ban hành các chính sách áp dụng với các doanh nghiệp mở mới và dịch chuyển về
khu vực nông thôn như: Thực hiện miễn giảm thuế, trợ cấp trả lương cho người lao
88
động, hỗ trợ về kỹ thuật xây dựng trang web, hỗ trợ tư vấn khởi nghiệp …
Kết quả của các chính sách hỗ trợ này đã tạo ra: Năm 2014, trong tổng số
4.119. 671doanh nghiệp đăng ký mới thì có đến 1.107.515doanh nghiệp chiếm
26,8% đã đăng ký kinh doanh tại khu vực nông thôn ( Phụ lục 4).
Trong tổng số hơn một triệu doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tại khu vực
nông thôn thì có đến 97% thuộc sở hữu tư nhân và 3% thuộc sở hữu nhà nước làm
nhiệm vụ cung ứng dịch vụ công. Trong cơ cấu này thì chỉ có 4,9 % doanh nghiệp
hoạt động cung ứng các sản phẩm nông nghiệp, 66,7% doanh nghiệp tập trung vào
lĩnh vực công nghiệp và xây dựng.
Một ví dụ điển hình cho sự thành công của doanh nghiệp phi nông nghiệp
tại Ba Lan là tập đoàn Pronar có trụ sở tại Podlaskie tập trung sản xuất và buôn bán
các thiết bị cho lĩnh vực nông nghiệp, dịch vụ và vận tải. Năm 2014 doanh nghiệp
này có hơn 2000 nhân viên được tuyển dụng từ khu vực nông thôn Ba Lan ( OECD,
2018).
Thực hiện chương trình phát triển có trách nhiệm để hỗ trợ cho các doanh
nghiệp khu vực nông thôn
Tháng 2/2016, Chính phủ Ba Lan đã thông qua chương trình “ Phát triển có
trách nhiệm đối với các doanh nghiệp trong khu vực nông thôn” tập trung vào 05
mục tiêu ưu tiên bao gồm: (1) Hỗ trợ lợi thế cạnh tranh dựa vào nền tảng công
nghiệp 4.0; (2) Phát triển kinh doanh đổi mới; (3) Vốn đầu tư cho phát triển; (4) Hỗ
trợ xuất khẩu và đầu tư của doanh nghiệp ở nước ngoài và (5) phát triển xã hội và
khu vực thông qua cải cách giáo dục và nghề nghiệp, đưa khu vực nông thôn vào
trong quá trình phát triển[124].
Ban hành các đạo luật thuế nhằm thu hút, hỗ trợ các doanh nghiệp hoạt
động trong khu vực nông thôn
Với mục tiêu tăng tỷ trọng hoạt động phi nông nghiệp trong đóng góp GDP
khu vực nông thôn, thì ngoài việc hỗ trợ, khuyến khích tinh thần khới nghiệp,
khuyến khích sự dịch chuyển từ đô thị về khu vực nông thôn …Chính phủ Ba Lan
tiếp tục danh những ưu đãi về tài chính tập trung cho quá trình chuyển đổi của các
trang trại từ sản xuất nông nghiệp sang phi nông nghiệp, mở rộng các loại hình du
89
lịch nông thôn với sự tham gia tích cực của các trang trại.
Xu hướng chuyển dịch các trang trại từ sản xuất nông nghiệp sang phi nông
nghiệp ngày càng tăng
Kết quả của quá trình này cũng cho thấy: Xu hướng chuyển đổi của các
trang trại nông nghiệp sang các hoạt động sản xuất nông nghiệp đã tăng mạnh. Năm
2000, Ba Lan đã có 11,260 trang trại hoạt động trong du lịch so với 1000 trang trại
năm 1993. [118 ] Theo số liệu bảng cho thấy tỷ lệ các trang trại hoạt động trong
lĩnh vực du lịch chiếm cao nhất với 30% và thấp nhất trong lĩnh vực sản xuất năng
lượng tái sinh với 1%.
Hình 3.7: Cơ cấu các trang trại sản xuất phi nông nghiệp Ba Lan năm 2014
Nguồn: Ministry of Agriculture and rural Development (2015) Agriculture and food
economy in Poland. [120 ]
Sự chuyển hướng sang hoạt động du lịch của các trang trại ở Ba Lan cũng có
sự khác biệt đáng kể tập trung lớn nhất vùng Maloposkie với 1327 trang trại và
thấp nhất vùng kodzkie với 165 trang trại[101]. Đánh giá về sự khác biệt giữa các
vùng trong việc chuyển đổi các trang trại nông nghiệp sang phi nông nghiệp NCS
nhận thấy khu vực phía Tây và Nam Ba Lan có sự chuyển hướng mạnh hơn khu
vực phía Bắc và Đông. Không chỉ chuyển hướng mạnh trong cơ cấu trang trại mà
xu hướng hợp nhất, tích tụ cũng như giá đất nông nghiệp các khu vực phía Tây và
90
Nam cũng có xu hướng cao hơn.
3.2.2.3. Phát triển thị trường lao động nông thôn
Giáo dục được xem là một phần quan trọng trong chính sách phát triển
nguồn nhân lực quốc gia, góp phần hoàn thiện quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế
thị trường của Ba Lan. Gia nhập Liên minh Châu Âu từ năm 2004, các mục tiêu
chính của chính sách phát triển nguồn nhân lực ở Ba Lan tập trung vào phát triển
dịch vụ thông tin, hướng dẫn và tư vấn nghề nghiệp để phù hợp với mô hình đào tạo
và phát triển quốc gia.
Với nguồn nhân lực nông nghiệp và nông thôn Ba Lan có những chương
trình đào tạo nhằm một mặt dịch chuyển lao động sang các lĩnh vực khác, một mặt
nâng cao các kĩ năng cho các nông dân trẻ phát triển sản xuất theo hướng chuyên
môn hóa, tham gia liên kết vào chuỗi sản xuất. Chiến lược quốc gia về tăng trưởng
việc làm và phát triển nguồn nhân lực của Ba Lan đã được thông qua bởi Bộ Chính
sách Lao động và Xã hội vào tháng 1 năm 2000, tập trung giải quyết một số nội
dung như: (1) tăng trưởng việc làm bằng cách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực;
(2) thúc đẩy phát triển doanh nghiệp. Trong đó, các chương trình cụ thể được triển
khai như chương trình “Việc làm đầu tiên” và chương trình “Khởi nghiệp đầu tiên”
đã cung cấp các kĩ năng và đào tạo hướng nghiệp cho người lao động; (3) cải thiện
năng lực của doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả làm việc của nhân viên để bắt kịp
sự thay đổi của thị trường; và (4) thực thi các chính sách giúp mang lại cơ hội bình
đẳng trên thị trường lao động. Trước những nhân tố tác động cả trong nước cũng
như ngoài khu vực đối với chiến lược phát triển bền vững kinh tế nông thôn thì đào
tạo nguồn nhân lực khu vực nông thôn được đặt ra là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm bởi (1) mức độ tăng trưởng mạnh về hiện đại hóa trong tất cả các lĩnh vực
kinh tế đòi hỏi những người lao động phải có kỹ năng, tay nghề; (2) sự già hóa dân
số … dẫn đến sự suy giảm nguồn lực lao động, do vậy để đảm bảo đầu ra cũng như
nâng cao năng suất lao động, công tác đào tạo tiếp tục được đặt ra. [121]
Trong lĩnh vực đào tạo nghề cho lao động nông thôn, mô hình phân cấp quản
lý các trường nghề được Ba Lan triển khai mạnh mẽ, ví dụ năm 2015 Bộ nông
91
nghiệp hiện đang quản lý 45 trường nghề về nông nghiệp với sự tham dự 12 nghìn
sinh viên. Bộ phát triển kết hợp với Bộ nông nghiệp để đào tạo cho lao động có thể
làm các hoạt động phi nông nghiệp, tạo điều kiện đa dạng hóa kinh tế nông thôn.
Các chương trình cải cách đào tạo, phương thức học áp dụng đối với lao động
nông thôn đã được áp dụng như tham dự part time, các khóa ngắn hạn, kết hợp giữa
học lý thuyết và thực hành tại trang trại…Một trong những phương thức được áp
dụng trong đào tạo nghề lao động nông thôn tại Ba Lan chính là việc Chính phủ cho
phép sự cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo nghề. Thực thi chính sách thị trường lao
động tích cực ( Active labour market policy) tập trung vào 03 mục tiêu: (1) phát
triển các chương trình đào tạo nghề nhằm cung cấp cho người lao động những kỹ
năng mới; (2) tăng cầu tuyển dụng đối với các doanh nghiệp thông qua cơ chế hỗ
trợ tiền lương, đâu tư tạo việc làm và (3) tăng cường khả năng kết nối việc làm
thông qua nâng cấp các hệ thống tìm kiếm việc làm. [123]
3.2.2.4. Hiện đại hóa cơ sở hạ tầng nông thôn
Cơ sở hạ tầng nông thôn đóng một vai trò quan trọng đến sự phát triển khu
vực nông thôn, ảnh hưởng đến cả về chất lượng cuộc sống người dân cũng như tạo
ra tính hấp dẫn trong thu hút đầu tư vào khu vực nông thôn, nâng cao khả năng kết
nối thị trường khu vực nông thôn với thành phố, giảm thiểu các chất thải ô nhiễm
khu vực nông thôn, tăng lợi nhuận và khuyến khích đầu tư sáng tạo…cơ sở hạ tầng
tốt là một trong những nhân tố thúc đẩy tăng trưởng và phát triển khu vực.
Đầu tư vào khu vực nông thôn Ba Lan trong lĩnh vực hiện đại hóa cơ sở hạ
tầng không chỉ là một nội dung cơ bản trong chiến lược phát triển kinh tế nông
thôn, mà đây còn là mục tiêu nhằm thúc đẩy tăng trưởng bền vững trong chiến lược
phát triển quốc gia. Đầu tư công vào cơ sở hạ tầng luôn chiếm một tỷ trọng cao
trong GDP tương ứng với mức 3.5% GDP năm 2015, cao hơn mức bình quân của
các nước OECD là 3,1%.
Các hoạt động đầu tư hạ tâng nông thôn khá đa dạng từ hiện đại hóa lĩnh
vực giao thông, năng lượng, truyền thông… Trong các giai đoạn 2007-2017, mặc
dù được đầu tư lớn, song hạ tầng nông thôn Ba Lan vẫn bị đánh giá là chưa được
phát triển. Nhiều khu vực nông thôn Ba Lan như Podlaskie hiện vẫn còn thiếu hụt
92
nhiều tuyến giao thông hiện đai, đây được xem là trở ngại lớn cho hoạt động sản
xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp. Bên cạnh đó, nhiều khu vực khác Ba Lan
hiện cũng đang phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt về giao thông đường sắt, cũng
như các loại hình giao thông khác.
Nhu cầu đầu tư hạ tầng nông thôn ở Ba Lan hiện còn rất lớn, song với những
nguồn lực còn hạn chế, phương thức cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng với nguồn lực
trong nước và nguồn tài chính từ EU sẽ được áp dụng chủ yếu trong giai đoạn 2014-
2020, tập trung:
Phát triển lĩnh vực giao thông vận tải bao gồm đường bộ, đường sắt, đường
biền, hàng không nhằm kết nối các vùng nông thôn, vùng nông thôn với các khu
vực thành phố. Nguồn lực tài chính hỗ trợ các chương trình này được cân đối từ quỹ
hỗ trợ của EU trong chương trình phát triển mạng lưới giao thông EU (trans-
European transport network). Các tuyến đường nông thôn từng khu vực sẽ được lên
kế hoạch và phân bổ tài chính từ chương trình phát triển nông thôn.
Phát triển hạ tầng kỹ thuật số, thương mại điện tử, tăng khả năng truy cập
internet khu vực nông thôn trong những năm vừa qua tại Ba Lan đã đạt được những
thành tựu đáng kể so với các nước trong khu vực. Tỷ lệ các hộ, trang trại tiếp cận
được với internet tăng từ 67.1% năm 2011 lên 75% 2015, tuy nhiên tỷ lệ này vẫn
thấp hơn khu vực đô thị là 82,9%[85 ]
Phát triển cơ sở hạ tầng cung cấp nước và xử lý nước thải: Các nội dung cơ
bản trong lĩnh vực này bao gồm cải thiện mạng lưới thoát nước khu vực nông thôn,
nhà máy xử lý nước thải. Theo báo cáo Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn Ba
Lan cho thấy cuỗi năm 2014 Ba Lan có 237 791.21 km hệ thông cung cấp nước
tăng đáng kể so với năm 2008 là 212 844.19 km. Năm 2014, Ba lan đã xây dựng
được 5590.26 km , nâng tổng số km thoát nước ở Ba Lan là 85 689.26 km…Chính
phủ hỗ trợ cũng như tạo ra mức thuế ưu đãi áp dụng đối với những vùng nông thôn
hẻo lánh, khi mà nguồn lực tư nhân không thể vươn đến, áp dụng các cơ chế đối tác
trong việc phát triển lĩnh vực này.
3.2.2.5. Ứng dụng khoa học công nghệ
Trong báo cáo mới đây của EU cho thấy sự đổi mới trong nền kinh tế Ba
93
Lan là tương đối thấp, các hoạt động xuất khẩu bị chi phối bởi hàng hóa giá trị thấp,
ngoại trừ trong ngành công nghiệp thực phẩm, ngành xe hơi và vận tại[138] . Để
duy trì khả năng cạnh tranh của mình, Ba Lan sẽ cần phải vượt xa sự phụ thuộc hiện
tại của mình vào các công nhân có mức lương thấp và chuyển sản xuất hàng hóa
công nghệ thấp hiện tại sang những sản phẩm tiên tiến hơn; tạo ra nhiều giá trị hơn
trong hàng hóa và dịch vụ đang được sản xuất; và cải thiện các yếu tố tạo điều kiện
cho tăng trưởng, chủ yếu là kỹ năng, đổi mới, khả năng tiếp cận và kết nối và quản
trị.
Chính sách phát triển kinh tế nông thôn là một thành phần quan trọng cho
chiến lược bao quát này. Chính sách này sẽ giúp Ba Lan hiện đại hóa ngành nông
nghiệp, tận dụng lợi ích tiềm năng từ mối liên hệ giữa nông thôn và đô thị, tạo điều
kiện thuận lợi cho quá trình phát triển nội sinh và đảm bảo các vùng nông thôn có
tiềm năng tăng trưởng. Các hoạt động hỗ trợ các trang trại áp dụng thành tựu khoa
học công nghệ vào trong sản xuất là vận động các chủ trang trại tham gia vào mạng
lưới hợp tác và đổi mới được tài trợ bởi ngân sách EU. Mạng lưới đổi mới được
chính phủ Ba Lan thành lập năm 2015, cùng với mạng lưới này thì các trung tâm
dịch vụ tư vấn tư nhân, các doanh nghiệp, các dịch vụ khuyến nông… sẽ hứa hẹn
tạo ra sự tăng trưởng hơn nữa về đổi mới đối với nông nghiệp.Tích hợp theo chiều
dọc tức là đầu tư cho ngành công nghiệp thực phẩm sẽ tạo ra động lực cho đổi mới
và công nghiệp hóa cho ngành sản xuất nông nghiệp.
Tăng trưởng kinh tế dưa vào các chỉ số TFP, chỉ số năng suất lao động, đóng
góp xuất khẩu ... sẽ tiếp tục cho thấy Ba Lan vẫn là quốc gia có được mức tăng
trưởng bình quân 3,5% mức cao nhất trong số các nước thành viên mới khu vực
Liên minh châu Âu. Tuy nhiên, để duy trì khả năng cạnh tranh của mình, Ba Lan sẽ
cần phải nhanh chóng loại bỏ ý tưởng dựa vào nguồn nhân công rẻ, hay chỉ phục
vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước, mà cần phải nhanh chóng chuyển sản xuất
hàng hóa công nghệ thấp sang những sản phẩm tiên tiến hơn; tạo ra nhiều giá trị gia
tăng hơn; và cải thiện các yếu tố tạo điều kiện cho tăng trưởng, chủ yếu là kỹ năng,
đổi mới, khả năng tiếp cận và kết nối và quản trị.
Vấn đề đổi mới sáng tạo hiện vẫn còn những trở ngại lớn mà Ba Lan phải
94
giải quyết. Theo báo cáo mới đây của Ủy Ban châu Âu đối với chi đầu tư cho đổi
mới sinh thái của Ba Lan năm 2017 cũng cho thấy Ba Lan hiện cũng vấn đứng quá
thấp trong khối. Trong giai đoạn đầu thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế Ba
Lan có được sự tăng trưởng cao lại không nằm ở vấn đề đổi mới khoa học công
nghệ. Tuy nhiên, giai đoạn từ 2015 trở lại đây, quá trình hội nhập kinh tế khu vực
của Ba Lan cũng đã và chịu sức ép về cạnh tranh giữa các quốc gia trong khu vực
ngày càng gia tăng. Trong bối cảnh như vậy, lý luận về đổi mới sáng tạo cũng chỉ ra
rằng bất cứ một quốc gia nào có khả năng nắm bắt và ứng dụng nhanh khoa học
công nghệ vào sản xuất kinh doanh sẽ quyết định được khả năng thành công cao,
cũng như ngày càng tạo ra được những lợi thế so sánh so với các quốc gia còn lại.
Chính vì vậy, chiến lược phát triển kinh tế dựa vào yếu tố đổi mới đã được Ba Lan
đặt ra và xác định là một trong những nội dung trọng yếu quyết định đến tăng
trưởng bền vững. Quan điểm này đã được Thứ trưởng Bộ kinh tế và phát triển ông
Jerzy Kwieciński nhấn mạnh “ Đổi mới là động lực căn bản làm tăng khả năng
cạnh tranh của bất kỳ nền kinh tế quốc gia nào, và nó đặc biệt quan trọng đối với
Ba Lan trong bối cảnh hiện nay” [139]
Hình 3.8: Chỉ số đổi mới Ba Lan giai đoạn 2011- 2018
Nguồn: WIPO (2018) “Poland innovation index” [145]
Trong ba năm gần đây 2016- 2018, báo cáo về chỉ số đổi mới toàn cầu năm
2016 của tổ chức World Intellectual Property Organization (WIPO) cũng cho thấy
Ba Lan đã đạt vị trí thứ 39 trong tổng số 128 quốc gia với 44.2 điểm phần trăm.
Đánh giá về sự tiến bộ vượt bậc trong hoạt động đổi mới, Ông Jadwiga Emilewicz-
95
Thứ trưởng Bộ kinh tế Ba Lan cũng cho rằng “ Chúng ta vui mừng có được sự tiến
bộ vượt bậc trong thứ hạng xếp bậc của thế giới về đổi mới”. Hoạt động đổi mới
của Ba Lan tiếp tục được cải thiện. Năm 2017, trong một cuộc khảo sát mới do
Bloomberg công bố cho thấy Ba Lan đã được vinh danh là quốc gia hàng đầu trong
các nước thành viên mới EU về sự đổi mới. Trong số 13 quốc gia Đông Âu lọt vào
top 50, Ba Lan dẫn đầu khu vực ở vị trí thứ 22, theo sau là Cộng hòa Séc đứng thứ
25 và Nga đứng ở vị trí 27. Chỉ số đổi mới năm 2018 cũng cho thấy Ba Lan cũng
đạt ở mức điểm 41.7 điểm phần trăm. Bộ chỉ số đánh giá năng lực đổi mới toàn cầu
đánh giá đối với nền kinh tế quốc gia dựa vào việc đánh giá (1) thể chế, (2) vốn con
người và nghiên cứu; (3) cơ sở hạ tầng, … (6) các sản lượng đầu ra về tri thức và
công nghệ và (7) là sản lượng đầu ra về tính sáng tạo.
Một số sáng kiến và giải pháp được Ba Lan thực hiện trong những năm gần đây đối
với hoạt động đổi mới
Đối với các doanh nghiệp, trang trại sản xuất nông nghiệp, Ba Lan đã hoàn
thiện chính sách hỗ trợ các trang trại áp dụng thành tựu KHCN vào trong sản xuất
như: (1) Xây dựng mạng lưới đổi mới quốc gia với sự gắn kết của các trường đại
học, viện nghiên cứu, các Hiệp hội… gắn kết với mạng lưới đổi mới khu vực; (2)
Vận động các chủ trang trại tham gia vào mạng lưới hợp tác và đổi mới được tài trợ
bởi ngân sách EU; (3) Hoàn thiện chính sách về tăng khả năng tiếp cận chính sách
nhằm hỗ trợ đầu tư công nghệ đổi mới sinh thái. Chính sách này bao gồm một lộ
trình chuyển đổi sang nền kinh tế số với các đề xuất hành động nhằm thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế ở Ba Lan, đặc biệt là giải quyết các vấn đề như tăng
trưởng bền vững trong sản xuất công nghiệp tiêu dùng bền vững, và áp dụng mô
hình kinh doanh mới; và (4)Thực hiện chương trình chiến lược về “ khung khổ đổi
mới thông minh – new smart innovation framework” do EU ban hành cho giai đoạn
2014- 2020 với mục tiêu tăng trưởng “ thông minh, bền vững và gắn kết”. Mục tiêu
cụ thể là tối đa hóa sự đóng góp về sự đổi mới đối với tăng trưởng kinh tế và phúc
lợi xã hội thông qua các công cụ ưu tiên cao về hỗ trợ, chi tiêu công đối với hoạt
động đổi mới doanh nghiệp nhằm khai thác những tiềm năng cho phát triển.
96
3.2.2.6. Vai trò của chính phủ đối với sự phát triển kinh tế nông thôn ở Ba Lan
Như đã đề cập ở các phần trên cho thấy, chính sách phát triển nông thôn nói
chung và phát triển kinh tế nông thôn nói riêng ở Ba Lan đóng một vai trò hết sức
quan trọng trong việc thúc đẩy sự cạnh tranh hoạt động sản xuất nông nghiệp, thúc
đẩy sự đa dạng hóa kinh tế khu vực nông thôn, giảm thiểu sự phát triển chênh lệch
giữa các vùng miền, tạo việc làm lao động nông thôn, tăng thu nhập cho người dân
nông thôn…Như vậy, có thể khẳng định, những kết quả đạt được trên tất cả các lĩnh
vực trong phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan những năm hội nhập khu vực EU
phải nhìn nhận ở sự thay đổi tích cực của chính phủ trong việc đề ra những mục
tiêu, chương trình hành động một cách kịp thời. Những điều chỉnh cụ thể có thể
thấy:
Điều chỉnh về khung khổ chính sách, thể chế: Cùng với quá trình chuyển đổi
nền kinh tế từ kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường, Chính phủ Ba Lan đã và
đang thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm tái cơ cấu hoạt động sản xuất nông
nghiệp, nâng cao khả năng cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển và hội nhập trong sản
xuất nông nghiệp với khu vực. Cụ thể, Chính phủ đã ban hành Luật Đất đai năm
1991 đối với hình thức sở hữu không giới hạn đối với khu vực tư nhân, luật hóa
việc cổ phần hóa các trang trại sản xuất nông nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, hạn
chế người nước ngoài mua bán đất nông nghiệp giai đoạn 1990-2004, luật 2016 quy
định các bằng cấp cụ thể đối với các cá nhân mua bán các trang trại có diện tích
lớn… Những điều chỉnh về chính sách như vậy, tạo ra những thay đổi lớn về việc
tích tụ ruộng đất, phát triển trang trại và nâng cao sức cạnh tranh, sản xuất các mặt
hàng nông sản ở Ba Lan.
Tuân thủ và thực hiện nghiêm ngặt các tiêu chí hội nhập của EU: Việc áp dụng
chung các chính sách của khu vực đã tạo ra sự chuyển biến lớn trong phát triển sản
xuất nông nghiệp. Sự tăng trưởng trong sản xuất nông nghiệp, tăng năng suất, tăng
sự cạnh tranh trên thị trường EU… dẫn đến các hoạt động tích tụ và phát triển thị
trường đất nông nghiệp ở Ba Lan phát triển mạnh.
Thực hiện các chương trình phát triển nông thôn: Với các mục tiêu cụ thể, các
tiêu chí giám sát chặt chẽ các kết quả từng chương trình qua các giai đoạn khác
97
nhau như chương trình 2004-2006, chương trình 2007-2013 và hiện đang triển khai
chương trình 2014-2020 với các sự tham gia của các bên đã tạo ra những xung lực
mới trong phát triển sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy hoạt động tích tụ và chuyển đổi
các mục đích sử dụng đất nông nghiệp, trang trại.
3.3. Đánh giá thành công và hạn chế về phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan
3.3.1. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan
Trên cơ sở phân tích, đánh giá về các nguồn lực có liên quan, thực trạng
phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan trong thời gian qua, tác giả áp dụng phương
pháp SWOT xây dựng hệ thống ma trận để phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến
phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan.
Bảng 3.7. Phân tích SWOT kinh tế nông thôn Ba Lan
Các điểm mạnh (S) Các điểm yếu (W)
-Điều kiện tự nhiên, khí hậu đa dạng để phát -Năng suất nông nghiệp tại nhiều khu
triển các sản phẩm nông nghiệp đặc thù. vực nông thôn hẻo lánh vẫn ở mức thấp
- Các trang trại được mở rộng, nhờ tích tụ hơn rất nhiều so với khu vực trung gian và
ruộng đất, có khả năng áp dụng khoa học kỹ thành thị, năng suất bình quân cũng còn
thuật, tạo ra các lợi thế sản xuất quy mô lớn, thấp hơn nhiều so với mức bình quân
cho năng suất cao, chi phí thấp. chung của EU
- Các mô hình khuyến nông, hỗ trợ sản xuất, - Hoạt động đầu tư, cải thiện hạ tầng khu
hỗ trợ tìm kiếm thị trường đã cải thiện khả vực nông thôn, nâng cấp trang trại sản
năng cạnh tranh của các trang trại. xuất nông nghiệp vẫn còn kém hiệu quả ở
-Vị trí địa lý thuận lợi để mở rộng thương nhiều khu vực.
mại hàng nông sản với khu vực - Có sự khác biệt đáng kể về chênh lệch
-Cơ sở hạ tầng cứng và mềm được cải thiện vùng miền trong phát triển kinh tế, cụ thể,
với tỷ trọng đầu tư cao trong GDP khu vực phía Tây có sự tăng trưởng mạnh
-Các chính sách được điều chỉnh theo quy trong sản xuất nông nghiệp và phi nông
định của khu vực, tạo ra sự thuận lợi cho nghiệp, tập trung các trang trại quy mô
các hộ nông dân, trang trại tiếp cận được lớn, năng suất lao động cao… thì khu vực
với các nguồn tài chính để phát triển sản Trung và Đông Âu lại tụt hậu, tình trạng
98
đất đai manh mún, năng suất lao động xuất
-Chính sách thu hút doanh nghiệp vào khu thấp
vực nông thôn tạo ra sự đa dạng về kinh tế - Tỷ lệ thất nghiệp ở nhiều vùng nông thôn
nông thôn hẻo lánh vẫn còn cao
-Lực lượng lao động nông thôn được đào - Một phần lớn lao động nông thôn chưa
tạo, có tay nghề cao có khả năng dịch tích cực tìm việc làm
chuyển và làm việc trong các khu vực phi - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
nông thôn. giữa nông nghiệp và phi nông nghiệp ở
-Có cảnh quan thiên nhiên đẹp tạo ra tiềm nhiều khu vực còn chậm
năng về du lịch nông thôn. - Mạng lưới dịch vụ công ở nhiều khu vực
- Các chuỗi cung ứng được thiết lập cho chưa hoạt động hiệu quả
hiệu quả kinh tế cao - Hệ thống kết cấu hạ tầng khu vực nông
- Liên kết giữa khu vực nông thôn và thành thôn phía Đông chưa được phát triển
thị được cải thiện đồng bộ
-Cơ chế quản trị với sự phân cấp về trách
nhiệm tạo ra sự giám sát các hoạt động phát
triển kinh tế nông thôn được chặt trẽ
- Khai thác được các sáng kiến ở cấp cộng
đồng, huy động được các nguồn lực ở cấp
địa phương.
- Nhận được nguồn ngân sách lớn từ EU cho
phát triển kinh tế nông thôn.
Các cơ hội (O) Các thách thức ( T)
-Ủy Ban châu Âu đang có những điều chỉnh - Khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực
chính sách phát triển nông thôn, trong đó EU vẫn chưa thực sự lắng dịu, tác động từ
tập trung vào cải thiện hơn nữa khả năng hiện tượng Brexit đang gia tăng, làn sóng
cạnh tranh của các trang trại nông nghiệp, nhập cư gia tăng… dẫn đến EU đang có
tăng cường đào tạo kỹ năng quản lý, ứng những động thái điều chỉnh chính sách,
99
dụng công nghệ số vào trong sản xuất. theo đó tập trung giải quyết những vấn đề
- Chính phủ Ba Lan đang có những điều nổi cộm trước mặt với các nguồn lực tài
chỉnh về mặt chính sách theo hướng phân chính lớn- ngân sách cho các chương
cấp mạnh mẽ hơn, khai thác những sáng trình phát triển nông thôn có xu hướng
kiến nhiều hơn. giảm.
-Thị trường tiêu thụ hàng nông sản đang -Tỷ lệ dân số có xu hướng giảm , mức độ
được mở rộng cả trong và ngoài khu vực già hóa dân số tăng nhanh, dẫn đến sự
- Chuỗi cung ứng hàng nông sản với việc thiếu hụt về lực lượng lao động nông thôn
cung ứng các sản phẩm địa phương có tính - Chính phủ phải tăng các nguồn kinh phí
an toàn vệ sinh thực phẩm đang được người cho vấn đề an sinh xã hội, làm giảm kinh
tiêu dùng đánh giá cao. phí thực hiện các chương trình phát triển
- Các khu vực đô thị của Ba Lan đang có sự nông thôn.
tăng trưởng kinh tế tốt, tăng khả năng tiêu - Các yêu cầu đòi hỏi các sản phẩm nông
thụ hàng nông sản, tăng các hoạt động đầu sản được sản xuất phải đáp ứng về an
tư vào khu vực nông thôn. toàn thực phẩm, sản xuất gắn với việc bảo
vệ môi trường sẽ làm tăng chi phí sản xuất
trên mỗi đơn vị sản phẩm.
- Biến đổi khi hậu ngày càng cực đoan.
Nguồn: Tác giả nghiên cứu và xây dựng
Với việc áp dụng phân tích mô hình SWOT để xác định các nhân tố ảnh hưởng
đến phát triển nông thôn ở Ba Lan trong suốt thời gian qua ( Chương trình 2004-
2006; 2007- 2013; 2014- 2020) cho thấy những điều chỉnh và thực thi về mặt chính
sách, cũng như việc triển khai các chương trình phát triển nông thôn theo hướng
khai thác được những lợi thế có được và tranh thủ các cơ hội từ khu vực EU để phát
triển kinh tế nông thôn, cụ thể:
Kết hợp giữa điểm mạnh và cơ hội ( S+O) cho thấy Ba Lan đang tập trung
vào phát triển thị trường, đầu tư sản xuất: Các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp
tiếp cận thị trường khu vực được triển khai mang lại những thành công như: Kim
100
ngạch xuất khẩu hàng nông sản vào thị trường EU ngày càng tăng, đưa Ba Lan trở
thành một nhà xuất khẩu có tỷ trọng hàng hóa nông sản lớn trong EU; khai thác
những lợi thế điều kiện khí hậu để có được các sản phẩm đặc thù….
Chiến lược (W+O) khắc phục điểm yếu, tận dụng cơ hội: Bằng các giải pháp
thúc đẩy quá trình tích tụ đất đai, tạo ra các trang trại lớn để áp dụng các tiến bộ
khoa học trong mạng lưới đổi mới, từ đó nâng cao về năng suất và tăng khả năng
xuất khẩu hàng nông sản, cải thiện thu nhập người nông dân. Thực thi chiến lược thị
trường lao động tích cực, giảm thất nghiệp, tập trung nguồn lực cho các khu vực
phía đông để giảm sự chênh lệch vùng miền; tập trung nguồn lực phát triển cơ sở hạ
tầng nông thôn để tăng khả năng kết nối giữa nông thôn và đô thị.
Chiến lược ( S+T) khai thác lợi thế, sức mạnh và giảm thiểu những thách thức:
khai thác các sáng kiến cộng đồng để huy động nguồn lực cho các chương trình
phát triển trong bối cảnh nguồn ngân sách hỗ trợ của EU có xu hướng giảm.
Chiến lược ( W +T) nhằm khắc phục những điểm yếu, giảm thiểu những thách
thức để đạt được sự phát triển bền vững: Ba Lan đã có các kế hoạch hành động cụ
thể như: Điều chỉnh về chính sách tăng cường khả năng tiếp cận tài chính với lãi
suất ưu đãi, thiết lập các trung tâm khuyến nông để tập huấn nâng cao chất lượng
sản phẩm, thiết lập các chuỗi cung ứng ngắn với các quy trình đảm bảo cung ứng
các sản phẩm đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng…
Như vậy, với việc phân tích mô hình SWOT kết hợp vơi đánh giá các biện pháp
phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan bằng các tiêu chí ở trên sẽ cho tác giả rút ra
được những bài học thành công và hạn chế của Ba Lan trong phát triển kinh tế nông
thôn.
3.3.2. Một số kết quả đạt được trong phát triển kinh tế nông thôn
Trải qua gần ¼ thế kỷ thực hiện công cuộc chuyển đổi và hội nhập nền kinh
tế Ba Lan nói chung và phát triển kinh tế nông thôn nói riêng vào ngôi nhà chung
Liên minh châu Âu đã mang lại những dấu ấn hết sức ngoạn mục. Phát triển kinh tế
nông thôn dựa vào lý thuyết nông thôn mới, lý thuyết tăng trưởng nội sinh đã được
triển khai đồng bộ và áp dụng từ việc phân tích điểm mạnh, điểm yếu, các cơ hội và
nguy cơ đối với khu vực kinh tế nông thôn. Trên cơ sở việc phân tích như vậy,
101
khung chính sách và các chương trình, chính sách phát triển kinh tế nông thôn được
triển khai theo từng giai đoạn khác nhau đã tạo ra những điểm nhấn và đạt được
những kết quả hết sức ấn tượng, cụ thể:
Thứ nhất, khu vực nông thôn Ba Lan đã có những bước chuyển biến hết sức
ấn tượng.
Với mức tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2000 – 2018 là 60%, là nước
có mức tăng trưởng khu vực nông thôn cao nhất trong khối các nước OECD. Đóng
góp của khu vực nông thôn tính theo giá trị trong giai đoạn hiện nay đã tăng hơn
60% so với thời điểm những năm 2000.
Như vậy, định hướng phát triển kinh tế nông thôn của Ba Lan theo lý thuyết
nông thôn mới với việc giảm trợ cấp của chính phủ đối với các hoạt động sản xuất
nông nghiệp thay vào là các động thái tăng nguồn đầu tư thông qua việc triển khai
các dự án phát triển sản xuất nông nghiệp với nguồn ngân sách hỗ trợ từ khu vực và
phần đối ứng trong nước, thực hiện phân cấp trong quản lý từ Trung ương xuống
địa phương, đa dạng hóa hoạt động phi nông nghiệp, khai thác tính sáng tạo trong
cộng đồng dân cư …đã tạo ra những điểm nhấn, sự khác biệt trong tăng trưởng kinh
tế khu vực nông thôn.
Thứ hai, trong sản xuất nông nghiệp, chính sách tích tụ ruộng đất đã tạo ra sự
thay đổi về phương thức sản xuất của các trang trại nông nghệp.
Quá trình tích tụ đất đai nông nghiệp khu vực nông thôn Ba Lan trong thời gian
qua đã ghi nhận những kết quả hết sức to lớn, đóng góp vào sự tăng trưởng, nâng
cao khả năng cạnh tranh trong sản xuất nông nghiệp cũng như tạo tiền đề thu hút và
phát huy được những hoạt động phi nông nghiệp. Một số kết quả cụ thể đã đạt
được có thể kể đến như: (1) giảm thiểu được sự manh mún trong sản xuất với số
lượng các trang trại nhỏ giảm đi, các trang trại lớn tăng lên (các trang trại có diện
tích từ 2-3 ha với mức giảm từ 213 nghìn trang trại xuống 201nghìn trang trại năm
2016. Trong khi đó số lượng các trang trại có diện tích từ 20- 50 ha đã tăng từ 97
nghìn trang trại năm 2010 lên 102 nghìn trang trại năm 2016 và số trang trại lớn
hơn 50 ha cũng tăng từ 27-34nghìn trang trại năm 2016); (2) tránh được các hiện
tượng đầu cơ đất vì mục đích thương mại (quy định về chứng chỉ bằng cấp trong
102
mua bán đất trang trại diện tích lớn); (3) hạn chế từng phần đối với sự thôn tính đất
từ các thương gia ở các nước thành viên cũ; (4) hoàn thiện hơn hệ thống luật về đất
đai (sửa đổi bổ sung Luật Đất đai năm 1991 và năm 2016); (5) hoàn thiện hơn về
quá trình cổ phần hóa các trang trại nhà nước từ đó thúc đẩy sự chuyển dịch sang sở
hữu tư nhân.
Thứ ba, sản xuất nông nghiệp vẫn đóng vai trò quan trọng đối với sự phát
triển khu vực nông thôn
Hoạt động sản xuất nông nghiệp đã giải quyết công ăn việc làm cho 2,7 triệu
nông dân ( chiếm 19% dân số Ba Lan) [107 ], đóng góp vào tăng trưởng GDP ngày
càng tăng .
Thứ tư, năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của các trang trại được bổ
trợ bởi các chính sách, các sáng kiến trong phát triển kinh tế nông thôn
Việc thực thi chính sách hỗ trợ lãi suất ưu đãi dành cho các trang trại sản xuất (
Chương trình vay vốn ưu đãi qua ngân hàng Bank Gospodarstwa Krajowego
(BGK) trong thời gian qua đã giúp nâng cao khả năng năng tiếp cận tín dụng đối với
các trang trại. Bên cạnh đó, chương trình tài chính vi mô của EU phối hợp với
nguồn ngân sách của chính phủ Ba Lan cũng đã được triển khai ở cấp cộng đồng
trong thời gian qua, đã tạo thuận lợi hơn cho các trang trại, doanh nghiệp tiếp cận.
Hỗ trợ chuyển đổi giữa các thế hệ trong các trang trại: Theo quy định thì các
chủ trang trại cần phải chứng minh với các cơ quan chức năng về trình độ trong
quản lý sản xuất nông nghiệp nhằm phục vụ cho các mục đích như nhận được hỗ trợ
về giá nông sản cũng như khả năng mở rộng trang trại thông qua các hoạt động mua
bán đất đai. Trong khi số lượng các chủ trang trại ở Ba Lan đa phần là những lao
động trẻ ( trang trại gia đình) được thừa hưởng từ các thế hệ trước thường lúng
túng trong quản lý. Vì vậy, những sáng kiến về trang bị kiến thức không chỉ là tập
trung vào sản xuất mà Ba Lan còn hướng vào đào tạo những kỹ năng về quản lý tài
chính, phương pháp lập ngân sách.
Thiết lập các trung tâm dịch vụ khuyến nông, dịch vụ tư vấn nông nghiệp: Các
dịch vụ tư vấn nông nghiệp trong những năm gần đây đã chính thức được thiết lập ở
hầu hết các khu vực nông thôn Ba Lan. Các trung tâm này có trách nhiệm tư vấn
103
các phương thức sản xuất, lấy ý tưởng mới từ nghiên cứu nông nghiệp và thực hành
đổi mới để tạo ra các phương thức canh tác phù hợp với nhu cầu và khả năng của
các trang trại. Trong khi các trang trại sản xuất nông nghiệp không chịu trả phí tư
vấn, thì việc duy trì và vận hành của các tổ chức tư nhân ở Ba Lan trong thời gian
qua thông qua việc đầu thầu dự án từ các chương trình tài trợ EU và chính phủ.
Hỗ trợ các trang trại ứng dụng đổi mới: Các trang trại Ba Lan thường có nguồn
lực tài chính hạn chế, do vậy, rất khó để các trang trại này có thể mua hoặc áp dụng
được những thành tựu khoa học công nghệ. Giải pháp cho vấn đề này có thể thấy đó
là các chủ trang trại chủ động tham gia vào mạng lưới sáng kiến và hợp tác trao
đổi[114]. Tập trung đầu tư ngân sách cho ngành công nghiệp chế biến thực phẩm
làm động lực áp dụng khoa học công nghệ trong sản xuất.
Hỗ trợ mở rộng thị trường cho hàng nông sản: Các sản phẩm nông sản ngày
càng chiếm lĩnh thị trường trong khu vực đã chứng minh những thành công của các
sáng kiến mà chính phủ Ba Lan thực thi trong thời gian qua. Chương trình này được
triển khai từ khâu liên kết giữa các trang trại sản xuất đến việc tổ chức hội chợ, thiết
lập chuỗi cung ứng…Ví dụ, chương trình kết nối các nhà cung ứng hàng nông sản
đã tăng từ 20 nhóm cung ứng năm 2004 lên 1,137 nhóm vào năm 2015
(Wesołowska, 2016). Việc kết nối này không chỉ đảm bảo tăng ổn định sản lượng
cung ứng hàng nông sản, mà quan trọng hơn là thúc đẩy quá trình đầu tư thiết bị
máy móc nhằm mục đích bảo quản, lưu trữ và đóng gói các sản phẩm theo các quy
chuẩn của khu vực.
Phát triển các chuỗi cung ứng ngắn hàng nông sản: Đây được xem là một giải
pháp hết sức hữu ích nhằm giải quyết bài toán tiêu thụ sản phẩm hàng hóa cho các
trang trại sản xuất nhỏ. Các sản phẩm trong chuỗi được bán theo hình thức trực tiếp
tại các trang trại cũng như các chợ nông sản cuối tuần tại các trung tâm thành phố.
Thứ năm, tỷ trọng đóng góp trong các hoạt động phi nông nghiệp ngày càng cao
Với việc áp dụng lý thuyết phát triển kinh tế nông thôn mới của OECD,
trong đó thúc đẩy quá trình đa dạng hóa kinh tế nông thôn trong thời gian qua đã
mang lại kết quả rất khả quan, cụ thể:
Tỷ trọng đóng góp của các hoạt động phi nông nghiệp ( Giá trị tạo ra từ các
104
doanh nghiệp, trang trại sản xuất, du lich..) ngày càng tăng.
Sự tham gia tích cực của các thành phần kinh tế với các loại hình sản xuất
kinh doanh phi nông nghiệp đang trở nên phổ biến.
Mở ra nhiêu hơn các cơ hội việc làm cho lao động nông thôn, cải thiện thu
nhập…
Những kết quả này đã đưa thu nhập của người nông dân Ba Lan trong thời
gian qua đã tăng bình quân 10,1%/ năm giai đoạn 2004- 2012 tương ứng bằng gần
70% thu nhập người dân đô thị, năm 2016 con số này là 82% thu nhập bình quân
quốc gia [107].
Thứ sáu, cơ sở hạ tầng nông thôn tiếp tục được cải thiện
Cơ sở hạ tầng nông thôn cứng và mềm đã được chứng minh bằng các lý
thuyết mà NCS đã đề cập, là nhân tố quan trọng kết nối và đồng bộ hóa khu vực
nông thôn với khu vực thành thị. Ứng dụng lý thuyết này, trong suốt thời gian qua,
chính phủ Ba Lan đã tranh thủ những nguồn lực tài chính, các chương trình lớn của
Ủy ban Châu Âu, cùng với việc phát huy nội lực, thực hiện các chương trình hợp
tác công tư, khai thác nguồn lực từ các đơn vị tư nhân nhằm tập trung phát triển hệ
thống giao thông nông thôn, hệ thông thông tin liên lạc, xử lý nước thải nông
thôn… với những kết quả đã được phân tích ở trên, có thể thấy, hạ tầng nông thôn
Ba Lan trong giai đoạn sau khi hội nhập EU đã có những cải thiện rõ rệt và từng
bước tiệm cận với mặt bằng chung của EU 15.
Thứ bẩy, nguồn nhân lực lao động khu vực nông thôn ngày được cải thiện
Tỷ lệ lao động qua đào tạo đại học khu vực nông thôn được cải thiện tỷ lệ
thất nghiệp khu vực nông thôn giảm đáng kể từ 939 nghìn năm 2012 xuống 812
nghìn năm 2014. Xu hướng biến động việc làm đã có sự phân hóa mạnh với sự gia
tăng tỷ lệ việc làm cho nhóm lao động trẻ từ 50.4 lên 50.9%.
Thứ tám, khuôn khổ hệ thống các chính sách được áp dụng vào khu vực nông
thôn đã được điều chỉnh theo chuẩn chung của khu vực. Một số chính sách tiêu biểu
có tác động lớn có thể kể đến là:
Chính sách chuyển dịch cơ cấu đất đai của Ba Lan : Với việc điều chỉnh luật
đất đai 1991 và luật 2016, quá trình tích tụ đất đai ở Ba Lan đã đạt được những kết
105
quả hết sức ấn tượng, xu hướng sở hữu đã dịch chuyển mạnh từ hình thức sở hữu
nhà nước sang sở hữu tư nhân. Quá trình này được thực hiện qua cổ phần hóa các
trang trại nhà nước, hay những quy định ràng buộc về mua bán đất nông nghiệp đối
với người nước ngoài… Kết quả của việc điều chỉnh chính sách này đã tạo ra sự
dịch chuyển lớn về tích tụ với số lượng các nông trại nhỏ giảm dần, thay vào đó là
sự gia tăng các trang trại quy mô lớn, cơ sở cho sản xuất lớn và áp dụng những
thành tựu khoa học công nghệ trong sản xuất. Thực hiện tự do hóa thị trường đất đai
làm cơ sở thúc đẩy quá trình mua bán sát nhập các trang trại nông nghiệp.
Chính sách xúc tiến xuất nhập khẩu hàng nông sản: Hàng năm Bộ nông
nghiệp Ba Lan xây dựng các chương trình xúc tiến xuất khẩu trong và ngoài nước,
như chương trình TFF ( Try fine food) tập trung vào xúc tiến sản phẩm chất lượng
cao, xây dựng logo, dán nhãn sản phẩm, áp dụng các quy chuẩn của EU về bảo hộ
nguồn gốc sản phẩm PDO, bảo hộ chỉ dẫn địa lý PGI, bảo hộ các sản phẩm truyền
thống TSG…
Chính sách bảo hiểm nông nghiệp của Ba Lan: Bảo hiểm nông nghiệp là
một trong những công cụ quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững khu vực nông
thôn trước những rủi ro, sự biến động bất thường của thời tiết. Nhà nước với vai
trò thúc đẩy sự phát triển của thị trường bảo hiểm, thông qua các cơ quan, tổ chức
kinh tế tài chính trực tiếp quản lý và giám sát các hoạt động bảo hiểm nông nghiêp,
thực hiện đánh giá và hoàn thiện khung pháp lý luật bảo hiểm nông nghiệp. Các loại
hình bảo hiểm phổ biến được áp dụng phổ biến là bảo hiểm mùa vụ, bảo hiểm vật
nuôi.
Chính sách phát triển nguồn nhân lực cho nông nghiệp của Ba Lan: Phát
triển nguồn nhân lực thông qua đổi mới giáo dục đào tạo đã tạo ra một tầng lợp
nông dân trẻ và doanh nghiệp trẻ ở nông thôn giúp cho Ba Lan hết sức thành công
trong quá trình hiện đại hóa nông nghiệp và đô thị hóa nông thôn. Các chương trình
đào tạo nâng cao tay nghề, kỹ năng cho lao động khu vực nông thôn được xây
dựng dựa trên các bộ chỉ số để đánh giá hiệu quả của các khóa đào tạo. Linh hoạt
thiết lập các khóa đào tạo bán thời gian đã tạo điều kiện cũng như phát huy tối đa
khả năng tham dự của các lao động nông thôn. Thể chế hóa thành luật trong việc bắt
106
buộc các chủ trang trại phải có các chứng chỉ quản lý. Tạo cơ chế hỗ trợ doanh
nghiệp, trang trại sản xuất phi nông nghiệp tạo việc làm, tạo ra những sáng kiến mới
trong chia sẻ và tìm kiếm thông tin việc làm…
Cuối cùng, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính: So với các quốc gia
trong khu vực, đặc biệt là với các nước thành viên mới như Hungary, Slovakia…thì
Ba Lan được đánh giá là quốc gia sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực tài chính hỗ
trợ từ EU thông qua các chương trình như: Chương trình phát triển quốc gia
National Development Plan 2004-2006, chương trình tái thiết hiện đại hóa nông
thôn, chương trình phát triển nông thôn RDP. Từ giữa tháng 5/2004 đến
30/11/2015, Eu đã chuyển 22,45 tỷ euro, phí thành viên Ba Lan là 38,7 tỷ euro, cán
cân dương với Ba Lan là 83.57 tỷ euro.
3.3.3. Những hạn chế và nguyên nhân
Tích tụ đất đai của Ba Lan trong thời gian qua tuy đã đạt được những kết
quả, song khi so sánh với các quốc gia EU15 (Các nước thành viên cũ) cho thấy số
lượng trang trại nhỏ ở Ba Lan hiện còn chiếm tỷ trọng lớn, số lượng các trang trại
có diện tích từ 50-100 ha lại quá nhỏ, dẫn đến diện tích bình quân trang trại ở Ba
Lan đạt chưa đến 20ha so với mức bình quân chung của EU là 20 ha[122]. Bên cạnh
đó, việc hạn chế người nước ngoài mua đất, hay những quy định về việc có chứng
chỉ bằng cấp mới được phép mua bán đất nông nghiệp hiện cũng đang gây ra khá
nhiều những chỉ trích từ các nước thành viên cũ. Tích tụ đất nông nghiệp còn thấp
dẫn đến khả năng ứng dụng khoa học công nghệ của Ba Lan cũng bị hạn chế, dẫn
đến lợi thế so sánh thấp khi mà chi phí trên một đơn vị sản xuất cao.
Lĩnh vực nông nghiệp Ba Lan hiện vẫn là lĩnh vực thâm dụng lao động so
với các nước thành viên EU ( Tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm 11%
trong khi đó tổng giá trị gia tăng tạo ra cho nền kinh tế chỉ đạt 2,5% năm 2015)
Tại nhiều vùng nông thôn Ba Lan như khu vực Krakowski, sản xuất nông
nghiệp Ba Lan chưa bắt kịp với sự phát triển chung của quốc gia. Hoạt động sản
xuất nông nghiệp chưa phát triển bền vững, còn phụ thuộc nhiều vào các nguồn lực
hỗ trợ tài chính từ bên ngoài. Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế, trong
trường hợp ngân sách của CAP bị cắt giảm thì sẽ tác động mạnh đến nông nghiệp
107
Ba Lan.
Một số khu vực nông thôn Ba Lan vẫn duy trì hoạt động sản xuất nông
nghiệp là chính, việc đa dạng hóa các hoạt động kinh tế nông thôn còn bị hạn chế.
Khả năng ứng phó với các cú sốc từ bên ngoài còn yếu như lệnh cấm nhập
khẩu từ Nga đã tác động mạnh đến kim ngạch xuất khẩu của Ba Lan
Tại Ba Lan, mô hình trang trại gia đình “ Family farm” vẫn còn yếu trong kỹ
năng quản lý trang trại, khả năng sản xuất các sản phẩm có xuất khẩu chất lượng
cao thấp. Năm 2013, tỷ lệ các trang trại gia đình tao ra thu nhập 4000 Euro/ năm
chiếm đến 48%[120], dẫn đến thu nhập của hầu hết các trang trại gia đình này còn
quá thấp so với mức thu nhập bình quân quốc gia.
Tóm lại: Những hạn chế kể trên đang là những thách thức mà chính phủ Ba
Lan cần phải giải quyết trong chương trình phát triển kinh tế nông thôn giai đoạn
2014-2020 và tầm nhìn 2050.Trong khuôn khổ quy định chung về báo cáo, giám sát
và đánh giá mức độ hiệu quả các chương trình phát triển nông thôn của EU thì
chính phủ Ba Lan chịu trách nhiệm thu thập toàn bộ các dữ liệu sơ cấp, giám sát
hoạt động theo các bộ chỉ số được công bố, lập báo cáo và gửi Ủy ban châu Âu theo
mốc thời gian là tháng 6 hàng năm. Các chương trình phát triển nông thôn sẽ được
đánh giá bởi các cơ quan độc lập đánh giá hàng năm và giữa kỳ để đảm bảo đáp ứng
được các mục tiêu và kết quả đã đề ra.
3.3.4. Một số đánh giá về những sáng kiến, giải pháp mà Ba Lan đã thực hiện trong
phát triển kinh tế nông thôn
Theo tác giả luận án thì phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan trong những
năm đầu thập niên thế kỷ XXI tuy có một số hạn chế, song những kết quả mà Ba
Lan đã đạt được trên các góc độ về phát triển kinh tế nông thôn được xem là những
điểm khác biệt, mang tính đặc thù và làm bài học kinh nghiệm cho nhiều quốc gia
có thể tham khảo và học hỏi. Theo tác giả, các sáng kiến, giải pháp mang tính sáng
tạo mà Ba Lan đã áp dụng, cụ thể là:
Thứ nhất, về nội dung, phương pháp tiếp cận và cách thức triển khai trong
phát triển kinh tế nông thôn
Mục tiêu và nội dung phát triển kinh tế Ba Lan đã được chính phủ triển khai
108
thực thi theo đúng lý thuyết mà OECD đã xây dựng, cùng với đó, việc đánh giá mô
hình SWOT đối với tổng thể khu vực nông thôn được triển khai ở các giai đoạn
khác nhau, làm cơ sở để Ba Lan có những điều chỉnh về chính sách và chương trình
thực hiện có những điểm khác biệt trong chương trình chung của khu vực. Đây
chính là điểm nhấn đánh giá sự sáng tạo, quyết định đến sự thành công của Ba Lan
trong phát triển kinh tế nông thôn.
Mặc dù lĩnh vực sản xuất nông nghiệp Ba Lan hiện chỉ đóng góp một tỷ
trọng nhỏ vào GDP quốc gia, tuy nhiên, đây vẫn là lĩnh vực mà Ba Lan xác định
cần phải thúc đẩy hơn nữa trong việc gia tăng tính cạnh tranh hơn nữa so với các
quốc gia trong khu vực. Những kết quả đạt được trong việc tiếp cận thị trường EU
15 đối với các sản phẩm nông nghiệp được ghi nhận ở nhiều sản phẩm, với kim
ngạch xuất khẩu ngày càng cao, chiếm tỷ trọng chi phối thị trường lớn…
Thứ hai, đa dạng hóa kinh tế khu vực nông thôn với việc phát triển các loại
hình phi nông nghiệp ngày càng phổ biến
Đa dạng hóa kinh tế nông thôn chính là yêu cầu cấp thiết mà chính phủ Ba
Lan phải thực hiện nhằm giảm mức thâm dụng lao động trong nông nghiệp, tăng
thu nhập người dân, giảm thất nghiêp… một số chính sách được chính phủ thực
hiện như: Đầu tư vào hệ thống cơ sở hạ tầng, kỹ thuật số, thực hiện các chương
trình tiếp cận thị trường, các chương trình đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cho
lao động nông thôn. Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động tại khu vực nông
thôn, Chính phủ Ba Lan ban hành các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận
nguồn vốn tín dụng, phát triển thị trường…
Phối kết hợp với EU trong các chương trình “ đổi mới và hỗ trợ doanh
nghiệp giai đoạn 2014-2020” trong việc cung cấp các sản phẩm nông nghiệp chất
lượng cao, nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ.
Phân tích các rào cản đối với các hoạt động kinh doanh từ đó đưa ra các
chính sách thúc đẩy mô hình tự chủ kinh doanh- Self employment trong khu vực
nông thôn.
Thiết lập mạng lưới các tổ chức, viên nghiên cứu và các tường đại học nhằm
109
hỗ trợ các doanh nghiệp khu vực nông thôn.
Áp dụng các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp như miễn giảm thuế, trợ cấp
trả lương cho người lao động, xây dựng trang web hỗ trợ khởi nghiệp … nhằm thu
hút các doanh nghiệp thiết lập các văn phòng hay dịch chuyển từ khu vực đô thị về
khu vực nông thôn.
Thứ ba, thị trường lao động nông thôn được thay đổi mạnh mẽ bởi sự phân
cấp trong quản lý, sự linh hoạt trong đào tạo, dạy nghề
Thực hiện mô hình phân cấp quản lý các trường nghề đặt dưới sự quản lý và
giám sát của Bộ nông nghiệp và PTNT.
Linh hoạt trong các chương trình đào tạo lao động nông thôn nhằm trang bị
cho lao động nông thôn các kỹ năng trong lao động sản xuất nông nghiệp cũng như
có khả năng nắm bắt các kỹ năng trong các doanh nghiệp phi nông nghiệp.
Thực hiện linh hoạt các chương trình đào tạo từ nội dung đến việc áp dụng
các phương thức học linh hoạt như nông dân có thể tham dự vào các thời điểm
thuận lợi ( part time), các khóa ngắn hạn, kết hợp giữa học lý thuyết và thực hành
tại trang trại…
Cho phép cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo nghề cũng như thực thi chính
sách thị trường lao động tích cực.
Thứ tư, lồng ghép thực hiện các chương trình khu vực với chương trình trong
nước như:
Chương trình cải thiện khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực nông nghiệp.
Mục tiêu chính của các chương trình này nhằm giải quyết tình trạng thiếu hụt trong
đầu tư về hạ tầng, hoạt động sản xuất nông nghiệp còn đang manh mún của các
trang trại nhỏ… dẫn tới sự cạnh tranh kém, hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông
nghiệp thấp… Chính phủ Ba Lan đã ban hành các chính sách hỗ trợ về tài chính,
cũng như ban hành các hướng dẫn nhằm điều chỉnh cơ cấu hoạt động của các trang
trại. Một số chính sách hỗ trợ tái cơ cấu các trang trại cụ thể như: Hỗ trợ tài chính
trong mua bán trang trại, hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn, hỗ trợ thuế
đối với các doanh nghiệp đầu tư khu vực nông thôn, hỗ trợ bảo hiểm trang trại…
Cải thiện khả năng cạnh tranh đối với các sản phẩm nông nghiệp Ba Lan đòi hỏi
110
Chính phủ Ba Lan tiếp tục phải thực hiện các nhóm giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt
động tích tụ đất đai. Các giải pháp đồng bộ cũng được thực hiện trong thời gian qua
như thúc đẩy sự chuyển dịch các diện tích đất nông nghiệp từ các trang trại kém
hiệu quả hoặc không sử dụng đất sang cho các trang trại hiệu quả hơn (quá trình cho
thuê tái cơ cấu các trang trại nhà nước trong những năm 2004). Việc hiện đại hóa kỹ
thuật của các trang trại, phát triển dịch vụ sản xuất, tạo ra chuỗi sản xuất hiệu quả,
đặc biệt chú trọng tới chất lượng sản phẩm có sự kết nối giữa nghiên cứu triển khai
tới thương mại là cần thiết. Mặt khác để đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu hợp lý, công
cụ chính sách hỗ trợ có mục tiêu cho các nông dân trẻ sẽ được triển khai.
Thứ năm, sử dụng các chính sách tài chính nhằm can thiệp vào thị trường mua
bán bất động sản được thực hiện thông qua việc sử dụng tín dụng ưu đãi (ví dụ, hỗ
trợ lãi suất) và bảo lãnh vốn vay và là các hình thức chủ yếu hỗ trợ cho khu vực
nông thôn của Chính phủ. Hỗ trợ này được dành cho các ngân hàng hợp tác và
thương mại thông qua các ARMA (Cơ quan tái thiết và hiện đại hóa nông nghiệp),
các ARR và APA (Cơ quan quản lý tài sản nông nghiệp). Các công cụ tài chính đã
thúc đẩy quá trình tích tụ ruộng đất ở Ba Lan ngày càng tiệm cận với mức bình
quân chung trong khu vực EU.
Thứ sáu, thực hiện phân cấp với việc tăng cường vai trò của cấp địa phương.
Với việc chuyển đổi sang một nền dân chủ nghị viện, chính phủ Ba Lan đã thực
hiện cải cách, hợp nhất nhiều khu vực nông thôn, tạo ra một cấp chính quyền trung
gian giữa cấp Trung ương và địa phương. Việc phân cấp như vậy làm tăng tầm quan
trọng của các khu vực trong việc đề ra các chính sách phát triển kinh tế nông thôn.
Kết quả quá trình phân cấp như vậy đã tạo ra quyền hạn của cấp trung gian trong
việc cung cấp dịch vụ và cơ sở hạ tầng khu vực nông thôn.
Thứ bảy, thiết lập hệ thống cung cấp thông tin nông nghiệp, các trung tâm
khuyến nông nhằm tiếp cận rộng hơn khu vực nông thôn.
Một trong những sáng kiến mà chính phủ Ba Lan thực hiện trong các chương
trình phát triển nông thôn chính là việc thiết lập hệ thống thu thập dữ liệu trang trại
cũng như thành lập các cơ quan hỗ trợ phát triển nông thôn. Các trung tâm thông tin
nông nghiệp (Agro-Info centres.) được thành lập với mục tiêu chia sẻ các thông tin
111
về khu vực nông thôn giữa EU và Ba Lan như quy trình sản xuất nông nghiệp và
phổ biến tài liệu thông tin, hướng dẫn, thông tin về cơ hội tài trợ, trả lời các câu hỏi,
dịch vụ đào tạo và tư vấn nhắm mục tiêu khác nhau.
Thứ tám, thay đổi hình thức tiếp cận trong phát triển kinh tế nông thôn ( thực
hiện các chương trình LEADER)
Tiếp cận từ dưới lên: Các nhân tố địa phương ( dân cư khu vực nông thôn, các
nhóm quan tâm về kinh tế, xã hội, đại diện của các tổ chức công tư) tham gia vào
các quyết định chiến lược và lựa chọn các mục tiêu ưu tiên ở khu vực.
Tiếp cận theo khu vực: các tiếp cận vào các khu vực nhỏ, đồng nhất, gắn kết xã
hội, thường được đặc trưng bởi các yếu tô truyền thống chung, bản sắc địa phương,
ý thức về nhu cầu và mong muốn chung, như là khu vực mục tiêu để thực hiện
chính sách. Có một khu vực như vậy được xem như là một điều kiện tham chiếu sự
công nhận các điểm mạnh và điểm yếu của địa phương, các mối đe dọa và cơ hội,
nội sinh tiềm năng và xác định các điểm nghẽn lớn cho bền vững phát triển.
Hợp tác đa lĩnh vực: nhấn mạnh các nhu cầu được khám phá theo cách tích hợp
hơn tập trung cho nhu cầu phát triển các lĩnh vực cụ thể nhằm đạt được các mục
tiêu chung mong muốn.
Kết nối các mạng lưới trong khu vực nông thôn với việc tham gia của các tổ
chức phi chính phủ, đại điện của các cấp chính quyền, doanh nghiệp và người dân.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Chương trình phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan trong những thập niên đầu
thế kỷ XXI đã được chính phủ Ba Lan lập ra dựa trên việc phân tích đánh giá trong
ma trận SWOT với việc làm rõ những điểm mạnh, điểm yếu, để đề ra chương trình
hành động nhằm tận dụng những cơ hội để phát triển, thể hiện: Hoạt động sản xuất
nông nghiệp cần phải được cải thiện để nâng cao khả năng cạnh tranh, quá trình tích
tụ ruộng đất với số lượng lớn các trang trại nhỏ vẫn còn tồn tại, nâng cao năng suất
lao động, tăng cường các chương trình đào tạo, nâng cao tay nghề cho lao động
nông thôn, giảm thiểu sự phát triển còn chênh lệch giữa các vùng, tăng đầu tư cho
cơ sở hạ tầng nông nghiệp, hoàn thiện chuỗi cung ứng sản phẩm nông nghiệp, và
112
thực thi những điều chỉnh đối với vai trò của chính phủ trong việc tiếp cận sự phát
triển khu vực nông thôn… là những nội dung chính được trình bày trong chương
này.
Trên cơ sở các tiêu chí đánh giá được đặt ra chương 1, lý thuyết về phát triển
kinh tế nông thôn theo mô hình nông thôn mới, các nội dung trong chương trình
phát triển kinh tế nông thôn, tác giả luận án đã đánh giá những thành công mà chính
phủ Ba Lan đã đạt được như: Quá trình tích tụ đất đai nông nghiệp đã tạo ra xu thế
hợp nhất các trang trại nhỏ và gia tăng các trang trại lớn, tạo sự thuận lợi hơn trong
việc áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật, giảm chi phí đầu vào trong sản
xuất, tạo ra những sản phẩm chất lượng cao và ngày càng chiếm vị trí chi phối thị
trường khu vực như các sản phẩm táo, dâu…Bên cạnh đó, những sáng kiến thúc đẩy
sự phát triển sản xuất nông nghiệp như hỗ trợ tín dụng, chuyển đổi trang trại, tư vấn
nghề nghiệp… đã mang lại những thành công trong sản xuất nông nghiệp.
Trong lĩnh vực phi nông nghiệp với viêc áp dụng đồng bộ các giải pháp về hỗ
trợ, tài chính, thuế … đã tạo ra sự dịch chuyển, đăng ký mới các doanh nghiệp trong
khu vực nông thôn, sự bùng nổ về mô hình tự chủ kinh doanh... Cùng với đó một số
lượng lớn các trang trại sản xuất nông nghiệp cũng đã thực hiện chuyển đổi sang
phi nông nghiệp như kinh doanh lĩnh vực du lịch nông thôn.
Vai trò của chính phủ Ba Lan đối với phát triển khu vực nông thôn cũng đã có
sự thay đổi căn bản trong việc tiếp cận từ dưới lên, thực hiện phân cấp mạnh trong
quản lý cũng như thúc đẩy các ý tưởng sáng tạo từ cộng đồng.
Bên cạnh những thành công, thì phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan vẫn còn
có những hạn chế như nông nghiệp Ba Lan hiện vẫn là lĩnh vực thâm dụng lao động
so với các nước thành viên EU, hoạt động sản xuất nông nghiệp tại nhiều khu vực
chưa bắt kịp với sự phát triển chung của quốc gia, chưa thực sự bền vững, quá trình
đa dạng hóa các hoạt động kinh tế nông thôn còn bị hạn chế, khả năng ứng phó với
các cú sốc từ bên ngoài còn yếu…Đánh giá những điểm tương đồng, khác biệt với
Ba Lan trong các chương trình phát triển kinh tế nông thôn ở Việt Nam, tác giả rút
ra những bài học kinh nghiệm, những hàm ý về mặt chính sách sẽ là những nội
113
dung chính được tác giả trình bày trong chương tiếp theo.
CHƯƠNG 4: BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO
VIỆT NAM
4.1. Tương đồng và khác biệt trong phát triển kinh tế nông thôn giữa Ba Lan
và Việt Nam
4.1.1.Một số điểm tương đồng giữa hai nước
4.1.1.1. Khung pháp lý chính sách đối với phát triển kinh tế nông thôn:
Việt Nam và Ba Lan đều thực hiện cải cách chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế theo định hướng thị trường, xóa bỏ dần cơ chế
trợ cấp trong sản xuất nông nghiệp, thực hiện tự do hóa thị trường hàng hóa nông
sản, thị trường đầu vào cho sản xuất nông nghiêp. Trong quá trình chuyển đổi này,
khu vực nông thôn chịu nhiều tác động của quá trình chuyển đổi.
Quá trình chuyển đổi này song hành, gắn kết chặt chẽ, tác động qua lại với
quá trình mở cửa nền kinh tế, hội nhập với khu vực và thế giới. Trường hợp của Ba
Lan là gia nhập EU còn Việt Nam tham gia vào Cộng đồng ASEAN cùng với tham
gia vào hàng loạt các hiệp định tự do hóa thương mại. Cả hai nước đều là thành viên
của Tổ chức thương mại thế giới, và chịu những điều tiết chặt chẽ trong sản xuất và
thương mại nông sản.
Trong quá trình thực thi chuyển đổi nền kinh tế thì phát triển kinh tế nông
thôn với mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng, giải quyết việc làm từ đó cải thiện cuộc
sống người dân khu vực nông thôn cũng được Chính phủ Việt Nam hết sức coi
trọng, cụ thể:
Tại các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc năm 2001, 2006 vấn đề phát triển kinh tế
nông thôn đã được chính phủ đưa ra gắn với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp và nông thôn, giải giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp,
nông thôn và nông dân... Phát triển công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Thể chế hóa
các nội dung của các kỳ đại hội, trong giai đoạn 2000 – 2007, Chính phủ đã ban
hành 34 Nghị định và Quyết định về các lĩnh vực chính sách đầu tư, hỗ trợ cho
nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Từ 2008 đến nay, chính phủ đã ban hành 8 Nghị quyết, 45 Nghị định; Thủ
114
tướng Chính phủ ban hành 137 Quyết định có liên quan về thực hiện các dự án,
chương trình, Chương trình mục tiêu quốc gia… và các chủ trương cụ thể cho đầu
tư liên quan đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Đại hội XI (từ ngày 12 -
19/1/2011) đề ra chiến lược phát triển kinh tế, xã hội giai đoạn 2011- 2020 nhấn
mạnh: "Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững…
Đổi mới cơ bản phương thức tổ chức kinh doanh nông sản. Đẩy nhanh áp dụng tiến
bộ khoa học và công nghệ hiện đại trong sản xuất.”.
Tính đến nay, các Bộ, cơ quan ngang bộ đã ban hành 138 Thông tư, Thông tư
liên bộ hướng dẫn các Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính
phủ, cụ thể như: (1) Nghị quyết số 26/2008/NQ-TW về “Về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn” ; (2) Quyết định 193/QD-TTg của thủ tướng chính phủ về “ phê duyệt
chương trình rà soát quy hoạch xây dựng nông thôn mới” ; (3) Nghị định
02/2010/ND-CP về “ chính sách khuyến nông giai đoạn 2010- 2020”; (4) Quyết
định 1956/QD-TTg ngày 27/11/2009 của thủ tướng chính phủ Phê duyệt Đề án
“Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”; (5) Nghị định Số:
41/2010/NĐ-CP về “ Chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông
thôn”; (6) Thông tư Số: 174/2009/TT-BTC về “ Hướng dẫn cơ chế huy động và
quản lý các nguồn vốn tại 11 xã thực hiện đề án nông thôn mới”; (7) Nghị định
210/2013/NĐ-CP của Chính phủ về “chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư
vào nông nghiệp, nông thôn”; (8) Một số chương trình mục tiêu quốc gia giảm
nghèo đối với khu vực nông thôn như chương trình 135.
4.1.1.2. Quan điểm phát triển kinh tế nông thôn
Cả hai quốc gia đều thể chế hóa các chính sách phát triển nông thôn bằng các
chương trình cụ thể:
Ba lan bắt đầu thực hiện các chương trình chiến lược phát triển nông thôn
theo các tiêu chuẩn của khu vực. Các chương trình phát triển nông thôn được chia
theo các giai đoan như chương trình giai đoạn 2004-2006; chương trình 2006-2013
và chương trình 2014- 2020.
Đối với Việt Nam, thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của
Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông
115
thôn, ngày 16/4/2009, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 491/QĐ-TTg
ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới; Ngày 04/6/2010, Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 800/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình
mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020.
Chương trình phát triển nông thôn của cả hai quốc gia đều bao hàm hai hợp
phần chủ yếu là phát triển sản xuất nông nghiệp và thúc đẩy các hoạt động đa dạng
hóa kinh tế nông thôn.
Phát triển sản xuất nông nghiệp trong khu vực nông thôn:
Ba Lan là tập trung nâng cao sức cạnh tranh của các trang trại sản xuất nông
nghiệp, thúc đẩy quá trình tích tụ ruộng đất, tạo ra những trang trại có diện tích lớn
để áp dụng các thành tựu về khoa học kỹ thuật, đưa các sáng kiến vào trong phát
triển sản xuất như: Hỗ trợ các trang trại tiếp cận các nguồn tài chính với lãi suất ưu
đãi, thiết lập các trung tâm tư vấn khuyến nông để đồng hành với các trang trại
trong quá trình sản xuất; hỗ trợ tìm kiếm thị trường trong và ngoài nước…
Với Việt Nam, quá trình sản xuất nông nghiệp cũng được nhấn mạnh trong
chương trình phát triển nông nghiệp với việc ứng dụng khoa học công nghệ và tiến
bộ kỹ thuật như: (1) Xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, sản xuất hàng hoá lớn, đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu sản xuất nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả năng
cạnh tranh; (2) Tập trung nguồn lực cho phát triển một số ngành hàng chiến lược,
những ngành hàng mà Việt Nam có lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế; (3)
Tăng cường đầu tư và trợ giúp kỹ thuật, công nghệ cho các tiểu ngành có giá trị gia
tăng cao trong nông nghiệp. và (4) Sản xuất nông nghiệp đảm bảo an ninh lương
thực.
Đối với các hoạt động phi nông nghiệp:
Chương trình phát triển nông thôn với việc thúc đẩy đa dạng hóa kinh tế
nông thôn thông qua việc thực hiện các nhóm giải pháp như thu hút các doanh
nghiệp từ các khu đô thị vào khu vực nông thôn, thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ
cấu kinh tế, điển hình có một số lượng lớn các trang trại đã tham gia vào hoạt động
du lịch nông thôn.
Với Việt Nam, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn với
116
việc đa dạng hóa các hoạt động kinh tế nông thôn, khuyến khích và tạo điều kiện
phát triển các hoạt động phi nông nghiệp trong nông thôn, ưu tiên phát triển công
nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản gắn với vùng nguyên liệu và thị trường.
Cơ cấu kinh tế nông thôn Việt Nam được coi là hợp lý, hiện đại khi tỷ trọng
giá trị của các ngành phi nông nghiệp, nhất là dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc dân
của khu vực nông thôn ngày càng tăng, tỷ trọng giá trị của nông, lâm nghiệp, thuỷ
sản giảm.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn qua các chương trình đào tạo
nghề, tập huấn kỹ năng quản lý trang trại sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào trong sản xuất cả nông nghiệp và phi nông nghiệp là những định hướng
phát triển thị trường lao động nông thôn ở Ba Lan.
Với Việt nam, chương trình phát triển lao động nông thôn cũng đã dành
những ưu tiên cho công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động nông thôn. Thúc
đẩy chuyển dịch nhanh và bền vững một bộ phận lao động nông nghiệp sang các
lĩnh vực khác theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế từng vùng nông thôn, tăng thu
nhập cho lao động nông thôn bằng phát triển nhiều việc làm theo lợi thế từng vùng.
Phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn:
Cả hai quốc gia đều có chiến lược phát triển kết cấu hạ tầng khu vực nông
thôn cụ thể. Trong đó xác định: Hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn bao gồm: hệ
thống hạ tầng kinh tế, kỹ thuật như: điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc,
phương tiện đi lại... , và hệ thống hạ tầng văn hóa - xã hội như các cơ sở y tế (phòng
khám đa khoa, bệnh viện), giáo dục (mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học
phổ thông, dạy nghề... ) ở nông thôn, các loại hình dịch vụ văn hoá như thư viện,
bưu điện hay điểm văn hóa xã[44].
4.1.1.3. Điều kiện kinh tế xã hội khu vực nông thôn
Cả Ba Lan và Việt Nam đều có những điểm tương đồng về các điều kiện
kinh tế xã hội ở khu vực nông thôn.
Đối với Ba Lan cũng cho thấy, đây là quốc gia nằm ở Trung âu, tiếp giáp với
nhiều quốc gia khác, khu vực nông thôn cũng chia thành các khu vực, quận huyện,
117
khu vực nông thôn hẻo lánh, khu vực giáp ranh đô thị. Khu vực nông thôn chiếm
đến 93% diện tích lãnh thổ với hơn 40% dân số. Mật độ dân số ở Ba Lan cũng khá
cao với 83 người/km2. [124]
Đối với Việt Nam, theo số liệu thông kê cho thấy năm 2016, Việt Nam có
8.978 xã và 79.898 thôn, ấp, bản, giảm 93 xã và giảm 1.006 thôn so với năm 2011.
Số xã, thôn giảm chủ yếu là do quá trình đô thị hóa, có sự tách chuyển một số địa
bàn nông thôn sang khu vực thành thị ( Bảng 4.1). Tổng số nhân khẩu trong khu
vực nông thôn Việt Nam năm 2016 xấp xỉ 57 triệu người chiếm 70% dân số cả
nước.
Bảng 4.1: Số lượng các thôn xã Việt Nam
Số lượng Nam 2016 so với 2011 Cả nước Đơn vị 2011 2016 Số lượng Tỷ lệ %
9,071 8,978 -93 98.97 Xã Số xã
80,904 79,898 -1,006 98.76 Thôn Số thôn
15,343,853 15,987,527 643,674 104.19 Hộ Số hộ
Số nhân khẩu Người 58,201,006 57,668,913 -532,093 99.09
Nguồn: CSO 2017 Báo cáo tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm
2016 [49]
Theo phân loại của tổng cục thống kê, thì các vùng nông thôn Việt Nam
được chia thành vùng đồng bằng sông hồng, vùng trung du và miền núi phía bắc,
vùng bắc trung bộ và duyên hải miền trung, vùng tây nguyên, Đông nam bộ và đồng
bằng sông cửu long. Khu vực đông dân nhất tập trung vào Đồng bằng sông hồng và
khu vực Bắc trung bộ với 13 triệu dân và thấp nhất vùng Tây nguyên với 3,6 triệu
dân.
4.1.1.4.Thực trạng phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan và Việt Nam
Thứ nhất, sản xuất nông nghiệp trong khu vực nông thôn
Thực tiễn phát triển sản xuất nông nghiệp của cả hai quốc gia đều có tốc độ
tăng trưởng nhanh sau những năm thực hiện đổi mới.
Tại Ba Lan, sản xuất nông nghiệp với tăng đều hàng năm , đưa giá trị sản
118
lượng nông nghiệp trong những năm gần đây đạt giá trị cao, đưa Ba Lan trở thành
trung tâm cho hoạt động sản xuất nông nghiệp và chế biến lương thực thực phẩm
của cả khu vực EU.
Đối với Việt Nam, sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới thì phát
triển nông nghiệp, nông thôn được coi là vấn đề then chốt, quyết định đến sự thành
công của quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung và khu vực nông thôn nói
riêng. Hoạt động sản xuất nông nghiệp được ghi nhận có sự tiến bộ vượt bậc. Việt
Nam đã trở thành một trong những nước có kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản lớn
nhất thế giới. Những điểm nổi bật của ngành nông nghiệp Việt Nam là:
Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp liên tục tăng: Trong 30 năm đổi mới (1986 -
2016), nông nghiệp Việt Nam đạt được mức tăng trưởng nhanh và ổn định trong
một thời gian dài, cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực. Giá trị sản
xuất nông nghiệp của Việt Nam tăng trưởng trung bình với tốc độ 4,06%/ năm giai
đoạn (1986 - 2015) [ 52]. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với nhịp độ khá cao theo
hướng nâng cao năng suất, chất lượng.
Bảng 4.2: Tăng trưởng ngành nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 2005- 2016
2005
2009
2010
2013
2014
2015
2016
Tăng trưởng GDP%
8.44
5.32
6.78
5.42
5.7
6.7
6.1
Tăng trưởng nông nghiệp
3.69
1.82
2.78
2.96
3.4
2.4
1.4
Nguồn: Tổng cục thống kê, WB 2017[49]
Cả hai quốc gia đều có tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần:
Đối với Ba Lan, đóng góp của hoạt động sản xuất nông nghiệp giảm dần từ
mức 4,5% năm 2004 xuống 3,3% năm 2010, 2,6% năm 2014 xuống 2,3% năm 2015
và 2,4% năm 2016[86]
Đối với Việt Nam, trong giai đoạn 2011-2015, nông nghiệp phát triển khá
toàn diện trên các lĩnh vực và đang chuyển dịch theo hướng tăng các sản phẩm có
lợi thế, sản xuất hàng hóa từng bước hiện đại hóa. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP
giảm từ 20,1% năm 2011 xuống còn 19,7% năm 2013 và 17,4% năm 2015. GDP
theo giá thực tế và giá so sánh ở nhóm ngành nông, lâm, thủy sản của Việt Nam đều
có xu hướng tăng lên. Trong đó, GDP theo giá thực tế năm 2012 cao gấp hơn 3 lần
119
năm 2005, đạt 638.773 tỷ đồng[ 25].
Năng suất lao động trong sản xuất nông nghiệp của cả hai nước tăng nhưng
vẫn thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực:
Với Ba Lan, mặc dù có sự cải thiện đáng kể về năng suất lao động trong lĩnh
vực sản xuất nông nghiệp, song so với các lĩnh vực khác thì năng suất lao động
nông nghiệp trong khu vực nông thôn của Ba Lan cũng vẫn còn thấp hơn rất nhiều
so với khu vực trung gian và đô thị. Đặc biệt, tại nhiều khu vực phía Đông nới có
nhiều trang trại nhỏ thì năng suất lao động nông nghiệp Ba Lan thấp hơn rất nhiều
so với các vùng nông thôn khác, ví dụ khu vực Rzeszowski, năng suất lao động năm
2015 cũng chỉ đạt 3,320 USD/ lao động ( OECD, 2016k).
Với Việt nam, năng suất lao động cũng đã tăng gần gấp đôi từ 16,3 triệu
đồng năm 2010 lên khoảng 31 triệu đồng năm 2015. Giá trị sản phẩm thu được trên
1ha đất trồng trọt đã tăng từ 54,6 triệu đồng/ha năm 2010 lên 79,3 triệu đồng/ha
năm 2014 và khoảng 82 - 83 triệu đồng/ha năm 2015…Tuy nhiên, theo số liệu trong
hình 4.1 cho thấy năng suất lao động nông thôn của Việt Nam hiện vẫn rất thấp so
với các nước như Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan.
Nguyên nhân của tình trạng này liên quan đến nhiều vấn đề như cơ sở hạ
tầng nông nghiệp còn kém chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, quy mô ruộng đất còn
manh mún, phân tán, mức độ cơ giới hóa nông nghiệp còn thấp, chưa thu hút được
đầu tư từ doanh nghiệp, chưa nhân rộng được những mô hình tiến tiến của tư
nhân…
Hình 4.1: Năng suất lao động nông nghiệp của Việt Nam so với một số
120
các quốc gia
Nguồn: Bộ NN&PTNT 2018 “Chương trình hỗ trợ quốc tế, bản tin ISG”
Ba Lan và Việt Nam đều thực hiện các chính sách tích tụ đất đai, một phần
lớn đất nông nghiệp được chuyển đổi mục đích cho quá trình công nghiệp hóa
Cả hai quốc gia đều xác định, tích tụ ruộng đất là điều kiện tiên quyết đưa
sản xuất nông nghiệp phát triển với nền tảng là áp dụng khoa học kỹ thuật, thiết bị
máy móc, giảm các chi phí đầu vào…
Việt Nam, trong suốt thời gian qua, ruộng đất được tích tụ với khâu đột phá
là dồn điền đổi thửa và xây dựng cánh đồng lớn. Việt Nam hiện có 31 triệu ha đất,
trong đó đất nông nghiệp chỉ chiếm 35% tương ứng với 10.9 triệu ha. Diện tích đất
nông nghiệp ngày càng giảm do quá trình đô thị hóa[ 49]. Mặc dù có xu hướng
giảm, song đa số người dân khu vực nông thôn tham gia vào hoạt động sản xuất
nông nghiệp, một số khu vực nông thôn có tỷ lệ người dân tham gia cao trong năm
2016 như Lai Châu 90,8%, Điện Biên 95,1%[ 49].
Quá trình tích tụ ruộng đất được thực hiện trên phạm vi cả nước. Diện tích
bình quân một thửa đất sản xuất nông nghiệp tính chung cả nước đã tăng từ
1.619,7 m2 năm 2011 lên 1.843,1 m2. Một số khu vực có mức tăng lớn như khu
vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung tăng từ 1.130,9 m2/thửa lên 1.195,0
m2/thửa... Số thửa bình quân trên hộ sản xuất nông nghiệp giảm. Mô hình cánh
đồng mẫu lớn được triển khai tại nhiều địa phương. Tính đến 01/7/2016, cả nước đã
xây dựng được 2.262 cánh đồng lớn; trong đó 1.661 cánh đồng lúa; 162 cánh đồng
rau; 95 cánh đồng mía; 50 cánh đồng ngô; 38 cánh đồng chè búp và 256 cánh đồng
lớn trồng các loại cây khác.
Hoạt động tích tụ ruộng đất, dồn điền đổi thửa trong sản xuất nông nghiệp
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cơ giới hóa sản xuất, đẩy mạnh thâm canh, nâng cao
hiệu quả sản xuất và đặc biệt là tạo ra ngày càng nhiều vùng sản xuất nông sản
hàng hóa quy mô lớn, chất lượng cao đang có xu hướng ngày càng tăng..
Hai quốc gia đều có vị thế trong khu vực và trường quốc tế với hoạt động
xuất khẩu hàng nông sản tăng, nhiều sản phẩm của hai nước có tỷ trọng lớn trên thị
121
trường thế giới.
Trong những năm qua, cùng với quá trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu, Việt
Nam đã phát huy được các lợi thế đặc thù về điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng để tạo
ra các sản phẩm nông sản có giá trị xuất khẩu cao. Hiện tại, Việt Nam đã có 10 mặt
hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD, bao gồm: gạo, cà phê, cao su, điều, tiêu, sắn, rau
quả, tôm, cá tra, lâm sản. [8].
Năm 2018, 4 mặt hàng xuất khẩu quan trọng của nhóm nông sản, thủy sản
đạt mức tăng trưởng dương so với năm 2017 là: thủy sản đạt kim ngạch 8,8 tỷ USD,
tăng 5,8%; rau quả đạt 3,81 tỷ USD, tăng 8,8%; cà phê đạt 1,88 triệu tấn, trị giá đạt
3,54 tỷ USD, tăng 19,9% về lượng và 1,1% về trị giá; gạo đạt 6,12 triệu tấn, trị giá
đạt 3,06 tỷ USD, tăng 5,1% về lượng và tăng 16,3% về trị giá [8].
Năm 2019, kim ngạch xuất khẩu nhóm mặt hàng nông sản, thủy sản của Việt
Nam đều đạt mức tăng trưởng cao so với các năm trước đó, cụ thể, hàng thủy sản
đạt 8,3 tỷ USD, tăng 194 triệu USD so với năm 2017; rau quả đạt 3,7 tỷ USD; cà
phê đạt 1,6 triệu tấn, trị giá đạt 2,85 tỷ USD ( Bảng 4.3).
Bảng 4.3: Một số hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam năm 2016
năm 2019
Mặt hàng
ĐVT Lượng Trị giá
năm 2017 Lượng Trị giá
8,543,583
0
8,349,026
3,747,061
0
3,507,986
455,563
3,288,717
353
3,515,688
1,653,265
2,854,609
1,566
3,500,447
137,102
236,431
149
232,544
283,836
714,139
215
1,118,229
6,366,469
2,805,354
5,819
2,633,479
1000 USD " Tấn " " " "
2,533,711
966,877
0
1,036,714
Hàng hải sản Hàng rau quả Hạt điều Cà phê Chè Hạt tiêu Gạo Sắn và các sản phẩm từ sắn
Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Tổng cục thống kê, báo cáo xuất nhập khẩu
Bộ công Thương năm 2018.
Thứ hai, các hoạt động phi nông nghiệp được quan tâm và tỷ trọng lớn trong
kinh tế nông thôn
Cũng tương tự như Ba Lan cơ cấu kinh tế nông thôn Việt Nam trong giai
đoạn 2011-2015 thể hiện các hoạt động sản xuất nông nghiệp giảm dần, thay vào đó
122
là các hoạt động phi nông nghiệp.
Theo số liệu thống kê cho thấy các hộ nông lâm thủy sản đã giảm tương đối
mạnh so với năm 2011 với mức giảm tương ứng là 8,49%, thay vào đó số lượng các
hộ công nghiệp và dịch vụ tăng lên là 5,42% và các hộ dịch vụ là 1,17%. Điều này
cho thấy, quá trình đa dạng hóa kinh tế khu vực nông thôn trong những năm qua đã
tạo ra sự dịch chuyển mạnh từ nông nghiệp sang hoạt động sản xuất phi nông
nghiệp trong khu vực nông thôn.
Thực tiễn các doanh nghiệp phi nông nghiệp tại các khu vực nông thôn Việt
Nam hiện nay là các doanh nghiệp nhỏ, mức đầu tư sản xuất thấp ( bình quân năm
2016 là 75 triệu đồng). Nguồn tài chính hoạt động doanh nghiệp này chủ yếu từ gia
đình chiếm 96.1%, tỷ lệ vay ngân hàng chỉ chiếm 3.9%. Số doanh nghiệp có đăng
ký theo là 24%, doanh nghiệp gia đình 56,2%, số lượng công nhân trong các doanh
nghiệp chỉ chiếm bình quân 2 lao động[ 48].
Một trong những nhân tố cải thiện kinh tế nông thôn hiện nay chính là sự
tham gia của các tập đoàn lớn như Vingroup, TH Milk, một số tập đoàn nước ngoài
như Charoen Pokphand Group của Thái Lan. Một số tồn tại của các doanh nghiệp
này ở khu vực nông thôn cần phải cải thiện như hợp tác giữa doanh nghiệp với nông
dân còn quá yếu, dễ bị một trong các bên hủy hợp đồng, người tiêu dùng thì ít tin
tưởng về chất lượng sản phẩm…
Báo cáo khảo sát 12 tỉnh năm 2016 cũng chỉ ra thu nhập của các hộ kinh
doanh phi nông nghiệp chỉ chiếm 12.3%, hoạt động nông nghiệp 27.7 % và thu
nhập từ tiền lương làm thuê là 39.4%. Xét trên phạm vi cả nước thì chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn theo xu hướng trên còn thể hiện ở sự chuyển dịch cơ cấu hộ
theo thu nhập. Năm 2016 có 7,66 triệu hộ có thu nhập lớn nhất từ nông, lâm nghiệp
và thủy sản, chiếm 47,9% tổng số hộ nông thôn, 7,07 triệu hộ có thu nhập lớn nhất
từ hoạt động phi nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 44,2% và 1,25 triệu hộ có thu
nhập lớn nhất từ các nguồn khác, chiếm 7,9%…[ 58]. Các doanh nghiệp phi nông
nghiệp tập trung chủ yếu vào lĩnh vực dịch vụ chiếm 58.3%, lĩnh vực sản xuất chế
tạo chiếm 1/3% còn lĩnh vực nông nghiệp chỉ chiếm 7.8%.
Sự dịch chuyển các nguồn lực lao động nông thôn trong những năm vừa qua
123
cũng thể hiện việc cơ cấu lại kinh tế nông thôn theo hướng nâng cao tỷ trọng khu
vực phi nông, lâm nghiệp và thủy sản. Tại thời điểm 01/7/2016, trên địa bàn nông
thôn có 15,94 triệu người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động hoạt động
chính là sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 51,4% tổng số lao động nông
thôn, giảm 8,2 điểm phần trăm so với năm 2011; 14,21 triệu người hoạt động chính
trong các ngành nghề phi nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 45,8% tổng số lao
động và tăng 6,9 điểm phần trăm. Tỷ trọng lao động hoạt động chính trong ngành
công nghiệp so với tổng số lao động nông thôn tăng từ 12,5% năm 2011 lên 17,3%
năm 2016 [ 48].
Thứ ba, kết cấu hạ tầng nông thôn của hai nước đã có những cải thiện đáng
kể
Tại Việt Nam, trong giai đoạn 2011-2016, việc áp dụng và thực hiện đồng
bộ các chủ trương của Đảng, chính phủ về phát triển nông thôn mới, kết cấu hạ tầng
khu vực nông thôn đã có cải thiện đáng kể. Với phương châm “Nhà nước và
nhân dân cùng làm”, hầu hết các cơ sở hạ tầng quan trọng như hệ thống điện,
giao thông, trường học, trạm y tế, thiết chế văn hóa, hệ thống bảo vệ môi trường
của xã, thôn đã được tăng cường.
Đến năm 2016 toàn bộ các xã khu vực nông thôn đều có đủ điện phục vụ
sản xuất và đời sống. Hệ thống lưới điện quốc gia đã bao phủ gần 77,0 nghìn thôn,
chiếm 96,3% tổng số thôn khu vực nông thôn và chiếm 98,5% tổng số thôn có
điện. Hệ thống giao thông nông thôn được nâng cấp và kết nối đồng bộ giữa các
thôn, xã và các khu vực đô thị. Năm 2016, số xã có đường nhựa, bê tông đạt
96,4% tổng số xã, tăng 9,0 % với năm 2011. Cơ sở hạ tầng thông tin truyền thông
tiếp tục được cải thiện đáng kể, tạo điều kiện cho các hộ nông dân kết nối mạng
internet, mở rộng các hoạt động giao dịch thương mại điện tử hàng nông sản với
khu vực đô thị.
Thứ tư, nguồn nhân lực lao động nông thôn được đào tạo, thúc đẩy sự
chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn
Trong khi Ba Lan thực hiện chương trình thị trường lao động tích cực (Phụ
lục) tạo ra sự dịch chuyển đáng kể lao động nông nghiệp sang lĩnh vực nông
124
nghiệp…
Với Việt Nam, chương trình phát triển lao động khu vực nông thôn đã xây
dựng mục tiêu là nâng cao chất lao động, tạo ra sự linh động của thị trường lao đông
khu vực nông thôn, từ đó giảm dần tỷ lệ thất nghiệp khu vực nông thôn.
Theo số liệu bảng 4.4 cho thấy, số lượng lao động chưa qua đào tạo đã giảm
mạnh từ 27 triệu lao động năm 2011 xuống 20 triệu năm 2016, số lao động đã tham
gia các khóa đào tạo tăng lên từ 899 nghìn lao động lên 1,4 triêu lao động, trình độ
đại học cũng tăng từ 693 nghìn năm 2011 lên 1,2 triệu lao động.
Bảng 4.4: Số người lao động có khả năng lao động trong khu vực nông thôn
phân theo trình độ.
Số lượng ( ngưởi Cơ cấu (%)
2011 2016 2011 2016
31,995,954
31,016,720
100
100
27,052,409
20,428,364
84.55
65.86
Cả nước
1,373,005
5,666,219
4.29
18.27
899,808
1,469,841
2.81
4.74
1,360,270
1,195,410
4.25
3.85
Chưa qua đào tạo
1.93
3.26
617,144
1,010,245
Đã qua đào tạo nhưng không có bằng chứng chỉ Đã qua đào tạo có bằng chứng chỉ Trung cấp, trung cấp nghề
2.17
693,144 0
1,226,740 19,910
3.96 0.06
Cao đăng, cao đăng nghề
Đại học trở lên Trình độ khác Nguồn : CSO 2017 [ 49]
Hiện tại chính sách đào tạo nghề, chuyển đổi nghề nghiệp cho nông dân còn
hạn chế. Nhiều trường nghề, trung tâm nghề được hình thành nhưng không phát
triển, do người lao động được đào tạo nghề không phù hợp, không thực tế khiến cho
quá tŕnh đào tạo đó lãng phí nguồn lực
Thứ năm, ứng dụng khoa học công nghệ, cơ giới hóa sản xuất và liên kết
theo chuỗi giá trị.
Cả hai quốc gia đều xác định cần phải nâng cao tỷ trọng khoa học công nghệ
và đổi mới trong quá trình sản xuất, chế biến và tiêu thụ hàng nông sản. Với Ba Lan
125
các tiêu chuẩn hàng nông sản được áp dụng theo chuẩn chung của khu vực.
Với Việt Nam, ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp
được biểu hiện ở việc áp dụng quy trình thực hiện sản xuất nông nghiệp tốt
(VietGAP). Năm 2016 cả nước đã có 1.495 đơn vị được cấp chứng nhận VietGAP
và tương đương; trong đó, 540 đơn vị là hộ cá thể, chiếm 36,1% tổng số đơn vị
được cấp chứng nhận; 551 nhóm liên kết, chiếm 36,9%; 199 hợp tác xã, chiếm
13,3%. [ 58].
Hiện nay, cả nước có 29 Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được quy
hoạch ở 12 tỉnh, thành phố, trong đó có 7 khu đã đi vào hoạt động , như Khu nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao Phú Yên, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên với diện
tích là 460 ha; Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Lào Cai (huyện Sapa, tỉnh
Lào Cai) với diện tích là 200 ha…[ 52].
Nhằm thúc đẩy hoạt động đầu tư công nghệ cao vào sản xuất trong khu vực
nông thôn, Nghị quyết số 30/2017/NQ - CP của Chính phủ ngày 7/3/2017, chỉ đạo
của Thủ tướng Chính phủ về gói tín dụng 100.000 tỷ đồng từ nguồn vốn huy động
của các ngân hàng thương mại để cho vay phát triển nông nghiệp công nghệ cao với
lãi suất ưu đãi, thấp hơn lãi suất thông thường từ 0,5-1% [ 44].
4.1.2. Một số điểm khác biệt
Điểm khác biệt, mang tính đặc thù giữa Việt Nam và Ba Lan, ngay trong
những điểm tương đồng cũng có những nét khác biệt về định hướng, triết lý chuyển
đổi, cách thức, tốc độ chuyển đổi, vai trò của nhà nước và tư nhân trong nền kinh tế
thị trường, về mức độ hội nhập quốc tế và khu vực, cách thức thực hiện chương
trình phát triển…Chính sự khác biệt như vậy dẫn đến khu vực nông thôn của hai
nước là hoàn toàn khác nhau, một số điểm khác biệt cơ bản là:
4.1.2.1. Cải cách thể chế và xác lập cơ chế kinh tế thị trường
Đối với Ba Lan, với một khung chung được quy định rõ ràng bởi luật của EU
như chính sách thương mại chung, chính sách nông nghiệp chung, chính sách phát
triển khu vực… Quá trình chuyển đổi ở Ba Lan chịu sự giám sát trực tiếp của Ủy
ban châu Âu đã tạo ra những thành công được đo bằng các chỉ số định lượng cụ thể.
Kết quả cuối cùng của quá trình chuyển đổi là Ba Lan đã chính thức trở thành thành
126
viên của Liên minh Châu Âu. Đối với chính sách phát triển nông thôn được xác
định theo khung lý thuyết rõ ràng về phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan, tức là áp
dụng lý thuyết nông thôn mới vào các chương trình phát triển nông thôn.
Trong khi đó, quá trình chuyển đổi khung thể chế ở Việt Nam vẫn còn đang
trong giai đoạn hoàn thiện, cần phải sửa đổi nhiều cho phù hợp với các quy định
khu vực và quốc tế. Thể chế kinh tế thị trường vẫn chưa đồng bộ, đầy đủ để bảo
đảm thị trường vận hành thông suốt, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu thúc đẩy nền
kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập. Một số quy định trong hệ thống luật pháp,
cơ chế, chính sách và quản lý, điều hành còn chồng chéo, thiếu chặt chẽ, nhanh bị
thay đổi, và nhiều trường hợp có những cách hiểu khác nhau, dẫn đến tình trạng
khó thực hiện. Hệ thống văn bản luật chủ yếu vẫn mang tính chất định khung, khó
áp dụng trực tiếp. Có khoảng cách lớn giữa tuyên bố chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng với việc thể chế hóa và thực thi trên thực tế… Thiết chế pháp lý bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của doanh nghiệp trong kinh doanh yếu,
tăng rủi ro cho doanh nghiệp. Thực thi pháp luật chưa nghiêm, chi phí tuân thủ pháp
luật còn cao. Các biện pháp ngăn ngừa tham nhũng chưa đạt yêu cầu đề ra; tham
nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng. (Tư Giang,2019)
Chương trình nông thôn mới với 19 bộ tiêu chí được xây dựng theo mục tiêu
quốc gia, đến nay với hơn 10 năm thực hiện đã bộc lộ nhiều vướng mắc về chính
sách như: (1) Chính sách đất đai hiện nay còn gây khó khăn cho quá trình dồn diền
đổi thửa, tích tụ, tập trung ruộng đất phục vụ sản xuất lớn; (2) Chính sách thu hút
doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, hướng tới nền nông nghiệp sản xuất hàng
hóa với quy mô ngày càng lớn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động trong
nông nghiệp sang các lĩnh vực khác chưa phát huy hiệu quả; (3) Chính sách ưu đãi
như miễn giảm tiền sử dụng đất; miễn giảm thuế thuê đất, thuê mặt nước; hỗ trợ tập
trung đất đai, tiếp cận, hỗ trợ tín dụng còn yếu về cơ chế thực thi (Vũ Văn Đạt,
2019). Trong khu vực nông thôn, doanh nghiệp tư nhân còn gặp nhiều khó khăn
trong việc tiếp cận đất đai, bởi các các thủ tục giải phóng mặt bằng, thu hồi đất
thường tốn thời gian gây ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của DN; phương pháp
tính giá đất, thủ tục cấp phép, thông tin quy hoạch còn gây nhiều bức xúc, cản trở
127
tốc độ thu hồi và bàn giao đất sạch cho các nhà đầu tư…(Huệ, 2020). Cùng với đó
thì các chính sách phát triển kinh tế nông thôn ở Việt Nam không mang tính khu
vực, quốc tế mà chỉ áp dụng đối với Việt Nam.
4.1.2.2. Quá trình hội nhập với khu vực và quốc tế:
Hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực phát triển nông thôn của Ba Lan
được thực hiện theo quy chuẩn chung của khu vực, cụ thể, Ba Lan phải tuân thủ các
quy định về an toàn thực phẩm, đăng ký nhãn hiệu sản phẩm nông nghiệp khi trao
đổi thương mại hàng hóa với các nước trong khu vực…
Trong khi đó thì Việt Nam cũng đã mở cửa hội nhập nhanh với khu vực,
tham gia tham gia tích cực các công ước quốc tế…Tuy nhiên, quá trình thực hiện
còn nhiều lĩnh vực không kiểm soát được, kém hiệu quả như chất lượng sản phẩm
hàng nông sản vẫn còn nhiều dư lượng kháng sinh, vượt ngưỡng quy đinh theo
chuẩn quốc tế.
Tiến trình hợp tác nông nghiệp ASEAN cũng được bắt đầu ngay sau khi
ASEAN được thành lập, với mục tiêu đảm bảo nguồn cung cấp thực phẩm giữa các
nước trong khối. Đến nay, quá trình hợp tác giữa các nước thành viên trong khối
cũng mở rộng sang các lĩnh vực khác bao gồm: An toàn thực phẩm, đào tạo và hợp
tác nông nghiệp, hợp tác khai thác các sản phẩm rừng và lâm nghiệp, thúc đẩy hợp
tác nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông lâm thủy sản ASEAN
cũng như thúc đẩy thực hiện an toàn thực phẩm trong khu vực và hướng ra thế
giới.Tuy nhiên, cơ chế hợp tác trong ASEAN vẫn xây dựng mô hình liên kết dựa
trên hợp tác liên chính phủ, cơ cấu tổ chức gồm Hội nghị Cấp cao, Hội nghị Bộ
trưởng Kinh tế và Tổng Thư ký ASEAN. Chính vì hợp tác liên chính phủ nên trong
việc hoạch định chính sách chung ASEAN phải dựa trên nguyên tắc đồng thuận
(consensus) - Đây là một nguyên tắc bao trùm trong các cuộc họp và hoạt động của
ASEAN. Chính sách ban hành ở ASEAN hay ở Hội đồng liên Nghị viện ASEAN
dưới dạng nghị quyết, không có sự ràng buộc về “pháp lý” tính bắt buộc tới các
nước thành viên không cao.
4.1.2.3. Các biện pháp thực thi chương trình phát triển nông thôn
Thứ nhất, quá trình tích tụ ruộng đất: Chính sách tích tụ ruộng đất với
128
phương thức thực hiện tự do hóa thị trường đất đai đã tạo cho Ba Lan những trang
trại có diện tích rộng, các chủ trang trại dễ dàng thực hiện quá trình sát nhập thông
qua mua bán tự do trên thị trường. Kết quả của các chương trình này đã tạo ra các
trang trại sản xuất nông nghiệp lớn có quy mô lên đến 100ha.
Việt Nam cũng đã thử nghiệm các chương trình dồn điền đổi thửa, chương
trình cánh đồng mẫu lớn, tuy nhiên đến thời điểm hiện tại thì các chương trình này
vẫn chưa phát huy hiệu quả, sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, manh mún, khó áp
dụng khoa học công nghệ vào trong sản xuất.
Thứ hai, các chương trình phát triển kinh tế nông thôn được xây dựng theo
chuẩn khu vực: Chương trình phát triển nông thôn Ba Lan theo các giai đoạn đều
được xây dựng từ việc đánh giá mô hình SWOT với các bộ chỉ số đánh giá theo
chuẩn khu vực cũng như chuẩn quốc tế. Do vậy, dễ đánh giá và so sánh những
thành tựu đạt được với các nước thành viên trong khối.
Trong khi đó, tại Việt Nam, mặc dù có đến 19 bộ tiêu chí đánh giá của
chương trình nông thôn mới, tuy nhiên bộ tiêu chí này chỉ mang tính quốc gia,
không đồng nhất với các chuẩn chung của các nước phát triển, do vậy, khó so sánh
với các nước trong khu vực.
Thứ ba, phát triển kinh tế nông thôn theo hướng kinh tế thị trường: Ba Lan
thực hiện chương trình phát triển nông thôn theo tiêu chuẩn khu vực với việc xóa bỏ
mọi hình thức độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước, tạo sự cạnh tranh bình
đẳng các thành phần kinh doanh, tự do hóa thị trường khu vực nông thôn, cổ phần
hóa các trang trại nhà nước.
Với Việt Nam, khu vực kinh tế nông thôn vẫn trong tình trạng môi trường
kinh doanh cạnh tranh kém, có sự độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước. Điều
này tác động tiêu cực tới nông nghiệp cả đầu vào và đầu ra từ phân bón, thuốc trừ
sâu, hạ tầng năng lượng, giao thông tới công nghiệp chế biến …
Thứ tư, chính sách thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong khu vực nông thôn
Tại Ba Lan, các trang trại sản xuất nông nghiệp được khuyến khích tham gia
vào mạng lưới đổi mới, được hỗ trợ tài chính trong ứng dụng công nghệ thông tin,
ngân sách được dành cho hoạt động R& D tập trung vào ngành công nghiệp chế
129
biến, làm động lực thúc đẩy ứng dụng trong lĩnh vực sản xuất.
Ơ Việt Nam, chính sách phát triển khoa học, công nghệ, nhất là chuyển giao
công nghệ, chưa đi sâu, đi sát cùng với nông dân, khiến cho nhiều chương trình sản
xuất kinh doanh nông nghiệp (như sản xuất rau an toàn, sản xuất lúa chất lượng cao
ở vùng đồng bằng, nuôi trồng thủy hải sản…) bước đầu được hình thành nhưng
thiếu nguồn lực để phát triển.
Thứ năm, mô hình liên kết trong chuỗi cung ứng hàng nông sản còn nhiều
hạn chế
Trong vệc liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ hàng hóa nông sản, thiếu sự liên
kết của các bên trong chuỗi; hiện tại có rất ít các hợp đồng được ký kết giữa nông
dân với doanh nghiệp trong việc sản xuất, bao tiêu sản phẩm nông nghiệp và hợp
đồng thường bị phá vỡ khi thị trường có những biến động bất lợi cho một trong hai.
Đa số các doanh nghiệp còn ngần ngại đầu tư vào nông nghiệp vì rủi ro cao.
Thứ sáu, các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất trong nước thường mang
tính tình thế, không theo một chương trình tổng thể, chưa tạo động lực đủ mạnh để
khắc phục tình trạng yếu kém trong phát triển kinh tế khu vực nông thôn hiện nay.
Chính sách hỗ trợ về thuế, cước vận chuyển, các loại phí chưa được áp dụng đầy đủ
và chưa hấp dẫn các nhà đầu tư bỏ vốn vào kinh doanh trong lĩnh vực nông
nghiệp…
Thứ bảy, cơ chế tài chính thực hiện các chương trình phát triển nông thôn:
Điểm khác biệt căn bản trong chương trình phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan so
với Việt Nam là các chương trình phát triển kinh tế Ba Lan được nhận tài trợ không
hoàn lại những nguồn lực tài chính khổng lồ từ EU. Kết quả của mỗi chương trình
cụ thể ví dụ, chương trình phát triển kinh tế nông thôn giai đoạn 2007- 2013 là căn
cứ để EU phê duyệt các gói ngân sách cho giai đoạn tiếp theo 2014-2020.
Tại Việt Nam thì nguồn lực đầu tư cho các chương trình phát triển kinh tế
nông thôn trong thời gian qua cũng nhận được những gói hỗ trợ từ các tổ chức quốc
tế, khu vực theo hình thức viện trợ không hoàn lại thông qua các dự án cụ thể. Tuy
nhiên, các nguồn lực hỗ trợ đó vẫn còn quá nhỏ. Các chương trình lớn như chương
trình nông thôn mới thì dựa hoàn toàn vào vốn ngân sách nhà nước, cũng như chưa
130
khai thác được nhiều sự đầu tư của khối tư nhân, các chương trình hợp tác công tư
trong nông nghiệp hiện vẫn chưa hoàn thiện được khâu thể chế, dẫn đến hiệu quả
thấp.
4.2. Bài học kinh nghiệm trong phát triển kinh tế nông thôn
4.2.1.Một số bài học thành công của Ba Lan mà Việt Nam có thể học hỏi
Mặc dù giữa Ba Lan và Việt Nam có nhiều điểm tương đồng, cũng như khác
biệt như đã phân tích ở trên, việc áp dụng được những bài học thành công cũng cần
phải nhìn nhận ở nhiều nhân tố như: Bối cảnh kinh tế xã hội khu vực nông thôn,
khung khổ thể chế chính sách của mỗi quốc gia hay những nhân tố tác động từ khu
vực…Song có thể khẳng định việc nghiên cứu Ba Lan rút ra nhiều bài học kinh
nghiệm mà Việt Nam có thể áp dụng, từ việc xây dựng và đánh giá chương trình
đến việc thực hiện, thể chế hóa chính sách, huy động các nguồn lực công đồng và
quản lý có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế nông thôn. Những bài học
thành công ở Ba Lan mà Việt Nam có thể học hỏi được rút ra ở những điểm chính
sau:
Thứ nhất, về xây dựng khung chiến lược, chính sách phát triển kinh tế nông
thôn
Việt Nam cần phải xác định rõ là chương trình phát triển kinh tế nông thôn cần
phải phát triển theo lý thuyết nào? Cơ sở lý luận có các chương trình là gì? Tiêu chí
đánh giá chính sách cần phải phân định rõ dựa trên các mức như tính hiệu quả, tính
thực thi của chính sách bao gồm ( Chính sách định hướng, chính sách thực hiện,
chính sách phòng ngừa), cần phải có những phân tích và đánh giá về các nhân tố về
kinh tế- xã hội địa phương, tiềm lực tài chính, đầu tư phát triển hạ tầng các khu vực
nông thôn…để xây dựng một khung chiến lược, chính sách hợp lý.
Từ kinh nghiệm Ba Lan, có thể thấy việc xây dựng một chiến lược phát triển
kinh tế nông thôn dựa trên việc phân tích mô hình SWOT để xác định rõ những
điểm mạnh, điểm yếu, thách thức và cơ hội được xem là điểm nhấn hết sức quan
trọng quyết định sự thành công của Ba Lan. Ví dụ: những thách thức đặt ra đối với
chương trình phát triển nông thôn giai đoạn 2007-2013 đã chỉ ra năng suất nông
nghiệp ở khu vực phía đông còn thấp hơn rất nhiều so với các khu vực khác; Hoạt
131
động đầu tư, cải thiện hạ tầng khu vực nông thôn, nâng cấp trang trại sản xuất nông
nghiệp vẫn còn kém hiệu quả; tỷ lệ thất nghiệp lao động nông thôn cao; trình độ học
vấn của cư dân nông thôn và các nông dân thấp; mạng lưới dịch vụ cho nông thôn
kém phát triển. [65].
Trong bối cảnh Ba Lan bắt đầu hội nhập sâu rộng vào khu vực Liên minh châu
Âu với nhiều nhiều điểm yếu phát triển sản xuất nông nghiệp cũng như thấy được
những điểm mạnh, những cơ hội mà Ba Lan có thể tận dụng để tăng sức cạnh tranh
của mình như: Chi phí nhân công lao động thấp, vị trí địa lý thuận lợi, có các sản
phẩm nông nghiệp đặc thù…để có những điều chỉnh về mặt chính sách, đưa khu
vực nông thôn trở thành khu vực phát triển năng động (tăng trưởng khu vực nông
thôn tăng bình quân 3,3% giai đoạn 2000-2018 [88]; thu nhập bình quân đầu người
khu vực nông thôn Ba Lan tăng đáng kể từ mức 10.556 USD năm 2000 lên 17.035
USD 2018[88]; đóng góp khu vực nông thôn vào GDP quốc gia chiếm 30% vào
năm 2018[80]…
Từ khung phân tích, Ba Lan đã đề ra các chính sách với các chương trình hành
động cụ thể, đánh giá những kết quả đạt được với mục tiêu đã đề ra làm cơ sở điều
chỉnh các chính sách. Bên cạnh đó, chương trình phát triển kinh tế nông thôn được
đặt trong tổng thể một khung chiến lược phát triển quốc gia, tạo ra sự đồng bộ trong
quá trình thực hiện, nâng cao hiệu quả trong quản lý ở cấp địa phương và phát huy
được những lợi thế từ vùng miền.
Việt Nam cũng có những điểm tương đồng với Ba Lan như đã phân tích ở trên,
chính vì vậy, việc áp dụng một lý thuyết phát triển nông thôn mới với khung phân
tích như Ba Lan để nhân diện rõ những cơ hội, thách thức trong bối cảnh Việt Nam
cũng đang hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới là hết sức quan trọng.
Thứ hai, xây dựng các chương trình phát triển sản xuất nông nghiệp nhằm tăng
khả năng cạnh tranh
Như chúng tôi đã phân tích, mặc dù lĩnh vực nông nghiệp chỉ đóng góp tỷ trọng
nhỏ trong GDP, song một trong những mục tiêu quan trọng trong phát triển kinh tế
nông thôn chính là tăng khả năng cạnh tranh lĩnh vực nông nghiệp, thúc đẩy xuất
132
khẩu hàng hóa nông sản vào thị trường khu vực và thế giới.
Để thực hiện được mục tiêu đó, chương trình phát triển sản xuất nông nghiệp
Ba Lan đã đề ra với việc thực hiện nhất quán chính sách tự do hóa trong lĩnh vực
sản xuất nông nghiệp như tự do hóa các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất (
phân bón, giống cây trồng) cũng như thị trường đất đai khu vực nông thôn, quyết
liệt thực hiện quá trình cổ phần hóa các trang trại sản xuất nông nghiệp thuộc sở
hữu nhà nước hoạt động không hiệu quả sang hình thức sở hữu tư nhân… Đây
chính là những nhân tố thúc đẩy quá trình tích tụ ruộng đất, trang trại ở Ba Lan, tạo
ra những động lực hết sức cần thiết trong việc thu hút một nguồn lực lớn đầu tư vào
sản xuất nông nghiệp, dễ dàng áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào trong
sản xuất, thực hiện cơ giới hóa và tự động hóa trong nông nghiệp, tạo ra những lợi
thế về cạnh tranh giữa Ba Lan với các quốc gia khác trong khu vực.
Bên cạnh đó, quá trình thực thi và đảm bảo hài hòa cơ chế thị trường trong phát
triển nông nghiệp và nông thôn, giữa hỗ trợ của nhà nước và tư nhân, hướng tới
phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững gắn với phát triển khoa học công nghệ và
ứng dụng đổi mới, tạo ra mức thu nhập cho người dân Ba Lan ngày càng cao.
Đối với Việt Nam, hiện tại chúng ta cũng đã và đang có được những thành công
hết sức ấn tượng trong sản xuất nông nghiệp, cũng như đạt được kim ngạch xuất
khẩu các mặt hàng nông sản ra hầu hết các nước trên thế giới. Tuy nhiên, tăng
trưởng trong sản xuất nông nghiệp của Việt Nam chưa thực sự bền vững, chúng ta
đang đối mặt với nhiều nguy cơ, điểm nghẽn như khó áp dụng đổi mới sáng tạo
trong nông nghiệp bởi quy mô, diên tích đất nông nghiệp còn manh mún, hoạt động
sản xuất nông nghiệp đôi khi chỉ chạy theo số lượng, mà chưa thực sự quan tâm đến
chất lượng, dẫn đến gia trị gia tăng đạt được từ hàng hóa nông sản còn thấp, chất
lượng vệ sinh an toàn thực phẩm đang ở mức báo động, hoạt động cung ứng hàng
hóa nông sản chưa được hình thành theo các chuỗi cung ứng chuẩn của quốc tế…Vì
vậy, bài học thành công của Ba Lan đối với phát triển sản xuất nông nghiệp có ý
nghĩa hết sức quan trọng đối với Việt Nam.
Thứ ba, đa dạng hóa kinh tế nông thôn
Lý thuyết phát triển mô hình nông thôn mới đã chỉ rõ phát triển nông thôn đa
133
mục tiêu, thúc đẩy chuyển dịch chuyển cơ cấu nông nghiệp sang dịch vụ, gắn với
phát triển du lịch đang trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế nông
thôn ở Ba Lan nói riêng và các nước phát triển nói chung. Nhằm đẩy mạnh hơn nữa
quá trình đa dạng hóa kinh tế nông thôn, Ba Lan đã ghi nhận được những kết quả
hết sức ấn tượng về thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, thúc
đẩy quá trình khởi nghiệp kinh doanh, tự làm chủ, chuyển các cơ sở sản xuất về khu
vực nông thôn, thúc đẩy chuyển dịch trang trại từ sản xuất nông nghiệp sang thực
hiện sản xuất phi nông nghiệp…Các chương trình cụ thể để đạt được mục tiêu này
có thể thấy từ việc nâng cao trình độ, tay nghề cho người dân lao động khu vực
nông thôn, phát triển thị trường lao động nông thôn, thực thi đồng bộ các chính sách
hỗ trợ doanh nghiệp, trang trại chuyển đổi sản xuất nông nghiệp sang phi nông
nghiệp, cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn…
Trong bối cảnh Việt Nam cũng hết sức quan tâm đến quá trình thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp với mục tiêu giảm tỷ trọng sản xuất nông nghiệp
tiến tới tăng tỷ trọng lĩnh vực phi nông nghiệp trong khu vực nông thôn, giải quyết
công ăn việc làm cho lao động nông thôn, cải thiện cuộc sống người dân…thì
những bài học thành công của Ba Lan trong việc đa dạng hóa kinh tế khu vực nông
thôn là hết sức quan trọng mà Việt Nam có thể học hỏi.
Thứ tư, tận dụng các cơ hội từ quá trình hội nhập
Ba Lan đã tận dụng rất tốt các cơ hội mà hội nhập khu vực đưa lại, cụ thể:
Tranh thủ các nguồn lực tài chính từ khu vực để thực hiện tốt các chương trình như
nâng cao năng lực sản xuất của các trang trại, chương trình đào tạo nghề cho các lao
động, hỗ trợ khởi nghiệp…Đặc biệt, trong bối cảnh nguồn lực khan hiếm, các dự án
tài trợ từ khu vực ngày càng đòi hỏi cao về tiêu chuẩn, kinh nghiệm thực thi ở cấp
cộng đồng buộc Ba Lan ngày càng phải có những điều chỉnh về mặt chính sách một
cách hợp lý nhằm nâng cao năng lực cho cả các cấp trung ương xuống địa phương.
Những giải pháp mà Ba Lan thực hiện là thực hiện triệt để trong cải cách thể chế
theo định hướng thị trường, thực thi có hiệu quả cơ chế quản lý và phân cấp khu
vực.
Đối với Việt Nam, trong bối cảnh chúng ta cũng đang hội nhập sâu rộng với
134
khu vực, vì vậy, việc kiên quyết thực hiện các chính sách theo định hướng thị
trường, cải thiện tính minh bạch, tính giải trình trong sản xuất nông nghiệp…sẽ tạo
ra niềm tin đối với cộng đồng khu vực từ đó có được những cơ hội tiếp nhận các
khoản đầu tư, hỗ trợ tài chính, hỗ trợ kỹ thuất để phát triển kinh tế nông thôn. Bên
cạnh đó, chúng ta cần phát huy những điểm mạnh, lợi thế cũng như tinh thần học
hỏi các kinh nghiệm quốc tế trong phát triển kinh tế nông thôn. Ví dụ các chương
trình tín dụng vi mô, chương trình phát triển sinh kế giảm nghèo cho nhóm người
yếu thế khu vực nông thôn…
Thứ năm, hoàn thiện các chính sách phát triển kinh tế nông thôn
Trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang cơ chế thị trường, Ba
Lan đã quyết liệt thực hiện các chính sách về tự do hóa, chính sách đất đai… Tạo ra
những chuyển biến đáng kể trong sản xuất nông nghiệp. Sau khi trở thành thành
viên EU, các chính sách về tài chính, thuế, chính sách hỗ trợ tiền lương cho công
nhân đối với các doanh nghiệp có trụ sở tại các khu vực nông thôn cũng tạo ra dịch
chuyển và bùng nổ các doanh nghiệp phi nông nghiệp ở khu vực nông thôn. Đây
được xem là một sáng kiến hữu hiệu trong việc thúc đẩy sự đa dạng hóa kinh tế
nông thôn, tạo công ăn việc làm, tăng tỷ trọng đóng góp khu vực nông thôn… Bên
cạnh đó, các chính sách này cũng tạo ra sự chuyển dịch của các trang trại nông
nghiệp sang hoạt động trong lĩnh vực du lịch nông thôn, làm động lực thúc đẩy du
lịch nông thôn ở Ba Lan trong những năm qua.
Với Việt Nam, các chính sách phát triển kinh tế nông thôn còn chung chung,
chưa thực sự phát huy hiệu quả. Những tác động chính sách đối với sự chuyển dịch
kinh tế nông thôn còn chưa thực sự phát huy hiệu qua, biểu hiện khoảng cách thu
nhập giữa khu vực nông thôn với thành thị còn quá chênh lệch, lao động nông thôn
còn di cư nhiều ra khu vực thành phố, sự dịch chuyển các doanh nghiệp về khu vực
nông thôn còn hạn chế, chính phủ chưa có những chính sách hỗ trợ đối với các
doanh nghiệp hoạt động khu vực nông thôn.
Thứ sáu, phát triển nguồn nhân lực lao động khu vực nông thôn
Tỷ lệ thất nghiệp trong khu vực nông thôn ở Ba Lan thấp, khả năng tạo việc
làm cao, đây được xem là những thành công trong các chương trình phát triển
135
nguôn nhân lực nông thôn. Bên cạnh đó, mô hình đào tạo nghề cho lao động nông
thôn với việc phân cấp quản lý các trường nghề cho Bộ nông nghiệp quản lý, đã tạo
ra sự thay đổi về chất lượng, tạo ra chuyển đổi nghề nghiệp của các lao động nông
nghiệp sang lĩnh vực dịch vụ, sản xuất… các chương trình học nghề gắn với thực
tập tại các trang trại, doanh nghiệp cũng như việc thiết kế các khóa học quản lý
trang trại hữu ích, linh hoạt trong các khung thời gian học tập… đang tạo ra một
tầng lợp nông dân trẻ và doanh nghiệp trẻ ở nông thôn giúp cho Ba Lan hết sức
thành công trong quá trình hiện đại hóa nông nghiệp và đô thị hóa nông thôn. Đặc
biệt việc áp dụng chính sách thị trường năng động ở Ba Lan mang lại hiệu quả rất
cao mà Việt Nam có thể học hỏi.
Như vậy, trong bối cảnh lao động nông thôn Việt Nam chủ yếu di cư ra khu
vực đô thị làm việc trong các khu công nghiệp đang gây ra những áp lực về hạ tầng
đô thị. Vì vậy, những kinh nghiệm của Ba Lan trong phát triển thị trường lao động
nông thôn ở Ba Lan là hết sức quý đối với Việt Nam.
Thứ bẩy, hoàn thiện chuỗi cung ứng hàng nông sản đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của người tiêu dùng
Chuỗi cung ứng ngắn (Short food supply chain) có thể hiểu một cách đơn
giản chính là sự giảm thiểu tối đa các thành viên tham gia trong chuỗi cung ứng với
03 đặc trưng chủ yếu là: (1) Khoảng cách về mặt địa lý: được đo bằng khoảng cách
giữa người sản xuất và người tiêu dùng; (2) số lượng các đơn vị trung gian tham gia
vào chuỗi và (3) Sự kết nối, tương tác giữa người tiêu dùng và người sản xuất.
Chuỗi cung ứng ngắn hướng tới mục tiêu cung cấp đến tay người tiêu dùng những
sản phẩm phản ánh các đặc điểm như: “bản sắc địa phương”, “tự nhiên”, “lành
mạnh” và “đáng tin cậy” đang được xem là một giải pháp hết sức hữu hiệu của các
địa phương trong việc giải quyết bài toán tiêu thụ hàng nông sản của nhóm yếu thế,
trang trại nhỏ ở Ba Lan, từ đó cải thiện thu nhập cho người nông dân, tăng niềm tin
của người tiêu dùng đối với các sản phẩm địa phương. Năm 2017, Chính phủ Ba
Lan đã chính thức công nhận những tác động tích cực của chuỗi cung ứng ngắn đối
với các hộ sản xuất nông nghiệp nhỏ, thể chế hóa luật, ban hành các chính sách cho
phép thành lập chuỗi cung ứng ngắn. Các sáng kiến để tổ chức Chợ hoặc điểm bán
hàng nông dân tại Krakow với các sự kiện quảng bá thương hiệu sản phẩm gắn với
136
các sự kiện giáo dục và đổi mới “Đêm các nhà khoa học Małopolska”, “ Tuần lễ
doanh nhân thế giới”, “Cuộc sống hạnh phúc, Khám phá Małopolska” thực hiện các
chương trình tuần lễ xe đạp, lễ hội hương vị vùng Małopolska…đã và đang thay thế
dần cho các phương thức thương mại truyền thống với chuỗi cung ứng đa tầng,
nhiều công đoạn, nhiều trung gian tham gia và sự hạn chế quyền thương thảo của
những nhà sản xuất nông nghiệp nhỏ với các trung gian trong chuỗi...
Đây sẽ là kinh nghiệm hết sức quý báu để Việt Nam có thể ứng dụng nhằm
hoàn thiện hơn chuỗi cung ứng sản phẩm nông nghiệp trong chương trình“Mỗi làng
một sản phẩm- OCOP” với các chính sách ưu đãi về tài chính cho nông hộ, logistic,
phát triển thương hiệu, kênh phân phối bán hàng.
Thứ tám, thúc đẩy ứng dụng khoa học kỹ thuật thông qua mạng lưới đổi mới và
hợp tác khu vực
Trong lĩnh vực này, Ba Lan từ một quốc gia có mức độ đổi mới sáng tạo thấp
nhất trong khối Liên minh châu Âu đã từng bước cải thiện và tăng đầu tư vào lĩnh
vực này. Chiến lược phát triển kinh tế dựa vào yếu tố đổi mới đã được Ba Lan đặt
ra và xác định là một trong những nội dung trọng yếu quyết định đến tăng trưởng
bền vững. Trong ba năm gần đây 2016- 2018, báo cáo về chỉ số đổi mới toàn cầu
năm 2016 của tổ chức World Intellectual Property Organization (WIPO) cũng cho
thấy Ba Lan đã đạt vị trí thứ 39 trong tổng số 128 quốc gia với 44.2 điểm phần
trăm. Năm 2017, Ba Lan cũng được đã được vinh danh là quốc gia hàng đầu trong
các nước thành viên mới EU về sự đổi mới. Để đạt được những kết quả như vậy, Ba
Lan đã triển khai các sáng kiến như : (1) Xây dựng mạng lưới đổi mới quốc gia với
sự gắn kết của các trường đại học, viện nghiên cứu, các Hiệp hội… gắn kết với
mạng lưới đổi mới khu vực; (2) Vận động các chủ trang trại tham gia vào mạng lưới
hợp tác và đổi mới được tài trợ bởi ngân sách EU, (3) Hoàn thiện chính sách về tăng
khả năng tiếp cận chính sách nhằm hỗ trợ đầu tư công nghệ đổi mới sinh thái...
Tại Việt Nam, trong thời gian vừa qua, vấn đề nâng cao năng suất của nền
kinh tế nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng đã được Chính phủ và toàn xã
hội đặc biệt quan tâm. Do đây là yếu tố tác động quan trọng tới năng lực cạnh tranh
của Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế cũng như tăng mức sống của
137
người dân khu vực nông thôn. Trong gần 10 năm qua, đặc biệt từ khi Việt Nam
trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới năm 2007 đến
nay, năng suất của Việt Nam tăng tiên tục và đã có bước thu hẹp khoảng cách với
các nước trong khu vực. Tuy vậy, theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), năng suất
của Việt Nam vẫn thuộc nhóm thấp nhất châu Á - Thái Bình Dương và đang giảm
dần… Một trong những nhân tố quan trọng để có thể gia tăng năng suất ngành nông
nghiệp chính là yếu tố đổi mới sáng tạo. Đổi mới sáng tạo bao gồm việc tạo ra và
tiếp nhận công nghệ mới, sản phẩm mới và quá trình mới tạo ra các hoạt động kinh
tế có giá trị gia tăng cao hơn. Sự đổi mới đòi hỏi đầu tư vào nghiên cứu và phát
triển (R&D) và xây dựng đội ngũ các nhà khoa học, các kỹ sư có năng lực để sáng
tạo công nghệ. Bên cạnh đó, đổi mới đòi hỏi nâng cao năng lực của con người để
có thể học hỏi, tiếp thu và áp dụng các công nghệ, sản phẩm vào quá trình hiện có.
Việc đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển nội địa là quan trọng nhưng sự
sẵn sàng cho tiếp nhận công nghệ từ nước ngoài cũng rất quantrọng để có được
năng suất cao hơn.
Vì vậy, kinh nghiệm về phát triển mạng lưới đổi mới gắn kết giữa doanh
nghiệp, các viện nghiên cứu, các trường đại học trong nước kết nối với khu vực của
Ba Lan ở trên sẽ giúp Việt Nam có thể cải thiện năng suất lao động trong khu vực
sản xuất nông nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế nông thôn nói chung. Đặc biệt
bài học về tăng ngân sách cho các hoạt động nghiên cứu, đổi mới đối với lĩnh vực
công nghiệp chế biến thực phẩm của Ba Lan, làm động lực thúc đẩy quá đổi mới
khu vực sản xuất là một trong những sáng kiến mà Việt Nam cần phải học hỏi.
4.2.2. Một số bài học chưa thành công, cần tránh
Trong thành công về phát triển kinh tế nông thôn, Ba Lan cũng đang đối mặt
với những khó khăn, những hạn chế mà Ba Lan đang cố gắng giải quyết trong thời
gian tới. Những điểm còn tồn tại như vậy cũng là những bài học mà Việt Nam có
thể tránh được trong quá trình thực hiện, cụ thể:
Trong lĩnh vực nông nghiệp: Mặc dù quá trình đa dạng hóa kinh tế khu vực
nông thôn ở Ba Lan đã đạt được những thành công đáng kể, song một nguồn lực lớn
lao động nông thôn vẫn tập trung vào sản xuất nông nghiệp, dẫn đến lĩnh vực này
138
vẫn bị đánh giá là lĩnh vực thâm dụng lao động so với các nước thành viên EU.
Hoạt động sản xuất nông nghiệp Ba Lan ở nhiều khu vực vẫn chưa bắt kịp với sự
phát triển chung của quốc gia. Sản xuất nông nghiệp chưa phát triển bền vững, còn
phụ thuộc nhiều vào các nguồn lực hỗ trợ tài chính từ bên ngoài….
Trong lĩnh vực phi nông nghiệp: Quá trình đa dạng hóa kinh tế nông thôn ở
nhiều khu vực còn diễn ra chậm, tay nghề, kỹ năng lao động trong lĩnh vực phi
nông nghiệp còn bị hạn chế, kỹ năng quản lý trang trại cho các hoạt động du lịch,
dịch vụ, sản xuất phi nông nghiệp vẫn còn yếu dẫn đến thu nhập từ hoạt động phi
nông nghiệp chưa thực sự cao…
4.3. Hàm ý chính sách trong triển khai phát triển kinh tế nông thôn ở Việt
Nam
Trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình thực hiện chuyển đổi mô hình
tăng trưởng kinh tế, tập trung mọi nguồn lực phát triển khu vực nông thôn hướng
đến sự phát triển bền vững, làm cơ sở hội nhập sâu rộng với khu vực và thế
giới…cùng với đó, dựa trên những đánh giá về các điểm tương đồng và khác biệt
giữa Việt Nam và Ba Lan, những bài học thành công của Ba Lan trong việc triển
khai các chương trình phát triển kinh tế nông thôn trong thời gian vừa qua, hay
những bất cập còn tồn tại, những nguy cơ và thách thức đặt ra đối với các chương
trình phát triển kinh tế nông thôn mà Việt Nam đang thực hiện, tác giả đưa ra các
khuyến nghị cụ thể hai nhóm giai pháp cơ bản sau:
4.3.1 Hoàn thiện khung khổ chính sách phát triển kinh tế nông thôn
Chính phủ cần có chính sách phát triển kinh tế nông thôn toàn diện, không
chỉ tập trung vào nông nghiệp.
Sự thành công trong chính sách phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan chính là
hoàn thiện một cách triệt để khung chính sách theo các yêu cầu của Ủy ban Châu
Âu, nhằm khai thác triệt đê các nguồn lực trong quá trình hội nhập. Cụ thể, chính
sách về tích tụ ruộng đất với kết quả số lượng các trang trại có diện tích nhỏ giảm
xuống, thay vào đó các trang trại có diện tích lớn tăng lên[122] phân tích các yếu tố
tiềm năng nhân khẩu học, khả năng hấp thụ thị trường lao động địa phương, quy mô
và loại hình thất nghiệp, nguồn vốn của dân số, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nguyện vọng
139
của cộng đồng địa phương, năng lực và khả năng của chính quyền địa phương để
hình thành chính sách khởi nghiệp kinh doanh khu vực nông thôn[100], chương
trình phát triển có trách nhiệm đối với các doanh nghiệp trong khu vực nông thôn
với các mục tiêu cụ thể như Hỗ trợ lợi thế cạnh tranh dựa vào nền tảng công nghiệp
4.0 Phát triển kinh doanh đổi mới; Vốn đầu tư cho phát triển; Hỗ trợ xuất khẩu và
đầu tư của doanh nghiệp ở nước ngoài [124]…
Với Việt Nam, khung khổ chính sách phát triển khu vực nông thôn được
đánh dấu bằng Nghị quyết số 26/2008/NQ-TD nhấn mạnh phát triển dựa trên nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và Nghị quyết số 63/2009/NQ-
CP nhằm đảm bảo an ninh lương thực quốc gia bằng cách đảm bảo cung cấp đầy đủ
lương thực, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá
X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn cũng đã đặt ra mục tiêu: Xây dựng nông
thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; Cơ cấu kinh tế và
các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý… Năm 2016, Thủ tướng chính phủ cũng đã
phê duyệt quyết định Số: 1600/QĐ-TTg về “chương trình mục tiêu quốc gia về xây
dựng nông thôn mới giai đoạn 2016- 2020” với mục tiêu cơ bản “ nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho người dân; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phù
hợp...” với tổng mức vốn thực hiện từ ngân sách nhà nước là 193.155,6 tỷ đồng.
Ứng với từng nội dung, chính phủ cũng đã cũng đã ban hành các chính sách thực
hiện.
Tuy nhiên, nhìn về tổng thể, các chính sách tập trung vào lĩnh vực nông
nghiệp hơn là phát triển kinh tế nông thôn, dẫn đến còn có những hạn chế trong việc
triển khai các khâu trong quá trình thực hiện phát triển nông thôn từ giám sát, đánh
giá đến sự mất cân đối, thiếu hụt về nguồn lực tài chính trong phát triển hạ tầng
nông thôn, đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn thiếu đồng bộ, đào tạo nguồn nhân lực
không hiệu quả…
Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập khu vực kinh tế ASEAN như hiện nay, khu
vực nông thôn được xác định là khu vực bị tác động mạnh bởi các yếu tố như sự gia
tăng đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài, sự dịch chuyển nguồn lực lao động
140
nông thôn, quá trình đô thị hóa, phát triển thị trường nông sản…
Vì vậy, chính phủ cần xây dựng lại khung chính sách, xây dựng lại các tiêu
chí của chương trình nông thôn mới theo quy chuẩn của khu vực, ví dụ cần xây
dựng bộ tiêu chí định lượng theo tiêu chí của OECD trong việc đánh giá để đánh giá
các kết quả đạt được của chương trình nông thôn mới cũng như để tạo ra sự thuận
lợi hơn trong việc tiếp cận tài chính từ các tổ chức tài chính quốc tế , tiếp cận các
nguồn lực đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài. Bên cạnh đó, việc hoàn thiện
khung chính sách theo chuẩn khu vực cũng sẽ tạo ra sự đồng nhất trong việc so
sánh, và đánh giá những tác động trong quá trình hội nhập đến khu vực nông thôn,
đề từ đó hoàn thiện khung chính sách đối với chương trình này.
Một số cơ chế chính sách hỗ trợ đối với các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng
xa cần được hoàn thiện làm cơ sở thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu, đa dạng
hóa kinh tế nông thôn
Ba Lan cũng gặp những thách thức khi mà các vùng nông thôn phía Bắc còn
đạt năng suất thấp, thu nhập thấp hơn rất nhiều như Dolnosakie (0,8%) Pomoskile
(2%) Wielkopókie ( 1,5%)[80]. Giải pháp cho vấn đề này chính là chính phủ đã ưu
tiên vốn chương trình phát triển tập trung các giải pháp nhằm hỗ trợ các chương
trình phát triển du lịch nông thôn, chính sách ưu đãi thu hút các doanh nghiệp, chính
sách phát triển cơ sở hạ tầng kết nối khu vực nông thôn với đô thị, tạo ra sự kết nối
trong buôn bán hàng nông sản không chỉ với khu vực đô thị trong nước mà còn mở
rộng ra ngoài khu vực, hay chính sach phát triển chuỗi cung ứng ngắn hàng nông
sản đã tạo ra những thương hiệu hàng hóa vùng được nhiều người dân châu âu biết
đến.
Vì vậy, Việt Nam cũng cần có các chương trình, chính sách tín dụng cho
người nghèo, người yếu thế có thể tiếp cận được nguồn vốn vay ưu đãi, chính sách
về thu hút đầu tư FDI vào khu vực nông thôn hẻo lánh, chính sách ưu đãi cho lao
động nông thôn… tạo ra khu vực nông thôn năng động và hấp dẫn đối với các nhà
đầu tư trong và ngoài nước và phát triển bền vững.
Chính sách phát triển kinh tế nông thôn cần được hoàn thiện một cách đồng
bộ: Việc người dân Ba Lan đang triển khai rất có hiệu quả các chương trình ở cấp
141
cộng đồng đã minh chứng những thuận lợi trong việc tiếp cận các nguồn lực tài
chính ở cả cấp khu vực cũng như trong nước, cùng với đó năng lực quản lý của cấp
địa phương với việc khai thác và phát huy sức mạnh của cộng đồng được nhân
lên….từ đó tạo ra động lực phát triển kinh tế nông thôn. Chính vì vậy, Việt Nam
cần phải nhanh chóng rà soát lại các chính sách hiện hành để tạo ra sự minh bạch
cũng như sự thuận lợi hơn cho người dân trong việc tiếp cận các nguồn lực.
4.3.2 Hội nhập khu vực và quốc tê đối với phát triển kinh tế nông thôn.
Với hàng loạt hiệp định thương mại đa phương, song phương giữa Việt Nam và
các nước, khu vực đã đang và sẽ được ký kết trong thời gian tới đang mở ra nhiều
cơ hội cho quá trình phát triển kinh tế nông thôn. Tuy nhiên, thách thức đặt ra cũng
không nhỏ khi mà quá trình phát triển kinh tế nông thôn Việt Nam hiện nay vẫn còn
nhiều bất cập, năng lực cạnh tranh lĩnh vực sản xuất nông nghiệp còn yếu, cơ sở hạ
tầng khu vực nông thôn còn nghèo nàn, chưa kết nối được khu vực nông thôn và
thành thị, năng lực chuyên môn, kỹ năng của lao động nông thôn còn thấp… Để tận
dụng được các cơ hội cũng như hạn chế những tác động tiêu cực, Việt Nam cần
triển khai một số giải pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, nâng cao khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực nông nghiệp
Những thành công của Ba Lan trong sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản
vào thị trường khu vực với nhiều sản phẩm… chính là các gói giải pháp, chương
trình cụ thể về nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh đối với các trang trại như
tập huấn nâng cao năng lực quản lý cho các chủ trang trại, sản xuất hàng hóa nông
sản theo chuẩn khu vực, các chương trình phát triển kênh phân phối, mở rộng thị
trường khu vực…hay mạng lưới áp dụng đổi mới sáng tạo trong sản xuất nông
nghiệp, thiết lập và vận hành các trung tâm tư vấn nông nghiệp mà Ba Lan đã triển
khai trong thời gian qua đã và đang phát huy những hiệu quả tích cực.
Đối với Việt Nam, trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, mặc dù chúng ta đã
đạt được các thành tựu về tăng trưởng sản xuất, là một trong những quốc gia có kim
ngạch xuất khẩu cao, quy mô trang trại được tích tụ và phát triển…Song, hoạt động
sản xuất nông nghiệp Việt Nam hiện đang đứng trước những thách thức về năng
lực, quy mô sản xuất, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa đáp ứng
142
được các tiêu chí về vệ sinh an toàn thực phẩm... Nguyên nhân của tình trạng này là
sản xuất nông nghiệp của Việt Nam vẫn chủ yếu là nhỏ lẻ, manh mún, việc ứng
dụng khoa học công nghệ vào trong sản xuất và chế biến còn thấp…
Trong bối cảnh hiện nay khi mà tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang tạo
ra sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt, yêu cầu của người tiêu dùng đối với hàng
nông sản ngày càng cao (như chất lượng tốt, giá rẻ, bảo đảm an toàn vệ sinh thực
phẩm, bảo vệ được môi trường sinh thái...). Cùng với đó, mục tiêu phát triển sản
xuất nông nghiệp của Đảng đề ra là cần phải thực hiện sản xuất hàng hóa lớn, thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nông… thì với năng lực sản xuất như vậy,
chúng ta sẽ bị tụt hậu so với các quốc gia trong khu vực trong việc chiếm lĩnh thị
trường khu vực và thế giới.
Để sản phẩm nông nghiệp có thể cạnh tranh được trên thị trường, trong nước,
khu vực và quốc tế thì tất yếu Chính phủ cần nhìn nhận vấn đề nâng cao năng lực
cạnh tranh hàng hóa nông, lâm, thủy sản là điều kiện tiên quyết và bắt buộc để có
được sự phát triển bền vững khu vực nông thôn.
Thứ hai, phát triển đào tạo nguồn nhân lực nông thôn có tay nghề cao, đáp
ứng các yêu cầu về hội nhập quốc tế.
Cũng tương tự như Ba Lan, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn của Việt Nam hiện nay, cơ cấu lao động nông nghiệp và
nông thôn đang chuyển dịch theo hướng tích cực theo hướng giảm dần tỷ trọng lao
động nông nghiệp và tăng dần lao động trong lĩnh vực phi nông nghiệp như dịch vụ,
xây dựng, du lịch…Chiến lược phát triển nông thôn bền vững ở Việt Nam đã đề ra
mục tiêu đến năm 2020, tỷ trọng lao động nông nghiệp chiếm khoảng 25-30% lao
động xã hội. Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiêp, nông thôn đòi
hỏi phải được thực hiện bằng đội ngũ lao động đảm bảo về chất lượng, hợp lý về cơ
cấu và hiệu quả trong sử dụng. Tuy nhiên, trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn
hiện nay, nguồn nhân lực vừa thừa lại vừa thiếu, gây cản trở sự phát triển của nông
nghiệp, nông thôn.
Hiện nay, Việt Nam đã và đang triển khai các chương trình đào tạo nghề cho
lao động nông thôn trên phạm vi cả nước, trình độ người lao động bước đầu được
143
cải thiện và nâng lên. Song nhìn chung vẫn còn thấp so với yêu cầu đào tạo nguồn
nhân lực phục vụ tiến trình CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn, và đặc biệt là
thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực.
Nhiều cơ sở dạy nghề chưa quan tâm gắn đào tạo phát triển tay nghề với giải
quyết việc làm, chọn ngành nghề đào tạo chưa phù hợp với nhu cầu thực tế nên một
số lao động sau đào tạo chưa tìm được việc làm phù hợp…Việc chuyển đổi nghề từ
sản xuất nông nghiệp sang các lĩnh vực phi nông nghiệp, hay sử dụng thiết bị máy
móc trong sản xuất còn gặp nhiều khó khăn…Giải pháp cụ thể cho vấn đề này từ
kinh nghiệm của Ba Lan có thể áp dụng là:
Tăng cường công tác dự báo nhu cầu nguồn nhân lực nông thôn: Hiện tại,
vấn đề dự báo nhu cầu về thị trường lao động nông thôn vẫn chưa được thực hiện
hiệu quả, chưa kết nối được vấn đề cung cầu trong khu vự nông thôn. Các doanh
nghiệp phi nông nghiệp hiện vẫn rất khó khăn trong việc tuyển dụng được những
lao động có tay nghề cao.
Tăng cường đào tạo nghề cho lao động nông thôn về các lĩnh vực phi nông
nghiệp như du lịch, dịch vụ, sản xuất chế tạo… Lĩnh vực du lịch nông thôn tại Việt
Nam hiện còn rất mới mẻ đối với nhiều trang trại, đòi hỏi các chủ trang trại cần phải
được trang bị nhiều kỹ năng về hoạt động dịch vụ.
Việt Nam cần đầu tư ngân sách vào lĩnh vực giáo dục đào tạo nghề để nâng
cao chất lượng lao động cho người lao động. Chính phủ nên chú trọng đến đầu tư
hệ thống cơ sở dạy nghề, trang thiết bị dạy và và học để phù hợp với công nghệ sản
xuất tiên tiến.
Phân cấp quản lý các trường nghề đối với lao động nông thôn cần được thực
hiện và giao cho các bộ ngành. Áp dụng những bài học thành công của Ba Lan
trong lĩnh vực này thì Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn nên chịu trách nhiệm
thiết kế, soạn thảo, xây dựng nội dung chương trình đào tạo phát triển nghề gắn với
thực tiễn sản xuất tại khu vực nông thôn. Đồng thời, căn cứ vào tình hình thực tế
của địa phương cũng như nhu cầu của người lao động nên xây dựng các nghề đào
tạo cho phù hợp cả về nội dung và thời gian, tạo thuận lợi cho người lao động có thể
144
tham dự các khóa học nghề.
Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ học nghề, chính sách ưu đãi về miễn
giảm học phí, chính sách về cho lao động tại các khu vực miền núi, khu vực khó
khăn để khuyến khích người lao động tham gia nâng cao trình độ. Nhà nước cần tạo
điều kiện thuận lợi như đơn giản hóa các thủ tục hành chính để người lao động nông
thôn sau khi học nghề được vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm thuộc Chương
trình mục tiêu quốc gia về việc làm để tự tạo việc làm.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thiết lập các sàn việc làm bao trùm
đến các khu vực nông thôn, tạo điều kiện cho lao động nông thôn có khả năng tìm
kiếm và kết nối với các doanh nghiệp, trang trại trong và ngoài khu vực.
Thứ ba, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, tạo ra sự gắn kết chặt trẽ hơn
giữa khu vực nông thôn với khu vực thành thị.
Việt Nam cần nhận thức rõ đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn là
sự đầu tư cho phát triển, bảo đảm phát triển kinh tế và ổn định chính trị xã hội của
đất nước. Do đó, tăng đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn để phục vụ đời sống và
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp khu vực dân cư đóng vai trò quan trọng
trong việc thúc đẩy sự phát triển khu vực nông thôn.
Cũng như ở Ba Lan, việc đầu tư cơ sở hạ tầng khu vực nông thôn, tạo ra sự
kết nối giữa các vùng miền, giữa trong nước với khu vực, từ đó thúc đẩy quá trình
đầu tư của các doanh nghiệp phi nông nghiệp, tăng khả năng kết nối giữa khu vực
nông thôn với thành thi. Đặc biệt mạng lưới giao thông nông thôn tại Ba Lan hiện
nằm trong khuôn khổ dự án của EU về phát triển khu vực, hướng đến kết nối tới tất
cả vùng miền trong khu vực EU.
Chính vì vậy, trong bối cảnh hội nhập khu vực như hiện nay, tất yếu Việt
Nam cần tăng đầu tư vào kết cấu hạ tầng khu vực nông thôn ( hệ thống điện, thủy
lợi, giao thông, internet…) thực hiện kết nối vùng nông thôn với đô thị trong nước
và các nước trong khu vực.
Trong bối cảnh nguồn ngân sách còn hạn chế, Việt Nam cần nhanh chóng
hoàn thiện luật hợp tác công tư trong nông nghiệp, nhằm khai thác nguồn lực của
các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào hạ tầng nông
145
nghiệp.
Thứ tư, Tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ và sản xuất Tăng đầu tư
cho ngành công nghiệp chế biến, ứng dụng mạng lưới thông tin và hợp tác khoa học
công nghệ sẽ tạo ra động lực thúc đẩy lĩnh vực sản xuất nông nghiêp tự đầu tư
(Kinh nghiệm từ Ba Lan). Việc ứng dụng mạng lưới thông tin và hợp tác về khoa
học công nghệ trong khu vực của Ba Lan, đã tạo ra sự kết nối giữa các trang trại với
các cơ sở khoa học, các doanh nghiệp cung ứng sản phẩm công nghệ…trong bối
cảnh nguồn lực tài chính của các chủ trang trại còn hạn chế.
Bên cạnh đó, tác giả khuyến nghị Việt Nam cần rà soát lại chính sách tín
dụng nông thôn như đơn giản hóa các thủ tục vay vốn, mở rộng hơn cơ chế bảo lãnh
tín dụng qua Hội nông dân, Hội phụ nữ, thực hiện khung lãi suất thấp… nhằm tạo ra
động lực khuyến khích các trang trại sản xuất nông nghiệp, hộ nông dân vay mua
sắm thiết bị máy móc, xây dựng nhà kính cho sản xuất nông nghiệp.
Cuối cùng, thực hiện có hiệu quả quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn bằng việc đa dạng hóa các hoạt động phi nông nghiệp.
Kinh nghiệm của Ba Lan đã chỉ rõ, để cải thiện cuộc sống cho người dân khu
vực nông thôn cũng như tạo ra một khu vực hấp dẫn thì tất yếu cần có chính sách
khuyến khích quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Thực hiện gắn kết
giữa công nghiệp với nông nghiệp, thúc đẩy hoạt động dịch vụ, xây dựng khu vực
nông thôn… Đa dạng hóa kinh tế nông thôn chính là giải pháp hữu hiệu giải quyết
vấn đề dư thưa lao động nông thôn, tạo ra sự phát triển bền vững cho khu vực này.
Giải pháp cho vấn đề này, cụ thể:
Thực thi các pháp về việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, xây dựng trong
khu vực nông thôn, có chế hỗ trợ thu nhập cho lao động, hoặc áp dụng các hình
thức đặc thù trong chính sách an sinh về bảo hiểm cho lao động tại các doanh
nghiệp này. Kinh nghiệm của Ba Lan đã tạo ra sự chuyển dịch lớn các doanh nghiệp
từ khu vực thành thị về nông thôn qua việc thực thi có hiệu quả các chính sách thu
hút đầu tư, chính sách thuế,chính sách hỗ trợ lương lao động, chính sách bảo
hiểm…
Xây dựng mô hình trang trại du lịch nông thôn thông qua hoàn thiên cơ chế
146
tín dụng ưu đãi, cơ chế bảo hiểm bắt buộc đối với chủ trang trại, luật hóa các chủ
trang trại có chứng chỉ bằng cấp trong kinh doanh du lich nông thôn. Trong điều
kiện thời tiết, khí hậu tương đối khắc nghiệt, đất đai thổ nhưỡng cằn cỗi, khó khăn
trong sản xuất nông nghiệp đối với một số khu vực miền núi xa xôi, hẻo lánh…Khó
khăn trong việc thu hút các doanh nghiệp đầu tư thì giải pháp để phát triển kinh tế
nông thôn những khu vực này là phát triển các mô hình trang trại du lịch nông thôn.
Vì đây được xem là lĩnh vực tương đối mới ở Việt Nam, các trang trại du lịch chưa
tạo thành mạng lưới, chưa kết nối được với thị trường, cũng như không có nhiều
kiến thức về du lịch nông thôn. Cùng với các giải pháp ở trên, để đánh giá đúng
tiềm năng phát triển du lịch nông thôn, Việt Nam cần đẩy mạnh công tác đánh giá
tiềm năng du lịch từ vùng, gắn quy hoạch với quản lý nhà nước, đầu tư cơ sở hạ
147
tầng vùng du lịch.
KẾT LUẬN
Trên cơ sở những lý thuyết về phát triển kinh tế nông thôn được các quốc gia
phát triển và đang phát triển áp dụng trong triển khai các chương trình phát triển
nông thôn, luận án đã hình thành lên khung phân tích dựa vào việc làm rõ hơn
những khái niệm, đặc điểm và nội dung về phát triển kinh tế nông thôn, cũng như
những nhân tố tác động, tiêu chí đánh giá sự phát triển kinh tế nông thôn qua các
giai đoạn khác nhau.
Trên cơ sở khung lý thuyết, luận án đã phân tích rõ hơn về thực trạng phát triển
kinh tế nông thôn ở Ba Lan trong những năm đầu thế kỷ XXI, theo đó, chính sách
phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan được nhìn nhận là một chính sách hẹp, tập trung
theo từng chủ đề cụ thể trong khu vực nông thôn. Nhằm tận dụng được những
nguồn lực hỗ trợ tài chính, kinh nghiệm phát triển từ khu vực, Ba Lan đã nhanh
chóng thực thi một cách quyết liệt đối với việc điều chỉnh chính sách trong nông
nghiệp và phát triển nông thôn, như chính sách tích tụ đất đai, cổ phần hóa trang trại
nông nghiệp, chính sách tín dụng…
Những thành công về việc đáp ứng những tiêu chí gia nhập đã đưa Ba Lan trở
thành thành viên chính thức của Liên minh châu Âu, đây cũng được xem là bước
ngoặt lớn đối với sự phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan. Những thành công đó
được ghi nhận ở một số nét chính như: Tăng trưởng khu vực nông thôn giai đoạn
2004-2018 đạt mức tăng trưởng cao nhất trong khối các nước trong khu vực với
mức tăng bình quân 3,3%, tỷ lệ đóng góp GDP khu vực nông thôn đạt mức 30%
vào năm 2018 tăng só với 26,3% vào năm 2000, tỷ lệ thất nghiệp thất nhất… Tăng
trưởng GDP khu vực nông thôn cao, tạo ra thu nhập bình quân đầu người khu vực
nông thôn Ba Lan tăng đáng kể từ mức 10.556 USD năm 2000 lên 17.035 USD
2018. Cùng với đó, khả năng sản xuất, cung ứng sản lượng hàng hóa nông nghiệp
ngày càng tăng. Tác động của chính sách tích tụ ruộng đất đã tạo ra những biến
chuyển mạnh về tích tụ các trang trại có quy mô lớn, tao điều kiện cho việc ứng
dụng khoa học kỹ thuật, đổi mới sáng tạo vào trong sản xuất.
Phát triển sản xuất nông nghiệp không thể đảm bảo cho một khu vực nông thôn
148
rộng lớn của Ba Lan có thể phát triển bền vững. Chính vì vậy, song song với việc
thúc đẩy tăng cường khả năng cạnh tranh trong sản xuất nông nghiệp, thì mục tiêu
đa dạng hóa kinh tế nông thôn Ba lan cũng trở thành một trong những nội dung
xuyên suốt của chương trình phát triển kinh tế nông thôn Ba Lan trong những năm
gần đây.
Một số những thành tựu khác mà Ba Lan đã đạt được trong phát triển kinh tế
nông thôn là cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng nông thôn, phát triển chuỗi cung ứng
hàng nông sản, kết nối mạng lưới đổi mới trong nước với khu vực nhằm cung ứng
công nghệ cho các trang trại, doanh nghiệp sản xuất trong khu vực nông thôn. Mô
hình quản lý, giám sát, điều phối với vai trò của chính phủ, chính quyền địa phương
ở Ba Lan cũng có sự điều chỉnh khá mạnh mẽ với việc phân cấp trách nhiệm cụ thể
cho chính quyền địa phương nhằm thúc đẩy và phát huy những sáng kiến trong
công đồng…
Bên cạnh một số những thành công như vậy, thì hoạt động phát triển kinh tế
nông thôn Ba Lan cũng đang đặt ra khá nhiều thách thức mà Ba Lan phải giải quyết
như sự phát triển còn khá chênh lệch giữa khu vực phía Tây với khu vực phía Đông
Ba Lan; năng suất lao động nông nghiệp khác nhau dẫn đến thu nhập từng vùng Ba
Lan còn có sự biến động đáng kể.
Trên cơ sở làm rõ được những thành công và hạn chế trong phát triển kinh tế
nông thôn, luận án đã phân tích và làm rõ hơn những điểm tương đồng trong phát
triển kinh tế nông thôn giữa Ba Lan và Việt Nam như: Cùng thực hiện các chương
trình chuyển đổi nền kinh tế và hội nhập khu vực; cùng chịu những tác động của
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu; cùng triển khai các chương trình phát triển kinh
tế nông thôn…Tuy nhiên, bên cạnh những nét tương đồng, thì sự khác biệt giữa
Việt Nam và Ba Lan vẫn còn rất lớn. Trong khi Ba Lan nhận được nguồn tài chính
khổng lồ từ EU nhằm thu mua hàng hóa nông sản, hỗ trợ các trang trại, thực hiện
các chương trình đào tạo nghề, chương trình khới nghiệp của các doanh nghiệp
nông nghiệp… Thì Việt Nam vẫn phải vật lộn với những khó khăn về tài chính
trong việc triển khai các chương trình nông thôn mới. Bên cạnh đó, sự khác biệt về
149
thể chế, về chính sách giữa hai nước còn khá lớn…
Với việc phân tích và làm rõ những nét tương đồng và khác biệt giữa hai nước,
luận án đã đưa ra những hàm ý về mặt chính sách cho Việt Nam như thay đổi khung
thể chế về phát triển kinh tế nông thôn, phát triển thị trường lao động, áp dụng
mạng lưới đổi mới, chính sách thu hút hỗ trợ các doanh nghiệp khu vực nông
thôn…đây là những giải pháp hết sức hữu ích trong bối cảnh Việt Nam đang hội
nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới .
Tuy nhiên, do còn có hạn chế nhất định về việc tiếp cận nguồn tài liệu cũng
như khả năng tiếp cận thực tiễn các nhà hoạch định chính sách, các tổ chức thực thi
bên Ba Lan, nên luận án chưa có điều kiện tập trung đi sâu vào làm rõ hơn thực tiễn
của từng mô hình phát triển kinh tế nông thôn ở cấp địa phương của Ba Lan, hay
những trường hợp điển hình trong thu hút doanh nghiệp vào khu vực địa phương.
Những hạn chế trong luận án cũng là hướng mở ra cho những nghiên cứu tiếp
theo về chủ đề này theo phương thức tiếp cận từ dưới lên, kết hợp với phỏng vấn
định tính các trang trại, hộ nông dân, các cơ quan chính quyền địa phương… để có
được nhìn nhận rõ hơn về khả năng tiếp cận các nguồn lực từ chính phủ, khu vực
trong phát triển kinh tế nông thôn cũng như là hiểu rõ hơn các sáng kiến mà chính
150
quyền và người dân Ba Lan áp dụng./
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
1. Bùi Việt Hưng, Đào Thị Phương Liên ( 2020) “Chuỗi cung ứng ngắn sản phẩm
nông sản tại Ba Lan: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” Tạp chí kinh tế và chính
trị thế giới. Số 4.2020 Trang 31-41.
2. Bùi Việt Hưng ( 2020) “ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế
nông thôn Ba Lan” Tạp chí nghiên cứu châu Âu – số 7. 2020. Tr 49-61
3. Bùi Việt Hưng ( 2019) “ Tích tụ ruộng đất trong phát triển kinh tế nông thôn ở Ba
Lan trong những năm đầu thế kỷ XXI”. Tạp chí nghiên cứu châu Âu – số 5. 2019.
Tr.22-32.
4. Bùi Việt Hưng ( 2019) “Đổi mới sáng tạo trong nền kinh tế và doanh nghiệp Ba
Lan- Bài học kinh nghiệm Việt Nam” Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia - Đại học
KTQD, Nxb Lao động xã hội tháng 4/2019. Tr. 174 - 184.
5. Bùi Việt Hưng ( 2019) “Kênh phân phối và xu hướng tiêu dùng hàng nông sản tại
EU: Cơ hội và thách thức cho xuất khẩu nông sản của Việt Nam”. Tạp chí kinh tế
& chính trị thế giới số 3.2019. Tr.14-22.
6. Bùi Việt Hưng ( 2018) “Tác động Brexit đến chương trình phát triển nông nghiệp,
nông thôn của Liên minh châu Âu và Vương Quốc Anh” Tạp chí nghiên cứu châu
Âu – số 9.2018. Tr.74-84
7. Bùi Việt Hưng ( 2017) “Chuỗi cung ứng nông sản ngắn và hệ thống thực phẩm địa
phương tại EU: Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn” Tạp chí nghiên cứu châu Âu
151
– số 6-2017.Tr. 32-44.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tham khảo tiếng việt 1. ADB (Ngân hàng phát triển Châu Á) (2013a), “Nâng cao năng suất nông nghiệp ở Việt Nam: Chương trình cải cách”, dự án quốc gia CLMV số 12, tháng 8 năm 2013.
2. Vũ Trọng Bình (2010) Nghị quyết nông nghiệp, nông thôn , nông dân và triển
vọng phát triển chăn nuôi. http://www.futurelivestock.net/rudec/uploads/ckeditor/files/2_%20Vu%20Tron g%20Binh%20VN.pdf. tải ngày 10.2.2019.
3. Phạm Thị Thanh Bình (2017) “Phát triển nông nghiệp Việt Nam: Thành tựu và
hạn chế”. https://nongthonmoihatinh.vn/index.php/vi/news/Thong-tin-khac/Ban-ve-toc- do-tang-truong-cua-nganh-Nong-nghiep-Viet-Nam-61139/ tải ngày 10/2/2018 4. Phạm Thị Thanh Binh 2016.“Phát triển bền vững ở Việt Nam: Tiêu chí đánh
giá và định hướng phát triển” tạp chí tài chính năm 2016
5. Bộ Công Thương (2018) “ Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam 2018”. Nxb Công
Thương
6. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, UNDP (2010), Thúc đẩy tăng năng suất nông nghiệp và thu nhập nông thôn tại Việt Nam: Bài học từ kinh nghiệm của khu vực, Dự án: Hỗ trợ xây dựng chiến lược phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam thời kỳ 2011- 2020.
7. Bộ lao động thương binh xã hội (2015) “Kinh tế trang trại - một mô hình phát
triển bền vững trong sản xuất nông nghiệp. “http://www.molisa.gov.vn/vi/Pages/ChiTiet.aspx?IDNews=19555 Tải ngày 15 tháng 2 năm 2019.Bộ nông nghiệp &PTNT (2018) “bản tin ISG”
8. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2016), Báo cáo kết quả thực hiện kế
hoạch tháng 12/2016 ngành Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
9. Đỗ Kim Chung, PGS, TS. Kim Thị Dung (2015) “ Nông nghiệp Việt nam
hướng tới phát triển bền vững” Tạp chí Cộng Sản năm 2015
10. Mai Thanh Cúc (2005)“Giáo trình Phát triển nông thôn” Trường Đại học Nông
nghiệp Hà Nội
152
11. CỤC THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ QUỐC GIA ( 2017) Mô hình phát triển nông thôn mới trong thế kỷ 21. Công cụ cho các nước phát
triển.http://www.dostquangtri.gov.vn/Upload/Thongtinchuyende/20170808- 10081991.pdf. Tải ngày 15/12/2018
12. Đặng Minh Đức (2016) “Bảo hiểm nông nghiệp: Chính sách, thách thức và
kinh nghiệm từ châu Âu” Sách chuyên khảo, NXB KHXH
13. Nguyễn Minh Dũng (2011) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn trên quan điểm phát triển bền vững ở tỉnh Bạc Liêu. Luận văn Thạc sỹ.
14. Phạm Ngọc Dũng (2012), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Từ lý luận đến thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia 15. Nguyễn An Hà (2016), “ Chính sách phát triển nông nghiệp bền vững Ba Lan và hàm ý chính sách cho Việt Nam” Đề tài nghị định thư Viện Nghiên cứu châu Âu
16. Đinh Văn Hải ( 2014) “Giáo trình Kinh tế phát triển” NXB. Tài Chính 17. Nguyễn Văn Hung (2015)“ xây dựng nông thôn mới trong phát triển kinh tế -
xã hội tỉnh Bắc Ninh” Luận án TS. Học viện chính trị quốc gia
18. Trần thị Thu Hương “Cách tiếp cận về phát triển nông nghiệp và nông thôn trên thế giới”. Bài viết đăng trên bản tin số 28 Viện Khoa học Lao động và Xã hội
19. Trần tiến khải (2015) “ TỔNG QUAN CƠ SỞ KHOA HỌC CHO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM”. TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 3 (42) 2015
20. Vũ Trọng Khải (2015) “Phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam hiện nay, những trăn trở và suy ngẫm”. NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT HÀ NỘI – 2015
21. Lưu Đức Khải (2012) “Một số vấn đề cơ bản của kinh tế nông thôn Việt Nam”. 22. Nguyễn Xuân Khoát (2017) “ Phát triển nông nghiệp bền vững ở một số nền kinh tế chuyển đổi: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Luận án Tiến Sỹ Học viện KHXH Việt Nam
23. Nguyễn Bích Lâm 2018 “Vì sao năng suất lao động thấp”
https://baodautu.vn/vi-sao-nang-suat-lao-dong-thap-d83856.html Tải ngày 2 tháng 2năm 2018
24. Nguyễn Phượng Lê (2012), “Những lý luận cơ bản về “nông nghiệp- nông dân- nông thôn”: Thực tiễn áp dụng ở Việt Nam”, trong Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam: Từ chính sách đến thực tiễn, tr7- 27, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 25. Hoàng Thị Bích Loan , Đinh Phương Hoa (2016) “ Nông nghiệp Việt Nam sau
153
30 năm đổi mới”. Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (107) – 2016
26. Lê Quốc Lý (Chủ biên) (2012), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Vấn đề và giải pháp (Sách chuyên khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
27. MARD 2014d), Chiến lược FDI để thu hút FDI trong nông nghiệp, lâm nghiệp
và thủy sản đến năm 2030
28. Vũ Văn Nâm (2009), Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam, Nxb Thời
đại, Hà Nội
29. Trần Ngọc Ngoạn (2008) “Phát triển nông thôn bền vững, những vấn đề lý luận
và kinh nghiệm thế giới” Nxb KHXH
30. Ngọc Anh, 2018 “Ứng dụng công nghệ cao vào nông nghiệp: Hình thành các mô hình đột phá”. http://congthuong.vn/ung-dung-cong-nghe-cao-vao-nong- nghiep-hinh-thanh-cac-mo-hinh-dot-pha-103204.html. Tải ngày 31 tháng 3 năm 2018
31. . Bùi Minh Nguyệt (2016) Phát triển nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập. Tạp chí khoa học và công nghệ lâm nghiệp số 4 2016
32. 43. OECD (2015), Chính sách Nông nghiệp Việt Nam 2015, Báo cáo rà soát Nông nghiệp và Lương thực https://www.oecd.org/countries/vietnam/OECD- Review-Agricultural-Policies-Vietnam-Vietnamese-Preliminaryversion.pdf. tải ngày 10 tháng 2 2019
33. Lê Quang Phi (2007), "Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn trong thời kỳ mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
34. Hoàng Mạnh Phú (2016) “ Kinh tế nông thôn phát triển bền vững cở các huyện
phía tây Hà Nội”. Luận án tiến sỹ
35. Vũ Văn Phúc, Trần Thị Minh Châu (Đồng chủ biên) (2010), Chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân trong điều kiện hội nhập WTO, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
36. Hoàng Vũ Quang (2014) Đánh giá tác động của các chính sách xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam. Đề tài cấp Bộ Viện nghiên cứu chính sách nông nghiệp 37. Trần Hồng Quảng (2015), Kinh tế nông thôn trong xây dựng nông thôn mới ở huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội
38. Nguyễn Thị Tố Quyên (Chủ biên) (2012), Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong mô hình tăng trưởng kinh tế mới giai đoạn 2011-2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
154
39. Nguyễn Thị Tố Quyên (Chủ biên) (2012), Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong mô hình tăng trưởng kinh tế mới giai đoạn 2011-2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
40. Đặng Kim Sơn (2008), Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thôn, nông
dân trong quá trình công nghiệp hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
41. Đặng Kim Sơn (2008), Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam - Hôm nay
và mai sau, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
42. Đặng Kim Sơn (2013)“ Những thách thức và cơ hội mới của nganh nông
nghiệp Việt Nam.
Trung Quốc nghị Việt cho và
43. Đặng Kim Sơn. Bài học kinh nghiệm chính sách nông nghiệp nông thôn nông Nam. kiến dân http://ipsard.gov.vn/images/2010/04/Ban%20kien%20nghi%20chinh%20sach% 20so%203.pdf . Tải ngày 15/12/2018
44. Finn Tarp ( 2017). Đặc điểm kinh tế nông
thôn Việt Nam. https://www.wider.unu.edu/sites/default/files/Publications/Report/PDF/VARHS 16-report-2017-VIE.pdf Tải ngày 31 tháng 3 năm 2018
45. Hồ Thắng ( 2016) Phát triển tiển, thủ công nghiệp ở nông thôn tỉnh Thừa Thiên
Huế”. Luận án Tiến Sỹ
46. Nguyên Thanh (2017) “Nhiều hỗ trợ tài chính cho dự án nông nghiệp công nghệ cao” https://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/vief-2018/nhieu-ho-tro-tai- chinh-cho-du-an-nong-nghiep-cong-nghe-cao-3757989.html. Tải ngày 10 tháng 2 2019
47. Tổng cục Thống kê (2012), Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và
thủy sản năm 2011, Hà Nội
48. Tổng cục Thống kê (2016), “Tổng điều tra Nông thôn, Nông nghiệp và Thủy
sản năm 2016” https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=382&idmid=2&ItemID=18591 tải ngày 10.2.2019
49. Tổng cục Thống kê (2017), Báo cáo tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và
thủy sản năm 2016. https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=382&idmid=2&ItemID=18591 tải ngày 10.2.2019
50. Nguyễn Quang Thuấn và TS. Nguyễn An Hà (2005), “Các nước Đông Âu gia nhập Liên minh Châu Âu và những tác động tới Việt Nam”Đề tài cấp Bộ, Viện nghiên cứu Châu Âu
tich-tu-tap-trung-dat-dai-cho-phat-trien-nong-nghiep-o-viet-nam-trong-dieu-kien- moi.html
155
51. Nguyễn Quang Thuấn(2018) “ Tích tụ tập trugn đất đai cho phát triển nông nghiệp ở Việt Nam trong điều kiện mới” http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van- hoa-viet-nam/van-hoa-ung-xu-voi-moi-truong-tu-nhien/3486-nguyen-quang-thuan-
52. DƯƠNG THỊ TRANG (2018) “Thu hút nguồn vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam” http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao- doi/trao-doi-binh-luan/thu-hut-nguon-von-fdi-vao-linh-vuc-nong-nghiep-cong- nghe-cao-o-viet-nam-147769.html. Tải ngày 15/12/2018
53. Nguyễn Từ (2004), Nông nghiệp Việt Nam trong phát triển bền vững, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội
54. Nguyễn Từ (Chủ biên) (2008), Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với
phát triển nông nghiệp Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
55. Đinh Mạnh Tuấn (2008) “Nông nghiệp Liên minh Châu Âu sau 5 năm điều
chỉnh chính sách” Đề tài cấp Bộ Viện Nghiên cứu Châu Âu
56. Nguyễn Kế Tuấn (2015)“Công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam – Con đường và bước đi”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 57. UNDP ( 2010) " Báo cáo thúc đẩy tăng năng suất nông nghiệp và thu nhập nông
thôn tại Việt Nam bài học kinh nghiệm từ khu vực.
58. Vân Anh (2018) “Hút đầu tư vào nông nghiệp: “Át chủ bài” là cơ chế”
http://cafef.vn/hut-dau-tu-vao-nong-nghiep-at-chu-bai-la-co-che- 20180822072707245.chn. tải ngày 10.2.2019
59. Hoàng Việt (2013) “Giáo trình kinh tế nông thôn” Đại học kinh tế quốc dân 60. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2008), Từ điển bách khoa Việt Nam, Nxb Từ
điển Bách khoa, Hà Nội
Tài liệu tham khảo tiếng nước ngoài 61. A.Kowalski, M.Wigier, P.Chmieliński (2008) “Adjustment of Poland’s agriculture and food sector to challenges of agricultural policy of the European union
62. Alexandru Pavel (2019) “Determining Local Economic Development in the Rural Areas of Romania. Exploring the Role of Exogenous Factors - Xác định sự phát triển kinh tế địa phương trong Khu vực nông thôn của Romania. Khám phá vai trò của các yếu tố ngoại sinh”
63. Agnieszka Baer-Nawrocka, Jerzy Bartkowski.ets ( 2016). Rural report
2016.Scholar publich house. http://www.fdpa.org.pl/uploads/downloader/report2016eng-160914133701.pdf Tải ngày 15/6/2018.
64. Agnieszka Stacherzak et al, (2019) , State Interventionism in Agricultural Land
Turnover in Poland.
65. Agnieszka Baer-Nawrocka, Jerzy Bartkowski.ets ( 2018). Rural report
156
2016.Scholar publich house.
http://www.fdpa.org.pl/uploads/downloader/report2016eng-160914133701.pdf Tải ngày 15/6/2018
66. Agnieszka Wrzochalska (2014) “Rural economies in Central eastern European
countries after enlargement.
67. Alan Matthews (2007). Rural Development in the European Union: Issues and
Objectives
68. Anna Augustyn. Assessing the Impact of Rural Development Policies (RuDI) 69. Aleksandra (2013) Agrarian economic structure of agriculture holding in
Poland.
70. Andrzej Rosner (2017) Socio-economic development of rural areas in Poland. http://admin.www.irwirpan.waw.pl/dir_upload/site/files/Lukasz/MROW_en_20 17.pdf. Tải ngày 15/6/2018. C., and Maxwell, ‘Rethinking 71. Ashley, (2001) rural S.
development’. Development Policy Review, 19 (4), 395-425
to implement a Rural development model based on
72. Arnalte, E., and Ortiz, D. (2003) ‘Some trends of Spanish agriculture. Difficulties the multifunctionality of agriculture’. The paper belongs to the research project: ‘Structural change and agricultural policies: the case of farming systems specialized on Olive Grove, Arable crops and cattle’
73. Barbara Chmielewska (2009) “The Problems of Agriculture and Rural Areas in
the Process of European Integration
74. Camelia Burja, Vasile Burja (2014) Sustainable development of rural area: a
challenge for Romania
75. Clack Edward (2011)“The political economy of rural Development: Theoretical
perspective”.
76. Czytaj również (2018) Polish agri-food exports in 2017 77. Csaki, C., Nash, J., Fack, A., and Kray, H. (2000) ‘Food and Agriculture in Bulgaria: the challenge of preparing for EU accession’. World Bank technical Paper No 481, Washington, DC 78. CSO (2017) Population statistics. 79. CSO 2017 “rural_areas_in_poland_in_2016”.pdf 80. CSO (2017b), “Use of information and communication technologies in enterprises and households database”, goo.gl/jgiFpy. Tải ngày 15/6/2018.
CSO indicators” Population statistics
157
(2019) “Annual macroeconomic https://stat.gov.pl/en/topics/population/,
81. Daphne Meredith, et, al (2016) “Rural Economic Development in Canada with an Emphasis on the Western Canadian Landscape – Phát triển Kinh tế nông thôn khu vực phía tây Canada”
82. Emery N. Castle (2000)“The Economics of Rural places and Agricultural
Economic
83. European Commission (2014) “A harmonised definition of cities and rural
areas: the new degree of urbanisation”
84. Eurostat (2014) Statistic
.http://epp.eurostat.ec.europa.eu/statistics_explained/index.php/Population_str ucture_and_ageing. Tải ngày 15/6/2018
85. European Commission (2017d), “European Structural and Investment Funds
data”, https://cohesiondata.ec.europa.eu. Tải ngày 15/6/2018.
86. European Commission 2019 “ Stactistic Facsheet Poland” 87. F.Galli, G. Brunori (eds.) (2013) Short Food Supply Chains as drivers of
sustainable development. Evidence Document.
88. FDPA (2018) Rural Poland 2018 89. FAO (2015a), FAOSTAT (database), Food and Agriculture Organisation of the
United
90. Nations, Rome, http://faostat3.fao.org, accessed 10 November 2015 91. Garry Christensen, Richard Lacroix. “Competitiveness and employment: a
framework for rural development in Poland”
92. Gay S.H., Osterburg B, Baldock D.(2005) Recent evolution of the EU Common
Agricultural Policy (CAP): state of play
93. Gustav Ranis and Frances Stewart (1993)"Rural Non agricultural Activities in
Development: Theory and Application
94. Gustavo Anríquez and Kostas Stamoulis (2007) “Rural Development and
Poverty Reduction: Is Agriculture Still the Key?
95. Gustavo Bastos BragaI et al, (2016)“A methodology for definition of rural
spaces: an implementation in Brazil
96. Guogang Wang, Mingli Wang *, Jimin Wang and Chun Yang (2015) “Spatio- Temporal Characteristics of Rural Economic Development in Eastern Coastal China – Đặc điểm thời gian của sự phát triển kinh tế nông thôn ở vùng duyên hải phía đông Trung Quốc”.
97. Henk Renting,2002. Understanding alternative food networks: exploring the
role of short food supply chains in rural development
98. Ian Hodge and Peter Midmore (2007) “Models of Rural Development and
158
Approaches To Analysis Evaluation And Decision-Making
99. Iwona NURZYŃSKA (2012) . The rural development policy in Poland.
Synthetic picture of the new policy implementation results
100. Iwona Nurzyńska .The Rural Development Policy in Poland. Synthetic
picture of the new policy implementation
101. Iwona Nuzyka, Walnety Pocta (2014) Rural poland 2014
https://www.slideshare.net/fundacjafdpa/rural-poland-rural-development-report.
102. Janina Jędrzejczak-Gas, Anetta Barska (2018) Self-employment as a Form
of Entrepreneurship Development in Rural Areas in Poland. https://www.researchgate.net/publication/330363115_Self- employment_as_a_Form_of_Entrepreneurship_Development_in_Rural_Areas_ in_Poland
103. Jacques Marzin and Agnalys Michaud (2016) “Evolution of Rural
Development Strategies and Policies Lessons from Vietnam”
104. Jerzy Bański(2011) “Changes in agricultural land ownership in Poland in
the period of the market economy ,http://www.agriculturejournals.cz/publicFiles/35544.pdf.
105. Jerzy Wilkin(2016), Rural Poland report
http://www.fdpa.org.pl/uploads/downloader/report2016eng-160914133701.pdf Tải ngày 12 tháng 3 năm 2019
106. J. Kirk Ring( 2005) “ Business network and economic development in rural
communities in the US
107. Jean O. Lanjouw (2001)“The rural non-farm sector: issues and evidence
from developing countries
108. John Ise( 1920) “ What is Rural Economics- Kinh tế nông thôn là gì” The
Quarterly ournal of Economics, Vol. 34, No. 2 (Feb., 1920), pp. 300-312
109. Joop de Beer (2014)“New classification of urban and rural NUTS 2 regions in Europe- Quy chuẩn mới về các khu vực nông thôn và đô thị tại Châu Âu 110. Józef Mosiej(2014). Assessing the Impact of Rural Development Policies
(RuDI),
111. Kathy Miller (2002).Rural Definitions- Định nghĩa nông thôn” 112. Nemes, G. (2005) ‘The politics of rural development in Europe’. Discussion papers 2005/5. Institution of Economics Hungarian Academy of Science, Budapest
159
113. Mandl, I., Oberholzner, T., and Dorflinger, C. (2007) ‘Social capital and job creation in rural Europe’. The Europe Foundation for the Improvement of Living and Working Conditions, Denmark
114. Mark Drabenstott and Jason Henderson (2006)“A New Rural Economy: A
New Role for Public Policy
115. Mellor JW (1966)The economics of agricultural development. In The
Economics of Agricultural Development. Cornell University Press
116. Michael Kenny (2003)‘Defining Rural Development Policy 117. MARD 2016 Agriculture and rural economy in Poland 118. MARD 2014 Agriculture in 2014, Central Statistical Office (GUS), Warsaw
2015
119. MARD 2014 Rural Development program 2007-2013 120. Ministry of Agriculture and Rural Development : National Strategic Plan for
2007-2013 Rural Development
121. Michael E. Porter et, al, (2004) “Competitiveness in Rural U.S. Regions 122. Lukasz Jarock (2013), “International Land Acquisition in the Polish Legal
System and Its Impact on Economic Development” http://www.lawanddevelopment.net/img/2013papers/LukaszJarocki.pdf
123. OECD (2006) The New Rural Paradigm ; policies and governance 124. OECD (2018), OECD Rural Policy Reviews: Poland 2018, OECD
Publishing, Paris.
125. OECD (2018) “Inclusive Entrepreneurship Policies: Country Assessment
Notes. http://www.oecd.org/cfe/smes/POLAND-Country-Note-2018.pdf
126. OECD (2016k) Regional economy, OECD Regional Statiss database
http://dx.doi.org/10.1787/6b288ab8-en.
127. OECD 2009 “ THE ROLE OF AGRICULTURE AND
FARM HOUSEHOLD DIVERSIFICATION IN THE RURAL ECONOMY OF Poland
128. OECD (2006)“new rural policy: Linking up for Growth- Chính sách nông
thôn mới-Liên kết để tăng trưởng”.
European the for to
129. OECD (2018) OECD Rural Policy Reviews Poland 2018. 130. RDI (1999), Agricultural land markets in Lithuania, Poland, and Romania: Union, ngày tải
accession Implications http://www.eastagri.org/files/lithuaniapolandromaniardi_099.pdf 12/3/2019.
131. Łukasz Abramczuk et al (2018) Agricultural company and agricultural
holding towards climate and agricultural policy changes.
( 1995) Agricultural Development: Planning and
160
132. Raanan Weitz Implementation.
133. Rosa Gallardo-Cobos (2010) Rural development in the European Union: the
concept and the policy
134. Rosner, A. and M. Stanny (2017), Socio-economic Development of Rural Areas in Poland, Europejski Fundusz Rozwoju Wsi Polskiej and Instytut Rozwoju Wsi i Rolnictwa, Polskiej Akademii Nauk, Warsaw
135. Przygodzka, Renata Mioduszewski, Jarosław (2015), The Agricultural land
market in Poland and ít charactersistic, http://sulanet.uniag.sk/sites/default/files/research_publications/publication_0.p df
136. Saraceno, E. (2014), “Rural development policies in developing countries”, paper presented at the Workshop on Rural Development Policies: Lessons from the Korea’s Saemaul Undong and Other Country Experiences, 24 October 2014, Seoul, Korea.
137. Szczepan Figiel et al (2017), Innovation performance of the Polish agri-food
sector:key determinants and prospectsfor improvements
138. Valerie du Plessis, Roland Beshir (2002)Definitions of “Rural- Định nghĩa
nông thôn
139. URSZULA BUDZICH-TABOR (2018) “EU accession: Polish experience
with rural development- kinh nghiệm phát triển nông thôn Ba Lan
140. Wiggins S, Proctor S (2001)How special are rural areas? The economic implications of location for rural development. Development Policy Review 19(4) 427–436.
141. World Bank 2016 “Transforming Vietnamese Agriculture: Gaining More
from Less”
142. W.W. Rostow The Stages of Economic Growth: A Non-Communist Manifesto (Cambridge: Cambridge University Press, 1960), Chapter 2, "The Five Stages of Growth--A Summary," pp. 4-16.
143. W. ARTHUR LEWIS ( 1954) “Economic Development with Unlimited Supplies of Labour https://onlinelibrary.wiley.com/doi/abs/10.1111/j.1467- 9957.1954.tb00021.x truy cập ngày 10 tháng 4 2018.
144. William A. Ward (2002) “Theory in Rural Development: An Introduction
and overview” https://www.researchgate.net/publication/229779918_Theory_in_Rural_Develo pment_An_Introduction_and_Overview. 145. WIPO (2018) “Poland innovation index”
161
https://www.theglobaleconomy.com/Poland/GII_Index/.
.
162
146. Wold Bank ( 2016) “ Innovation is key to Growth in Poland” http://projects-beta.worldbank.org/en/results/2016/09/19/innovation-key-to- growth-in-poland tải ngày 16 tháng 4 2019.
PHỤ LỤC
Phục lục 01 : Việc làm trong lĩnh vực nông lâm nghiệp giai đoan 2010-2017
ở Ba Lan
Đơn vị Nghìn người
2010 2013 2015 2016 2017
Tổng 2376,1 2379,0 2384,8 2385,5 2386,0
Lao động trong trang trại tư nhân 2262,6 2262,6 2262,6 2262,6 2262,6
Thành viên của hợp tác xã 11,8 10,6 9,7 8,8 8,4
Nguồn: CSO 2018 “ Statistical year book of agriculture 2018
Phục lục 02: Lao động trong lĩnh vực nông nghiệp phân theo khu vực ở Ba Lan
2017 2016 2013 2010 Các khu vực
2015 2329990 2329314 2334918 2333383 2332003 83845 105069 305735 32844 177505 270479 300032 48320 255744 124265 62145 99483 147887 65469 209318 44461 83986 105110 305561 33308 177793 270524 299976 48569 255744 124428 62145 99381 147898 65469 209318 44220 83738 105086 305680 32984 177515 270613 298411 48904 255747 124418 61747 99343 148049 65072 209160 43886 83927 105381 305873 32927 177570 270680 297956 49137 255900 124208 61747 99647 148027 64899 208069 44042
163
Tổng 84304 Dolnośląskie 105314 Kujawsko-pomorskie 305778 Lubelskie 33233 Lubuskie 177638 Łódzkie 270722 Małopolskie 300048 Mazowieckie 48869 Opolskie 255827 Podkarpackie 124428 Podlaskie 62145 Pomorskie 99343 Śląskie 148040 Świętokrzyskie 65420 Warmińsko-mazurskie 209160 Wielkopolskie 44616 Zachodniopomorskie Nguồn: CSO 2018 “ Statistical year book of agriculture 2018
Phụ lục 03: Trang trại hoạt động trong lĩnh vực du lịch nông thôn năm 2014
theo từng khu vực nông thôn Ba Lan
Các khu vực Nhà ở du lịch/ Accommodation Căn hộ dụ lịch nông nghiệp/ Apartment
Dolnośląskie Kujawsko-pomorskie Lubelskie Lubuskie Łódzkie Małopolskie Mazowieckie Podlaskie Pomorskie Śląskie Świętokrzyskie Warmińsko-mazurskie Wielkopolskie Zachodniopomorskie TOTAL 616 234 456 108 165 1327 364 625 672 404 313 801 438 389 8016 7137 2836 3936 1143 1719 16 072 3610 5803 7595 5172 2855 7696 4952 4329 84 582
Nguồn: MARD (2015) “Agriculture and food economy in Poland”.
Phụ lục 04: Số lượng các doanh nghiệp hoạt động phi nông nghiệp ở Ba
Lan
Năm Tổng
Ba Lan
Khu vực thành phố
Khu vực nông thôn
2004 2009 2014 2004 2009 2014 2004 2009 2014 3 576 830 3 742 673 4 119 671 2 747 560 2 807 600 3 012 134 829 270 935 073 1 107 515
164
Nguồn: MARD (2015) Agriculture and food economy in Poland.
Phụ lục 05: Các lĩnh vực hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
phi nông nghiệp ở Ba Lan năm 2014
Đơn vị tính: Doanh nghiệp
Nông lâm thủy sản
Ba Lan Khu vực thành phố Khu vực nông thôn Tổng 4 119 671 3 012 134 1 107 515 75 601 20 803 54 798 Khác 3 165 687 2 426 847 738 819
Công nghiệp và xây dựng 878 383 564 484 313 898 Nguồn: MARD (2015) Agriculture and food economy in Poland.
Phụ lục 06: Tỷ lệ chi ngân sách cho các chương trình phát triển nông thôn ở Ba
Lan giai đoạn 2004- 2020
Nguồn: OECD (2018) “Poland rural review”
Phụ lục 7: Lý thuyết về chính sách thị trường lao động tích cực
Hộp: Lý thuyết về chính sách thị trường lao động tích cực (Active labour market
policy)
Chính sách thị trường lao động tích cực (ALMP) là một cơ chế để cải thiện kết quả cho
cả người lao động thất nghiệp và các công ty đang tìm kiếm lao động mới. Trọng tâm chính
của chính sách là cải thiện quy trình kết nối (chức năng thị trường) trong thị trường lao động
thông qua ba hoạt động cơ bản. (1) Phát triển các chương trình đào tạo lao động nhằm cung
cấp cho người lao động những kỹ năng mới hoặc được cải thiện trong tình trạng thiếu hụt;
(2)Tăng cầu đối với lao động bằng cách hỗ trợ người sử dụng lao động tăng tuyển dụng lao
động thông qua: Trợ cấp tiền lương hoặc cấp tính dụng đầu tư để tạo việc làm mới, khuyến
165
khích các doanh nghiệp tuyển dụng lao động hoặc cung cấp việc làm tạm thời trong khu vực
công; (3) Cải thiện quy trình phù hợp bằng cách cải thiện các cơ chế tìm kiếm việc làm, kết
nối cung cầu.
ALMP được các nhà hoạch định chính sách coi là chính sách quan trọng khi thất nghiệp
ở khu vực nông thôn mang tính cơ cấu bởi những thay đổi cơ bản trong thị trường lao động
đã làm thay đổi về số lượng và các loại hình công việcp, dẫn đến người lao động có kỹ năng
và không có kỹ năng đều không còn phù hợp với vị trí việc làm.
Thị trường lao động khu vực nông thôn mang những nét đặc thù, bởi cấu trúc thị trường
nhỏ, không linh hoạt và mang tính phân mảnh, khó kết nối.Thất nghiệp xẩy ra mang tính cơ
cấu và theo mùa vụ. Tại thị trường này, nhiều lao động có sẵn các kỹ năng nhưng vẫn bị dư
thừa do: Thay đổi công nghệ; năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp địa phương yếu; Các
doanh nghiệp thường có quy mô nhỏ và không sẵn sàng tiếp nhận công nhân mới bởi sự
cứng nhắc về hợp đồng lao động ( khó sa thải lao đông); nhận thức cơ hội phát triển doanh
nghiệp bị hạn chế; Thị trường lao động hoạt động kém hiệu quả, người lao động không biết
tìm kiếm công việc nào phù hợp; các công ty không biết tìm kiếm lao động có kỹ năng ở
đâu.
Chính vì vậy, để cho ALMP hoạt động hiệu quả, trước tiên cần thay đổi cấu trúc nền
kinh tế khu vực nông thôn, cải thiện các chiến lược phát triển kinh tế địa phương cần có sự
kết nối giữa chiến lược phát triển với thị trường lao động. Bên cạnh đó, việc thực hiện
ALMP sẽ giúp cải thiện điều kiện việc làm dựa vào: Số lượng, tỷ lệ tham và mức lương được
tăng lên.
ALMP cũng chỉ ra trợ cấp việc làm là không có hiệu quả, thay vào đó cần cải thiện cơ
chế hỗ trợ đào tạo và tìm kiếm viêc làm sẽ mang lại hiệu quả cao hơn. Đối với khu vực có
mật độ dân số thấp, những nỗ lực cải thiện thị trường lao động không nên tập trung vào ngắn
hạn là khuyến khích việc làm từ khu vực công, thay vào đó cần tập trung tăng cường sức
mạnh của các doanh nghiệp tư nhân ở cấp độ địa phương để các doanh nghiệp này có thể hấp
thụ nhiều hơn lao động, cung cấp lao động địa phương những chương trình đào tạo phù hợp
với cấu trúc nền kinh tế và thiết lập các dịch vụ tìm kiếm và cung cấp việc làm phù hợp, từ
đó tạo ra sự kết nối giữa người lao động và doanh nghiệp.
166
Nguồn: OECD (2018) “ Poland Rural Review.